Thứ Ba, 5 tháng 4, 2016

Mây Đã Qua Cầu

GIỚI THIỆU
Nhân ngày giỗ năm thứ hai (16-4-2016) của cháu Lê Đình Thụy Uyển, ái nữ của anh chị Lê Đình Lãm & Lê Nguyễn Hằng. Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy Cô, quý Đồng Môn và quý Thân Hữu bài "Mây Đã Qua Cầu", tác giả viết cho con gái của mình.
Cũng trong dịp này NHHN xin thắp nén nhang thơm tưởng nhớ và nguyện cầu cho hương linh cháu Lê Đình Thụy Uyển được viên mãn trong cõi vĩnh hằng.
Trân trọng giới thiệu,
NHHN




Mười giờ tối, như thường lệ, tôi lấy một quyển sách lên giường đọc trước khi ngủ.
Bỗng điện thoại reo, tôi thắc mắc ai lại gọi vào giờ này, nhấc máy lên, nghe tiếng của Thụy Hằng, đứa con gái lớn nhất:

-Má ơi, con… có một… tin buồn.

Rồi con òa khóc. Tôi nói vỗ về:

- Chắc vợ chồng có chuyện không vừa ý chứ gì, các cô cậu bây giờ... 

Con gái lại tiếp tục vừa nói vừa khóc:

- Thụy Uyển hình như bị … ung … thư. Nó mới đi vào cấp cứu, bác sĩ cho biết là có thể ...

Thụy Hằng nói chưa hết câu lại khóc to thêm. Tin dữ đến quá bất ngờ, tôi tưởng như trời đất vừa sụp đổ dưới chân và người bủn rủn muốn quỵ xuống trong sửng sốt và hãi hùng, tôi thảng thốt: “Không, em con còn quá trẻ, mới ngày hôm kia nó vẫn khỏe mạnh lắm mà.”

Tối thứ bẩy cách đây chỉ hai hôm, các con cháu tụ tập về nhà tôi ăn bữa cơm tối gia đình hằng tuần vui vẻ, khỏe mạnh, làm sao con gái có thể mang căn bệnh hiểm nghèo như thế được. Tôi tự an ủi, chắc bác sĩ gia đình chẩn bệnh sai, không thể nào như vậy được, phải chờ bác sĩ chuyên môn mới biết đích xác.

Hôm sau, tôi nấu một nồi phở mang xuống Morgan Hill, thành phố của hai cô con gái đã lập gia đình, cách nhà vợ chồng tôi khoảng ba mươi dặm, tôi nghĩ rằng con đang không được khỏe, ăn món gì có nước dễ nuốt hơn.

Nhớ lúc còn bé ở Hà Nội, chỉ mỗi lần đau ốm mới được Mẹ mua cho một tô phở và một chai nước ngọt Xá Xị Con Cọp. Tôi thầm nghĩ: “Sao lúc khỏe mạnh, thèm phở lại không được ăn mà cứ chờ lúc bị bệnh, miệng đắng ngắt ăn có ngon lành gì đâu.” Bố Mẹ tôi vẫn tin rằng ăn xong tô phở nóng, mồ hôi toát ra là hết bệnh.

Đem con đi nhà thương để khám nghiệm, bác sĩ chuyên môn xác nhận là Uyển bị ung thư vú và đã lan ra vài bộ phận khác. Tôi sẽ không bao giờ quên được gương mặt bối rối của ông bác sĩ khi lướt qua con gái rồi nhìn thẳng vào mắt tôi và nói những điều đau đớn đó. Tay tôi run rẩy, miệng khô đắng và cố nở một nụ cười héo hắt để an ủi con rằng đã có nhà thương với các bác sĩ chuyên môn tài giỏi sẽ trị cho con khỏi bệnh. Trong đầu tôi lúc ấy, đứa con gái đã trưởng thành và có gia đình riêng của nó, vẫn chỉ là đứa con nít cần được bao bọc, che chở, dỗ dành. Tôi phải cố gắng đến kiệt lực để đè nén những giọt nước mắt và những tiếng gào thét sẵn sàng nổ tung ra ngoài. Còn Uyển đã quá sợ hãi đến nỗi chân không còn đứng vững nữa, nằm liệt giường ở nhà thương suốt ba ngày không ngồi dậy được. Đến ngày thứ tư chuyên viên tập luyện thể chất phải giúp Uyển đứng dậy và tập đi bằng cái walker. Trong lòng tôi còn chưa chấp nhận hẳn, vẫn có những khe hở cho sự nghi ngờ, biết đâu chỉ là chẩn đoán bệnh sai lầm thôi, bác sĩ chứ đâu phải là Thần Thánh. Tôi giống như người sắp chết đuối cố bám víu vào bất cứ cái gì trong tầm tay, dù chỉ là một mớ lục bình nổi lêu bêu trên dòng sông.

Sau sáu ngày ở nhà thương với con và qua bao cuộc thử nghiệm với các bác sĩ chuyên môn, vợ chồng tôi đã chấp nhận sự thật nát lòng đó và nghĩ rằng chỉ có “thuốc tiên” mới cứu được con mình và chỉ còn trông mong vào phước đức ông bà và Trời Phật.

Nhìn con thiêm thiếp trong cơn mê, thỉnh thoảng lại rên lên nhè nhẹ. Đứa con gái mới trên 40 tuổi, yêu đời và sống hạnh phúc với mái ấm gia đình, chưa bao giờ nghĩ đến khám phòng ngừa ung thư cho đàn bà. Thế mà bây giờ… tôi không thể nào cầm được nước mắt nên đi vội ra công viên phía sau nhà thương để tránh làm quấy nhiễu giấc ngủ của con. Tôi chưa bao giờ phải rơi vào tình trạng tuyệt vọng như hôm nay, kể cả những ngày bỏ nước ra đi. Tôi cầu xin Trời Phật phù hộ cho con tai qua nạn khỏi dù có phải đổi cả quãng đời còn lại của mình. Sau bao nhiêu ngày mệt nhọc, thân thể rã rời, bước đi thất thểu, mắt hoa, tai ù, không còn nghe được chính bước chân của mình, tôi giống như một bóng ma giữa ban ngày. Tôi thấy thèm vô cùng một giấc ngủ, dù là giấc ngủ không bao giờ tỉnh lại, bỏ tất cả, không còn gì để luyến tiếc.

Tôi ngồi trên ghế đá dưới tàn cây rậm rạp và trôi vào giấc ngủ chập chờn. Có tiếng trẻ thơ cười khúc khích, rượt đuổi nhau, một khuôn mặt bé bỏng ngây thơ với hai con mắt tròn xoe như hai viên bi, cặp má phúng phính, đang nhìn tôi vòi vĩnh: “Má ơi, Má ơi…” Tôi dang tay ôm lấy con. Chỉ là một khoảng trống, như khoảng trống trong lòng tôi.
***
Nhà thương đề nghị cho Uyển vào nursing home có chuyên viên luyện tập về thể lực, vợ chồng tôi nhất quyết từ chối. Ở một nơi u sầu ảm đạm như thế mà phần lớn bệnh nhân là những người già yếu bệnh tật, thật không đành. Tôi đem con về nhà, tự tay chăm sóc mặc dù biết là chính bản thân sẽ phải cực khổ rất nhiều.

Việc phải làm đầu tiên là mang hai đứa cháu ngoại mới 9 và 6 tuổi về nhà để tiện bề chăm sóc. Suốt hai tuần lễ sau đó, mỗi ngày tôi phải đưa Uyển đi bệnh viện làm xạ trị (radiation) bộ não, rồi gặp bác sĩ chuyên môn để thử nghiệm thêm (ultra sound, CT scan, MRI…), chiều lại gặp chuyên viên thể lực tập cử động tay chân.

Mỗi sáng, phải vực con ngồi dậy, chuyền vào cái walker tập đi, rửa mặt cho con rồi chuẩn bị thức ăn sáng. Để tránh không nhầm lẫn, tôi ghi kỹ càng vào sổ ngày giờ tất cả những thứ thuốc cho Uyển uống trong ngày, vì có thứ thuốc phải uống lúc no, có thứ khi bụng trống, hay cách khi ăn vài tiếng đồng hồ. Khi con đi nhà vệ sinh, sau khi giúp con vào tới toilet, tôi ngồi trên cái ghế nhỏ ngay ngoài cửa phòng tắm để chờ khi con gọi thì phụ kéo con lên vịn vào walker. Mỗi ngày tắm rửa thay quần áo cho con, nấu ăn cho cả nhà. Khi con muốn đi nằm, đặt Uyển ngồi trên giường rồi tôi phải bưng hai chân con lên, kéo người thẳng thắn, đắp chăn cho con ngủ. Cứ như thế làm những động tác nặng nhọc một ngày mấy lần, tối đến tôi nằm vật xuống giường mỏi nhừ để rồi sáng dậy, lại bắt đầu một ngày vất vả. Một ngày như mọi ngày trên trần gian đau khổ!

Nhưng “Hy Vọng”, chính sự Hy Vọng con được hồi phục đã giúp tôi quên hết mệt nhọc cả thể xác lẫn tinh thần để chăm sóc cho con. Đôi khi, ngồi một mình, tôi ôn lại những lời nói và cử chỉ của các bác sĩ trị liệu để cố thắp lên cuối đường hầm một tia sáng, một tia sáng Hy Vọng.

Chỉ vài ngày sau khi hoàn tất xạ trị, Uyển không còn nhức đầu nhưng tóc bắt đầu rụng, mái tóc trước đây dày dặn, đen bóng nay cứ rơi lả tả trên sàn nhà, nhìn đầu con nhẵn nhụi, tôi thường quay lưng dấu những giọt nước mắt âm thầm rơi.

Một buổi tối, Uyển tâm sự:

“Má ơi, dù phải bỏ bộ phận nào trong người hay cắt hết hai cái vú con cũng không quan tâm, con chỉ xin Trời Phật cho được sống để nuôi hai đứa nhỏ thôi.”
Tôi xót xa trong dạ vì Uyển là đứa con gái có nhan sắc và thường lưu tâm đến vấn đề sắc đẹp, nghe Uyển thốt ra những lời bi thảm như vậy là tinh thần đã xuống đến tận cùng, nó chỉ còn năn nỉ cầu xin cho được sự sống.

Tôi vuốt lưng con vỗ về, an ủi:

“Mỗi người có một cái số, cha mẹ không thể chọn con cái cho mình, nhưng ba má sẽ làm hết sức để con mãi mãi ở bên gia đình.Hãy cầu nguyện, Trời Phật sẽ che chở con. Con đừng lo, giải phẫu thẩm mỹ bây giờ rất tiến bộ, má sẽ làm cho con hai cái vú đẹp hơn cái con đang có bây giờ, con cứ yên tâm chữa bệnh, mọi sự sẽ tốt đẹp thôi.”
Tôi quá đau lòng và than thầm: “Tội nghiệp quá! ông Trời ơi, sao ông không để tôi đau thế cho con tôi?”

Nhìn con gái mang cơn bệnh ngặt nghèo nằm đó vật lộn với tử thần,tôi có thể làm gì hơn để cho con khỏi bệnh và thoát chết ngoài việc săn sóc miếng ăn, giấc ngủ, thuốc thang và động viên tinh thần? Không biết lòng mẹ hy sinh và thương con bao la của tôi có làm động lòng ông Trời không? Hằng đêm tôi và bạn bè vẫn đọc kinh cầu nguyện cho Uyển, Trời, Phật và Chúa có nghe thấy không?

Lê Đình Thụy Uyển

Nhìn tấm hình trên chiếc bàn nhỏ ở đầu giường, con gái xinh đẹp, lộng lẫy trong bộ áo cưới ngày nào, làm sao tôi tưởng tượng nổi có một ngày, cũng cái hình hài ấy mới đây xinh tươi là thế, sống động là thế, mà bây giờ nằm kia, da mặt tái nhợt, nhịp thở yếu ớt, thiêm thiếp trong tiếng rên nho nhỏ, “cái gì đã xảy ra và hủy hoại tấm thân tràn đầy sức sống của Uyển?” Tôi vẫn thường tự hỏi và nước mắt lại tuôn rơi.

Ngày xưa khi còn bé, mặc dù là con gái, Uyển là đứa phá phách nhất nhà. Tôi có ba đứa con, mỗi đứa cách nhau 2 tuổi, nên lúc nào nhà cũng có tiếng động, cười khóc hoặc tranh giành, gây lộn nên khi nào thấy nhà im vắng không có tiếng ồn là phải đi tìm xem Uyển đang ở đâu và phá cái gì thì y rằng cô bé nếu không lấy đồ son phấn của mẹ bôi xanh đỏ đầy mặt thì cũng đang mang đôi giầy cao gót ngông nghênh đi trái chân hoặc vào ngồi trong tủ đựng quần áo của mẹ mặc thử hết bộ nọ đến bộ kia.

Đứa con gái nghịch ngợm ấy lại chính là người đã cứu cả gia đình tôi.

Trong những ngày tháng tư năm 1975, khi quyết định ở lại mặc dù đã có sẵn phương tiện để ra đi, vợ chồng tôi bảo nhau: “Nếu phải chết thì cùng nhau chết trên quê hương”. Hằng đêm mỗi lần nghe tiếng pháo kích từ xa, vợ chồng tôi chạy sang phòng bên cạnh để ẵm ba đứa con xuống dưới gầm cầu thang núp đạn. Đêm 25 tháng 4 năm 1975, cũng như mọi đêm trước, thay vì sang ôm các con chạy xuống lầu, Lâm, chồng tôi tưởng các con đã say ngủ nên bảo rằng: “Từ nay trở đi, tất cả vợ chồng con cái mình ngủ chung một phòng, có chết thì cùng chết với nhau.” Bỗng nhiên có tiếng la thất thanh: “Con không muốn chết đâu, ba đừng bắt con chết, con sợ lắm Ba Má ơi.” Lời cầu xin của Uyển lúc đó mới sáu tuổi, đã khiến vợ chồng tôi đổi ý và bốn ngày sau, cả gia đình tôi rời khỏi Việt Nam.

Khi mới đến định cư ở Virginia, một hôm trường học báo cho tôi biết rằng Uyển ngáng chân làm ngã một đứa học trò trên xe buýt của trường, hỏi ra thì Uyển bảo rằng: “Con đâu muốn gây lộn nhưng tự vì nó gọi con là “Yellow.”

Càng chăm sóc kỹ lưỡng cho Uyển bao nhiêu, thỉnh thoảng lòng tôi lại dấy lên mối ân hận là ngày xưa khi Mẹ của tôi đau, tôi vì bận gia đình và vấn đề sinh kế đã không thể chu đáo với Mẹ bằng một phần, tôi chỉ còn tự an ủi là các cụ xưa vẫn bảo “nước mắt chẩy xuôi” mà.

Bốn ngày sau, cứ mỗi ba tuần Uyển phải làm hóa trị (chemo therapy) một lần và mỗi lần truyền ba bịch thuốc.

Mũi chemo đầu tiên đã gây phản ứng làm Uyển rất mệt, rồi bị lở miệng, sưng phổi và mất nước nhiều quá nên phải vào nằm nhà thương sáu ngày. Sau khi được điều trị và ra khỏi nhà thương, Uyển có thể đi lại trong cái walker. Kết quả thử máu và bác sĩ khám nghiệm và điều trị cũng ngạc nhiên và thán phục sự hữu hiệu thần kỳ của dược phẩm ngày nay.

Từ ngày con gái bị bệnh, tất cả thời khóa biểu của cả gia đình đã bị đảo lộn, Lâm lo chăm sóc hai cháu ngoại trong lúc chúng nghỉ hè, riêng tôi dồn mọi sức lực cho con gái, đem con đi nhà thương, hẹn bác sĩ, đi thử máu, chăm sóc ăn uống, thuốc thang, vỗ về an ủi những khi con xuống tinh thần muốn bỏ cuộc. Rồi còn phải theo dõi hồ sơ bệnh lý và giấy tờ bảo hiểm sức khỏe, nhất là phải tranh đấu quyết liệt với hãng bảo hiểm khi họ từ chối không cho mua một thứ thuốc cần thiết hay phải rời khỏi bệnh viện khi mình chưa sẵn sàng. Nhưng điều đáng quan tâm nhất là mọi người trong gia đình đã chấp nhận sự thật, và cùng nắm tay nhau vượt qua nhiều chặng đường gian nan, mỗi ngày, mỗi lần hóa trị, mỗi lần biến chứng, mỗi lần con gái chênh vênh bên bờ vực thẳm. Nỗi sợ hãi ban đầu đã không còn nữa, thay vào đấy là sự quyết tâm, nhẫn nại, và đoàn kết để giúp đỡ Uyển.

Thấm thoắt đã đến lần chemo thứ hai. Đã có kinh nghiệm về phản ứng chuyến chemo đầu tiên, lần này bác sĩ điều chỉnh liều lượng và tin rằng mọi sự sẽ rất dễ dàng nhưng khi truyền được nửa bịch thuốc thứ ba thì cơ thể Uyển phản ứng dữ dội. Trước tiên, mình mẩy nổi đỏ rồi không thở được và nói lảm nhảm những gì nghe không rõ. Cô y tá người Đại Hàn phụ trách truyền chemo cho Uyển liền cho ngửi dưỡng khí trợ lực nhưng không thấy kết quả nên bác sĩ ra lệnh ngưng truyền chemo và đem Uyển xuống Phòng Cấp Cứu. Cô y tá nói với tôi là nếu chờ người ta đem cái giường nhà thương đến để di chuyển thì có thể mất từ 5 đến 15 phút, mà mỗi giây đều quan trọng cho sự sống chết của Uyển, nên cô ấy xốc Uyển vào xe lăn rồi đẩy, còn tôi chạy đằng sau kéo theo bình dưỡng khí.Cô ta muốn tự mình đem Uyển xuống phòng Cấp Cứu để chính cô giải thích tường tận với bác sĩ và y tá những gì vừa xảy ra và những điều cần làm cho Uyển thì sẽ vừa nhanh và chính xác hơn.

Xuống tới phòng cấp cứu Uyển lạnh run cầm cập trong khi nhiệt độ sốt lên đến 103 và vẫn nói lảm nhảm, tôi vội vòng tay ôm chặt con gái và áp mặt sát vào mặt con để chuyền hơi ấm. Các nhân viên nhà thương bắt đầu làm những thủ tục thường lệ, người lấy máu, kẻ chụp hình phổi, người khác đo biểu đồ nhịp tim, nhưng tôi nhất quyết yêu cầu họ trước tiên phải làm cho nhiệt độ cơ thể của Uyển giảm xuống rồi mới tiếp tục với các thủ tục nói trên vì tôi sợ để sốt cao quá lâu, con tôi có thể bị “brain damaged”. Ba viên Tylenol hạ nhiệt độ xuống 99 trong vòng 15 phút và chỉ nửa tiếng đồng hồ sau là Uyển tỉnh táo nói chuyện được với Má và y tá cũng như bác sĩ. Khi đã ổn định, họ chuyển Uyển lên phòng Cứu Chữa Đặc Biệt (ICU), Uyển được thở bằng mặt nạ dưỡng khí.

Ba hôm sau đến gặp cô y tá Đại Hàn phụ trách phần chemo cho Uyển, tôi ôm lấy cô và tỏ lời:

“Gia đình chúng tôi xin thành thực cám ơn cô.”

Cô ta khiêm nhường:

“Xin bà đừng nói thế, tôi chỉ làm bổn phận của mình thôi.”
“Vâng đúng vậy, nhưng cô đã dám và làm nhiều hơn bổn phận đòi hỏi, xin cô nhận nơi đây lòng biết ơn chân thành của gia đình chúng tôi, cô là một bà tiên đã xuống trần cứu mạng con gái chúng tôi.”

Cô y tá rơm rớm nước mắt:

“Tôi rất cảm động vì trong đời làm y tá, chưa ai nói với tôi một câu như thế.”

Mỗi ngày khi vào nhà thương, tôi đều gặp bác sĩ trực hỏi thăm tình trạng sức khỏe của con. Đến ngày thứ năm, dù bác sĩ xác nhận là sức khỏe của Uyển có tiến bộ tuy không nhanh như mình muốn, nhưng khi tôi nhìn mặt và nắn tay chân con thì thấy hình như mọi chỗ đều căng phồng và mắt sưng húp đỏ gay. Bác Sĩ cho biết “Con bà bị nhiễm trùng phổi (pneumonia), chúng tôi đã chuyền cho cô ấy ba thứ thuốc trụ sinh tốt nhất và mạnh nhất hiện có.”

Trưa hôm đó, một bà y tá già đã nói với hai Má con tôi rằng nếu tình trạng không thở được của Uyển cứ kéo dài thì có thể họ phải làm “intubation” tức là luồn một ống nhựa dẻo qua khí quản để giúp thông đường hô hấp, như thế là tình trạng đã đến hồi nguy kịch, phần chết nhiều hơn sống.

Ngày hôm sau, bà y tá lại hỏi tôi và Uyển rằng:

- Trong trường hợp cơ thể của Uyển không làm việc nữa (shut down) thì có muốn nhà thương làm mọi việc để trì hoãn hơi thở cuối cùng không? 

Tôi hét lên rằng:

-  Bằng mọi cách, duy trì sự sống cho con tôi. Bà nhìn xem, con tôi mới 44 tuổi, sống chưa được nửa đời người, sao lại nỡ để cho nó đi sớm như thế.

Trên đường về nhà, tôi vừa lái xe vừa khóc như mưa. Xe cộ hai bên đường nhộn nhịp nguợc xuôi mà lòng tôi đau như cắt. Ánh đèn đêm lấp loáng trong làn nước mắt, nhiều lần tôi không kiểm soát được tay lái. Tôi thầm nghĩ trên đời này chỉ có những người mẹ hân hoan chuẩn bị đón đứa con huyết thống ra đời, chứ có người mẹ nào được chỉ bảo cách bỏ con đâu. Còn tôi chỉ là một người đàn bà chân yếu tay mềm, làm thế nào có thể mạnh mẽ cứng rắn để “chuẩn bị” đưa con vĩnh viễn ra đi.

Đêm hôm ấy trong giấc ngủ chập chờn, tôi mơ thấy Uyển, hình như chỉ bốn, năm tuổi, đang vừa chạy vừa la: “Má ơi! Má ơi! Có bà cụ già bắt con đi theo và nói sẽ mua cà rem cho con, nhưng con sợ bà ấy lắm, con bảo bà ấy con chỉ muốn đi với Má thôi.” Tôi vội nắm tay con chạy như bay, đến khi mệt quá choàng thức dậy người ướt đẫm mồ hôi.

Khi trở lại nhà thương, tôi yêu cầu được gặp bác sĩ và nói: “Tôi biết quý vị đã dùng thuốc tốt nhất và mạnh nhất, nhưng bệnh con tôi vẫn chưa thuyên giảm và tôi không đủ kiên nhẫn chờ đợi lâu hơn nữa, tôi đề nghị nhà thương thêm, hay bớt hoặc đổi chất thuốc nào đó may ra mới có hy vọng.”

Sáng hôm sau, khi đến thăm Uyển, tôi thấy nét mặt con tươi hơn và không còn thở hổn hển đằng sau mặt nạ dưỡng khí nữa, cô y tá cho biết tối hôm qua bác sĩ đã ra lệnh truyền thêm một chất thuốc mới (có steroid) tăng sức mạnh cho phổi của Uyển để nó làm việc hữu hiệu hơn và việc này đã cứu mạng sống của Uyển. Cuối cùng bác sĩ đã xác nhận Uyển bị dị ứng với một trong ba bịch thuốc hóa trị đã gây ra “viêm phổi” (pneumonitis, lung inflammation) chứ không phải “phổi nhiễm trùng” (pneumonia, lung infection). Ba ngày sau, Uyển thở bình thường trở lại và được xuất viện.

Lúc đẩy con trên chiếc xe lăn từ nhà thương ra xe để đi về nhà, Uyển chợt reo lên:

- Má ơi, cây hoa ở dưới đất màu tím đẹp quá, nó tên gì thế Má?

Tôi đáp:

-  Chỉ là cây hoa dại thôi nên Má không biết tên.
Uyển tha thiết:
- Sau 12 ngày nằm trong bốn bức tường trắng toát của phòng bệnh, không có cửa sổ, không thấy gì ngoài những giây nhợ lòng thòng trên người của con, hôm nay được hít thở không khí trong lành, nhìn thấy trời xanh, mây trắng và những đóa hoa rực rỡ dù chỉ là hoa dại, con thấy lòng như bay bổng lên cao đến nỗi muốn reo lên rằng con yêu đời và con thương Má lắm, Má ơi.

Về đến nhà, Uyển lại thì thầm với Má:

- Má ơi, Má biết không,  hôm bà y tá già hỏi Má con mình muốn họ làm gì nếu con không còn thở được nữa, nghe thấy Má hét lên, con như chợt tỉnh một cơn mê và bỗng nhiên thấy mình phải chiến đấu với cơn bạo bệnh nhiều hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa để không phụ lòng hy sinh và yêu thương của gia đình và mọi người chung quanh, nhất là cái gia đình nhỏ bé của con mặc dù chỉ mấy phút trước đó con đã tuyệt vọng, chịu thua và tự bảo “I am ready to go.” Cám ơn tiếng hét của Má đã đánh thức con ra khỏi cõi chết.

Thấy con được bệnh viện chăm sóc tận tình, tôi chợt nghĩ mà xót xa cho đồng bào mình bên Việt Nam, nhà thương không đủ sức chứa, người bệnh và thân nhân nằm la liệt ngoài hành lang và cả dưới gầm giường, không những thế còn bị những nhân viên của bệnh viện mắng chửi thóa mạ và đòi tiền, chờ đến khi được y tá hay bác sĩ nhìn đến thì đã chết vì kiệt sức. Ôi thảm cảnh đó bao giờ mới chấm dứt!

Tuy thân thể của Uyển phản ứng quá mạnh trong hai lần chemo nhưng quả thật không những thuốc ấy đã chặn đứng sự gia tăng của các tế bào ung thư mà còn làm những cục u teo đi rất nhiều, nhờ thế mà sau khi được nhà thương chăm sóc 12 ngày, Uyển đã bình phục, khỏe mạnh hẳn lên, ăn uống được và đi đứng bình thường tuy bị giới hạn vì sức còn yếu.

Sáng nay, Uyển dạy sớm chiên trứng và nướng bánh mì cho hai Má con ăn sáng. Trước đây ba tháng, có nằm mơ tôi cũng chả dám ước mong điều này.

Đôi khi, nửa đêm thức giấc, tôi vẫn không thể tin được con gái còn quá trẻ lại bị bệnh như thế. Khuôn mặt bối rối của vị bác sĩ chuyên khoa, người đã báo tin sau khi chẩn bịnh cho con, lại hiện nguyên hình trong đầu tôi. Rất khó mà chấp nhận sự thật, một sự thật quá đau thương, quá bất ngờ. Hình ảnh đó sống động đến nỗi tôi không thể cầm được nước mắt mỗi khi đoạn phim dĩ vãng đó hiện ra trong đầu.

Trong những ngày nằm ở Phòng Cứu Chữa Đặc Biệt, tinh thần Uyển sa sút trầm trọng nên thường khó ngủ. Đêm hôm đó, bác sĩ trực là một người Trung Hoa còn khá trẻ, đi ngang qua thấy Uyển trăn trở nên ghé vào thăm. Ông rất rõ bệnh tình của Uyển và khi biết Uyển là một cô bé cùng gia đình chạy tỵ nạn Cộng Sản năm 1975, bácsĩ an ủi rằng:

“Tôi rất thấu hiểu tình cảnh của cô vì chính dì của tôi cũng là một nạn nhân Cộng Sản. Khi mới 16 tuổi, bà ấy đã cố bơi trốn qua Hồng Kông và bị bắt bỏ tù cả ba lần, nhưng hai năm sau, bà ấy liều mạng một lần nữa và cuối cùng đã đến được bến bờ mong ước. Người ta đã bằng lòng sẵn sàng đổi mạng sống lấy hai chữ tự do.”

Rồi ông tiếp:

“Có nhiều bác sĩ khi họ nói họ thông cảm với niềm tuyệt vọng cô đang chịu đựng thì phần lớn họ chỉ biết qua sách vở. Riêng tôi, khi tôi nói là tôi hoàn toàn hiểu thấu sự đau đớn thể xác cũng như nỗi lo âu của cô thì thật sự tôi đã nói với tất cả tấm lòng vì chính bản thân tôi đã nằm ở nhà thương hơn bốn tuần lễ và đã trải qua những đau đớn và tuyệt vọng như cô đang hứng chịu. Với quyết tâm, tôi đã thắng tất cả, rồi cô cũng sẽ như thế, cô Uyển.” Nói đến đây ông bác sĩ vạch cho Uyển xem một vết sẹo trên đầu, “thì ra ông ấy cũng đã từng bị ung thư.”

Những thổ lộ của vị bác sĩ đã an ủi Uyển rất nhiều khi biết rằng mình chỉ là một trong hằng triệu người phải bỏ nước ra đi và cũng không phải là người duy nhất đau khổ vì bị bệnh ngặt nghèo.

Có hôm Uyển quá yếu sức vì không thở được nên không ăn uống được thì một cô y tá trẻ người Việt Nam đã bảo Uyển rằng:

“Tôi biết người mạnh khỏe còn không nuốt nổi thức ăn nhà thương chứ đừng nói người bệnh, tôi có đem theo thịt bò kho Má tôi nấu, Uyển ăn chung với tôi nhá, rán đi mới có sức để chống lại cơn bệnh trầm kha này.”

Lời mời chân tình và thân thương của cô y tá khiến Uyển cảm động vô cùng.

Tiếp đó, cô y tá đã dời bàn làm việc của cô đến ngay cửa phòng của Uyển để lúc nào cũng theo dõi được tình trạng sức khỏe của Uyển.

Thường ngày xem truyền hình hay nghe đài phát thanh, người ta quá chán nản và thất vọng khi nghe và thấy nhan nhản những chuyện khổ đau, bi thảm, đâm chém giết người không lý do nên kết luận rằng thế giới này không còn người tốt nữa, mà chỉ toàn những người có quá nhiều thói hư tật xấu và làm những việc độc ác không còn nhân tính.

Riêng tôi, mấy hôm nay cứ thấy lòng bồi hồi xao xuyến mỗi khi nghĩ đến cô y tá Đại Hàn, người đã nhanh chóng nhìn ra tình trạng nguy ngập của Uyển và dám can đảm vượt quá bổn phận và trách nhiệm, tự động cùng tôi đem Uyển xuống phòng cấp cứu kịp thời để bảo toàn mạng sống cho Uyển.  Bây giờ lại nghe con gái kể về cử chỉ lo lắng và quan tâm đến bệnh nhân của bác sĩ và y tá trong nhà thương, tôi nhận ra rằng thế giới này không thiếu những bạn bè tốt và quanh ta vẫn có những người làm việc với tất cả lương tâm nghề nghiệp và tấm lòng bác ái để phục vụ nhân loại. Thiện tính luôn luôn có sẵn trong mọi người, chỉ cần phát triển và bảo toàn báu vật đó thôi.

Sau phản ứng dữ dội của lần hóa trị thứ nhì, bác sĩ quyết định loại bỏ thứ thuốc Uyển bị dị ứng trong những lần chemo kế tiếp và từ đó sức khỏe Uyển hồi phục, ăn uống khá hơn, có thể trở lại những hoạt động bình thường như đi chợ, nấu ăn và lái xe về Morgan Hill thăm các con mỗi tuần vài lần. Gia đình tôi hưởng một lễ Giáng Sinh vui vẻ, hạnh phúc.

Tuần lễ đầu tháng giêng năm 2014, Uyển bỗng nhiên bị nhức đầu, bác sĩ thử nghiệm thấy có nước trong óc nên đã giải phẫu hút nước ra và phải thay đổi phương thức chữa bệnh bằng cách ngưng truyền hóa trị và thay bằng thuốc viên. Cũng như trước đây, thuốc lại hiệu nghiệm như thần dược, chỉ một tuần lễ là Uyển trở lại cuộc sống bình thường, lái xe đi shopping và về thăm con.

Không như những bệnh nhân ung thư khác, Uyển rất thèm ăn nên đòi Má nấu cho đủ thứ, nào là bún bò, bún riêu, bún thang, bún bung, phở bò, phở gà, bò kho… Chiều chiều Uyển thường phụ bếp với Má.

Uyển rất thích nấu ăn, chiều thứ sáu tuần thứ nhì của tháng 4,chỉ mười ngày trước khi mất, Uyển vẫn cùng tôi lăng xăng đi ba, bốn chợ bán thực phẩm mua thức ăn để hôm sau Uyển sẽ chính tay nấu bữa tối cuối tuần theo truyền thống gia đình mà tôi đã gìn giữ mấy chục năm qua với tất cả con cháu.

Bỗng nhiên mấy ngày sau, lá gan của Uyển vốn đã bị ung thư nay lại bị nhiễm quá nhiều chất độc của thuốc trong hơn chín tháng chữa trị đã không còn hoạt động đúng mức.

Bị ung thư nặng nhiều bộ phận trong cơ thể như thế mà điều kỳ diệu là Uyển đã sống khỏe mạnh được hơn nửa thời gian và cái may mắn là ngoài những ngày suýt chết vì dị ứng với thuốc, Uyển không hề bị đau đớn lăn lộn hay nằm liệt giường, ói mửa sợ mùi thức ăn như những bệnh nhân ung thư khác khi làm hóa trị, Uyển chỉ bị yếu phải dùng walker để di chuyển một vài tuần lễ mà thôi.

Khi bác sĩ cho biết cuộc đời của Uyển chỉ còn tính bằng ngày thì tôi đã la lên rằng:

-       Bác sĩ nhìn con tôi xem, nó vẫn còn sáng suốt, không đau đớn vật vã, không hôn mê, nó vẫn cười nói, ăn uống ngon miệng như thế kia thì làm sao con tôi có thể ra đi trong nay mai được.

Và bất hạnh thay! bác sĩ đã nói đúng, ba ngày sau, lá gan ngừng làm việc.

Chỉ mới ngày hôm trước, chồng con của Uyển đã vào thăm và ba mẹ con còn tặng quà và cười nói với nhau, thế mà ngày hôm sau, Uyển đã lìa cõi trần thế.

Trong giây phút con hấp hối, tôi vuốt ve tay con: “Uyển ơi, nếu bây giờ là lúc con phải ra đi, thì con hãy yên tâm theo Phật, ba má và toàn thể gia đình cũng như bên nội các cháu sẽ cùng với chồng con trông nom, chăm sóc và dậy dỗ hai đứa nhỏ nên người với tất cả lòng yêu thương, con hãy yên tâm.” Hình như Uyển vẫn nghe và hiểu những điều mẹ nói nên đã mở hai mắt thật lớn như để thâu lại hình ảnh của những người thân yêu lần cuối rồi từ từ nhắm mắt lại.Tôi đã vuốt mắt con trong nghẹn ngào.

Tim tôi tan nát, khóc không nên lời, tôi đã mất đi đứa con ngoan ngoãn, kiều diễm, tài năng và kiên cường. Sự dịu dàng, khả ái, và lòng khoan dung với tất cả mọi người của Uyển đã làm động lòng bao nhiêu trái tim bạn bè thân quyến. Uyển đã nhẹ nhàng thanh thản ra đi trước sự chứng kiến của bố, mẹ, cậu, chị, em trai và bốn người bạn gái thân thiết nhất. Thượng Tọa Thích Viên Thông đã kịp thời đến nhà thương Stanford đọc kinh cầu nguyện cho Uyển.

Trong suốt gần mười tháng chống chọi với bệnh tật, đã ba lần Uyển nằm chênh vênh trên lằn tử sinh mà chưa bao giờ Uyển than vãn hay oán hận cuộc đời như những người Mỹ khi gặp nguy khốn thường hỏi “why me?”  Lúc nào Uyển cũng cắn răng can đảm chịu đựng nỗi đau đớn nghiệt ngã, hãi hùng như chấp nhận một số mạng không may, một cái nghiệp phải trả.

Sau đám tang, tôi đã đem tro cốt của Uyển về chùa Từ Lâm ở gần nhà để con được hằng ngày nghe kinh kệ và tôi có thể ghé thăm con bất cứ lúc nào.

Cảnh chùa tĩnh mịch, thanh thoát, khiến tôi nhớ lại, đã bao năm, vào những ngày đầu xuân cùng con đi lễ, dâng hương, bây giờ cũng vào mùa xuân, con đã yên nghỉ trong hũ tro này. Lòng tôi lại dâng lên bao nỗi bi thương.

Bài kệ của Thiền Sư Mẫn Giác lại vang lên trong đầu:

“Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, sân trước, một cành mai.”

Vạn vật luôn chịu sự chi phối của luật tuần hoàn, xuân đến thì hoa nở, xuân đi thì hoa rụng, con người có sinh thì có diệt. Nhưng “Chết” không phải là chấm dứt mà chỉ là bắt đầu một sự sống mới vì muôn loài vẫn tái sinh như cành mai mới nở đêm hôm qua khi mùa xuân đã tàn.

Vuốt ve hũ tro của Uyển trên bàn thờ, tôi thì thầm “Con gái cưng của Má ơi! Lúc nào mọi người trong gia đình cũng sẽ vẫn yêu thương và nhớ đến con, nhớ đến niềm hãnh diện và 45 năm hạnh phúc con đã mang đến, thôi con hãy ngủ một giấc ngủ bình yên, không lo lắng, không bệnh tật, không đau đớn, không muộn phiền.”

Con ơi! Con là nhành mai mới nở trong tâm hồn Má, rực rỡ và yêu kiều, thanh thoát. Dù ở đâu, hoàn cảnh nào, Má cũng mỉm cười ngắm cành mai ấy, mà vượt qua mọi phiền não trong cuộc sống. Đời người là một chiếc cầu, như Phật đã dạy, con đã qua chiếc cầu đó, một cách nhẹ nhàng, êm ái, Má rồi cũng sẽ bước qua như con thôi.

Hãy ngủ yên nghe con!

Lê Nguyễn Hằng
Tháng 5, 2014

"Mây Đã Qua Cầu": Thơ Phạm Thiên Thư




Tác giả: Lê Nguyễn Hằng

Xin mời quý vị click vào link ở dưới để thưởng thức nhạc phẩm Lòng Mẹ
Lòng Mẹ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét