Thứ Ba, 30 tháng 4, 2019

Hồi Hương Của Tầu Việt Nam Thương Tín


Tầu Việt Nam Thương Tín

HỒI HƯƠNG CỦA TẦU VIỆT NAM THƯƠNG TÍN
Vương Thế Tuấn & Trần Đỗ Cẩm

Trong bối cảnh rối loạn của những ngày cuối tháng 4/75 thì sự ra đi của Hạm Đội HQVN là một cuộc di tản hoàn hảo đã làm HQVN hãnh diện. Nhưng bên cạnh những hạnh phúc tột cùng của những người ra đi được đầy đủ gia đình thì bên cạnh đó là nỗi bất hạnh không tả siết của một số các Hạm Trưởng và các Thủy Thủ Đoàn đã không đem được gia đình vợ con mặc dù họ đã chu toàn nhiệm vụ thật xuất sắc trong chuyến hải hành cuối cùng.

Do đó khi viết về Hạm Đội ra khởi chúng ta không thể nào bỏ qua chiếc Thương Thuyền Việt Nam Thương Tín vì thủy thủ đoàn của con tàu định mệnh này được thành hình từ các Hạm Trưởng và Đoàn Viên kém may mắn. Sau khi chính phủ Hoa Kỳ đồng ý chọn chiếc tàu VNTT làm phương tiện cho những người muốn hồi hương. Vào trung tuần tháng 8 năm 1975 trong số 200 cựu nhân viên HQ tại trại hồi hương Asan. Cựu HQ Trung Tá Trần Đình Trụ TLP/HQ/V5DH đã được mọi người bầu làm Thuyền Trưởng và một danh sách thủy thủ đoàn được thành hình dựa theo các ngành nghể của từng người. Anh Trần đình Trụ K 8 HQNT đã từng làm HT của nhiều chiến hạm: PGM, LSSL-229, LSM -403, LST. Cuối năm 1972 anh được chỉ định làm Hạm Trưởng để nhận lãnh Tuần Dương Hạm Ngô Quyền HQ 17 tại Philippines do Hoa Kỳ chuyển giao. Chức vụ cuối cùng của anh là TLP/HQ/V5DH. Đêm 29/4 trong giờ hấp hối của Saì Gòn anh đã ra đi từ BTL/HQ trên HQ 406. Khi tới Guam vì kẹt gia đình anh đã xin hồi hương bằng tầu VNTT. Phần tôi vào đầu năm 1967 sau khi đi thực tập Đệ Thất HĐ về tôi được thuyên chuyển xuống chiếc HQ 229 cũng là lúc anh Trụ rời chiến hạm để đảm nhiệm một đơn vị trên bờ. Anh Trụ là vị HT đầu tiên của HQ 229 và tôi là HT thứ 13 và cũng là HT cuối cùng của HQ 229. Như một định mệnh chúng tôi đã chở thành TT và TP của chiếc tàu hồi hương Việt Nam Thương Tín (VNTT).

Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta cần tìm hiểu lý lịch và những hoạt động của tầu VNTT trong những ngày cuối Tháng Tư Đen. Sau đó sẽ đi sâu vào chi tiết về chuyến trở về của con tầu định mệnh này.

Thương thuyền Việt Nam Thương Tín 1, thường được gọi là tầu Việt Nam Thương Tín (VNTT) là chiếc tầu viễn dương đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) mua lại năm 1968, thuộc Công Ty Việt Nam Hàng Hải (VNHH - Vietnam Marine Lines Co, Inc), Tổng Giám Đốc VNHH là ông Dương Liên, trụ sở ở đường Tôn Thất Đạm. VNHH là một công ty đầu tư trực thuộc ngân hàng VNTT; ngân hàng này là phân bộ chuyên về thương vụ của Ngân Hàng Trung Ương Quốc Gia VN, bắt đầu hoạt động kể từ tháng giêng năm1956 với số vốn 200 triệu đồng trích từ ngân hàng trung ương. Ngân hàng VNTT sau phát triển thành ngân hàng ngoại thương lớn nhất của VNCH, ông Lê Tấn Lộc là Tổng Giám đốc cuối cùng. Huy hiệu quen thuộc của ngân hàng VNTT là trương mục tiết kiệm "Con gà ấp trứng vàng".

Tầu VNTT do công ty Finantieri của Ý đóng vào năm 1956 mang tên Pietro Canale. Năm 1962 hãng Nouvelle Compagnie Havraise Peninsulaire của Pháp mua lại và đổi tên tàu thành Ville de Diego-Suarez 2 (tên của một hải cảng nổi tiếng ở cực bắc của đảo Madagascar). Được ba năm thì tầu sang tên cho Panama, đặt là Sonia. Năm 1968 hãng VNHH của VNCH mua lại.

Tầu VNTT dài 148m, rộng 19m, vận tốc 14 hải lý, trọng tải 10965 tấn.. Tầu được trang bị với 1 chân vịt, 1 máy chính 2 thì của hãng FIAT, mạnh 5,500 mã lực, 3 máy phát điện.. Thủy thủ đoàn gồm từ 42 đến 45 người với 14 Sĩ quan. Vào năm 1975, Thuyền Trưởng (Quan Tầu) tầu VNTT là ông Võ Kiết Triệu, Thuyền Phó (Goòng) là Dương Tấn Kim Sanh, Cơ Khí Trưởng (Xếp Máy) là Phùng Văn Gạt.

Tầu VNTT thường ghé Phi Luật Tân chở đường (sugar) xuất cảng sang Hoa Kỳ; chuyến về thường chở sản phẩm nông nghiệp như gạo, bắp, lúa mì … từ Hoa Kỳ chở về Sài Gòn. Ngoài những chuyến hải hành viễn dương, tầu VNTT còn chạy đường cận duyên, chở gạo ra các tỉnh miều Trung VN.

Thương Cảng Sài Gòn

Vào hạ tuần tháng 2-75, tầu VNTT ghé Phi Luật Tân và Nhật Bản. Sau đó, trên đường đi Úc để lấy sữa bột. Đần tháng 4, vì tình hình chiến sự sôi động ở miền Trung, thuyền trưởng Vỏ Kiết Triệu xin cho VNTT trở về Việt Nam để thủy thủ đoàn có dịp về đoàn tụ với gia đình trong lúc tình thế sôi động để lo cho thân nhân. Mãi 2 ngày sau trong lúc chuẩn bị đón hoa tiêu để dẫn vào cảng Sydney, VNTT nhận được chỉ thị từ công ty phải trở về Sài Gòn gấp, lúc đó là ngày 10-4-1975. Ngày 17 tháng Tư 1975 tần VNTT về đến Sài Gòn, cột vào hai phao nổi bên ngoài kho 5 bên Khánh Hội thuộc cảng Nhà Rồng.

Cho tới ngày 29-04 tình hình nghiêm trọng, hàng trăm người đã tụ tập đông đảo, mát trật tự ở các ở bờ sông Bạch Đằng và Khánh Hội nơi các tàu buôn còn đậu ở đó. Đêm 29/30-04, các chiến hạm Hải Quân ra khơi. 8.00 giờ sáng ngày 30-04, tầu rời phao 1 ngoài sông vào cập bến kho 5 Khánh Hội. Thuyền trưởng Võ Kiết Triệu rời tầu về đón gia đình, trong lúc nhiều gia đình có liên hệ với tầu VNTT đã chờ sẳn ở kho 5 cùng với một số người may mắn vào được bên trong cổng số 5 hối hả lên tàu.

Tổng Thống Dương văn Minh ra lệnh buông súng lúc 10.00 giờ. Khoảng gần trưa, trong khi chờ đợi gia đình Thuyền Trưởng, một số quân nhân trên tầu hối thúc và áp lực thủy thủ đoàn phải rời bến gấp. Lúc nầy tình hình đã rất hỗn loạn, nhiều người chen lấn nhau lên tầu nên phải chặt giây tách bến. Khi tầu đã rời cầu, gia đình của thuyền trưởng và thuyền phó cũng vừa đến, nhưng tầu đã xa bờ nên bị bỏ lại, do đó sĩ quan phụ tá (Dịch) Nguyễn Nhứt Thống trở thành Quan Tầu (thuyền trưởng) đưa tầu ra khơi.

Những gia đình có liên hệ với VNTT đã chờ sẳn ở kho 5 để theo VNTT1 sáng ngày 30-04-1975 gồm gia đình ông Nguyễn Nhứt Thống, gia đình ông Dương Liên, TGĐ Công Ty VNHH, ông Lê Tấn Lộc TGĐ Ngân Hàng VNTT, ông …Cơ, GĐ.. Ngân Hàng VNTT. Trong số 750 hành khách có ông cựu Bộ Trưởng Kinh Tế Châu Kim Nhân, 1 Thẩm Phán, 1 Dân Biểu, 2 Hoa Tiêu tàu biển, 2 Bác Sĩ, nữ Ca sĩ Phương Hoài Tâm, tất cả còn lại là Quân, Nhân, Công, Cán các cấp của VNCH trong số có 5 Đại Tá.

VNTT không có dự định di tản gia đình hay ít ra là Thủy Thủ đoàn không nghe hay nhận được chỉ thị nào từ ban giám đốc. Nhưng vì phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích và hổn loạn vào ngày chót, máy bay không cất cánh được, quí vị của VNTT và của VNHH đã không được không vận, nên con tàu VNTT1 là phương tiện cứu cánh cuối cùng của quí vị đó và cũng là cái may mắn cho số hành khách tức thời của sáng ngày 30-04. Trong khi đó, phần đông thủy thủ đoàn và gia đình của họ không có cơ hội để cùng di tản với VNTT.

Tầu vừa qua khỏi cầu Tân Thuận thì bị B 40 bắn từ phía Thủ Thiêm làm lủng một lổ dưới mặt nước. Khi đến Nhà Bè, tầu bị bắn lần thứ 2 cũng từ phía bên trái, nhưng không tổn thương nhân mạng. Vừa qua khỏi Nhà Bè, tầu lại bị bắn lần thứ 3 bằng thượng liên bắn thẳng vào đài chỉ huy nơi một số hành khách đang ngồi núp phía dưới làm cho nhà văn Chu Tử và một em bé tử thương và 20 người khác bị thương. Sau đó VNTT tăng máy tối đa, ra khỏi sông Sài Gòn, tới Vũng Tàu.

Trên đường tới gặp chiến hạm Hoa Kỳ thuộc Hạm Đội 7 ngoài hải phận quốc tế, một buổi lể thủy táng đơn sơ cho hai nạn nhân tử thương đã diễn ra với sự hiện diện của đại diện Thủy Thủ đoàn và hành khách trên tàu. Dựa vào báo cáo của Thuyền Trưởng về tình trạng của VNTT, điều kiện an toàn của tầu và hành khách, số người bị thương, số lượng hành khách… Hạm Đội 7 chỉ thị VNTT trực chỉ Subic Bay.

Sáng 03-05-1975, 10.00 giờ, VNTT đến Subic Bay, Phi Luật Tân. Số người bị thương được đưa lên trại Subic Bay điều trị. Tầu được tạm thời vá lỗ thủng ở vỏ tàu, tiếp tế thực phẩm cần thiết và được chỉ thị tiếp tục hành trình đến đảo Guam. Tầu đến Guam ngày 09-05-1975, cập bến lúc 16.00 giờ để chuyển số hành khách lên trại tị nạn ASAN, rồi trở ra neo trong vịnh. Gia đình của thủy thủ đoàn và các nhân viên quản trị của VNHH được phép ở lại trên tàu cho đến khi có chỉ thị mới của nhà chức trách trại ASAN.

Tầu VNTT là chiếc đầu tiên di tản đến Guam. Những ngày sau đó, có tầu Tân Nam Việt đến ngày 15-05-1975, tầu Trường Hải và HQ 500 ngày 22-05-1975, tàu Đồng Nai và Đại Dương ngày 23-05-1975.

Ngày 12-07-1975, thủy thủ đoàn còn lại trên tầu được lệnh rời khỏi VNTT, nhập trại ASAN để làm thủ tục di cư đến Canada. Ngày 21-07-1975, nhóm thủy thủ đoàn rời trại ASAN Guam, lên máy bay qua trại Pendleton, California để làm thủ tục khám sức khỏe và visa vào Canada, ngoại trừ một số ở lại California, bắt đầu sống mới nơi xứ lạ quê người!

Cuối tháng 10, 1975, chính phủ Hoa Kỳ đã dùng VNTT để đưa 1600 người đòi trở về Việt Nam. Thế là chúng tôi mãi mãi không còn gặp lại VNTT1 nữa.

Sau này, thuyền trưởng Võ Kiết Triệu và Xếp Máy Trần Văn Đúng bị Việt Công bắt ra Nha Trang dẫn tàu VNTT về Sài Gòn và đổi tên Vũng Tàu và bị phế thải năm 1986.

Vào cuối tháng tư đen khoảng 130,000 dân tỵ nạn rời khỏi VN bằng đường hành không hay đường biển. Ngoại trừ một số ít tới những trại phụ như đảo Wake, đa số được đưa đến Guam. Những người đầu tiên được ở hotel hay appartment, về sau ở trong những trại lính cũ nhưng vẫn không đủ chỗ vì dân tỵ nạn đến mỗi lúc một đông nên có thêm những trại tỵ nạn như Asan và nhất là ở “Tent Cicy” Orote Point, còn được gọi là Camp Rainbow có dân số đông hất đếm được tới 39,331 người. Nhờ được phỏng vấn và di chuyển vào nội địa Hoa Kỳ nhanh chóng, dần dần số người tỵ nạn giảm đi rất nhiều.

Tới tháng 8-75 khi những hoạt động của cơ quan di trú đóng cửa, chỉ có văn phòng Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ hoạt động chỉ còn khoảng 5,000 người, trong số này có chừng 3,000 chưa chịu đi định cư, ghi tên trở về VN, trong số này đa số là quân nhân không mang theo được gia đình. Họ được chuyển tới 4 trại khác, tương đối tiện nghi hơn là Black Construction, J&G, Hawaian và Barrigada. Những người muốn về VN biểu tình, tuyệt thực và đôi khi bạo động để gây áp lực đòi hồi hương sớm.

Đại diện Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ là thiếu tướng hồi hưu Herbert sau nhiều lần tiếp xúc và thương thuyết, đồng ý để những người muốn hồi hương dùng tầu VNTT đang đậu sẵn tại Guam làm phương tiện. Cựu HQ/Trung Tá Trần Đình Trụ được mọi người tín nhiệm làm Thuyền Trưởng (Quan Tầu) đưa tầu về VN, cựu HQ Thiếu Tá Nguyễn Văn Phước (Khóa 15 SQHQ/NT) trước là HT HQ 231 được chọn làm Thuyền Phó (Goòng) và cựu HQ Thiếu Tá Vương Tế Tuấn (Khóa 15 SQHQ/NT) trước là HT HQ 229 làm Dịch 1 (nói theo ngôn ngữ HHTT) phụ trách hải hành. Anh Trần Cao Khải là Xếp Máy. Cựu HQ Thiếu Tá Phạm Ngọc Lộ (Khóa 12 SQHQ/NT) phụ trách tiếp liệu. Thủy thủ đoàn tổng cộng khoảng 200 người được tuyển chọn trong số những người muốn đi về.

Tầu dự trù chở khoảng 2,000 người. Phía Hoa Kỳ bỏ ra một nhân khoản trên dưới 1 triệu đô la để tân trang toàn diện con tầu và việc sửa chữa sẽ do HQCX của Hoa Kỳ tại Guam đảm trách. Công việc sửa chữa tiến hành khả quan và nhanh chóng với sự phụ giúp đắc lực của thủy thủ đoàn tân lập. kể cả việc thử máy đường trường 24 tiếng đồng hồ chạy quanh đạo Guam.

Sau một thời gian dài chuẩn bị và huấn luyện, tầu VNTT đã sẵn sàng ra khơi trở về VN. Ngày 15-10-75, đúng 8 giờ sáng, hành khách bắt đầu xuống được sắp xếp nơi ăn chốn ở, dự trù tới 5 giờ sáng 16-10 mới hoàn tất cho gần 2,000 người. Trước khi xuống tầu, mọi người đều được đưa qua phòng riêng làm thủ tục xuất hành lần cuối. Tại đây hành khách còn cơ hội lần chót để quyết định về VN hay đi Mỹ.. Vào giờ chót có thêm khoảng 30 người từ các trại tỵ nạn ở Mỹ quá giang về VN.

Hải trình từ Guam về Việt Nam dài khoảng 2,100 hải lý, nếu tầu chạy trung bình 10 hải lý/giờ (gút) thì mất chừng 10 ngày đêm. Thuyền trưởng Trụ cẩn thận tính thêm 10 ngày nữa đề phòng trục trặc hay bão tố nên yêu cầu cung cấp thực phẩm và nước ngọt cho 2,000 người trong 20 ngày. Thiếu tướng Hebert vui vẻ chấp thuận và còn cấp thêm 10 ngày nữa, tổng cộng là 30 ngày lương thực và nhêm liệu để dự trù trường hợp tầu đã về tới hải phận Việt Nam, nhưng đổi ý quay trở lại Guam.

Sáng 16-10 trước khi tầu rời bến, có phái đoàn báo chí, truyền thanh và truyền hình Hoa Kỳ tới cầu tầu phỏng vấn. Lúc đó, một đám đón gió trở cờ muốn lập công với Việt Cộng đã treo hình Hồ Chí Minh và cờ MTGPMN trên tầu, nhưng vì sắp trở về VN nên đa số phải nhịn nhục.

Khi mọi thủ tục xong xuôi, đúng 12 giờ trưa, thuyền trưởng Trụ họp Ban Tham Mưu, ra lệnh khởi động máy lúc 12 giờ 30 và nhiệm sở vận chuyến lúc 12 giờ 45. Trước khi tầu rời cầu, Thiếu Tướng Herbert và ông Keely đại diện cho chính phủ Hoa Kỳ mới đến từ Washington tặng thuyền trưởng Trụ một bộ đồ thuyền trưởng mới may rất đẹp, nhưng ông từ chối.

Đúng 1 giờ chiều ngày 16-10-175, tầu VNTT do thuyền trưởng Trần Đình Trụ điều khiển rời Guam, mang theo cộng 1652 người trên tầu trong số này có khoảng 200 phụ nữ và trẻ em. Chỉ ít lâu sau, tầu ra khỏi hải cảng và đổi đường về hướng Tây, lên đường Việt Nam.

Chuyến hành trình diễn ra tốt đẹp không có gì trục trặc. Biển tương đối êm, máy móc hoạt động tốt. Sau 5 ngày hải hành tức 21-10, đã bắt đầu tới eo biển San Bernadino thuộc Phi Luật Tân. Khi vào sâu trong eo, có chiến hạm Hoa Kỳ đi theo để trợ giúp trong trường hợp có trở ngại với chính quyền Phi. Tới chiếu ngày hôm sau, tầu ra khỏi eo biển, bắt đầu hướng về VN. Vừa ra tới biển chừng 10 hải lý thì gặp bão, biển động nên một số hành khách bị say sóng, nhưng chẳng bao lâu bão di chuyển về hướng khác nên tầu không bị trở ngại nhiều.

Sang ngày thứ 9 lênh đênh trên biển, tầu đã tới gần bờ biển VN, chỉ còn cách chừng 50 hải lý, lúc đó có một phi cơ không tuần của HQ Hoa Kỳ bay ngang xem có cần trợ giúp gì không, nhưng tầu không cần gì nên phi cơ bay đi. Lúc đó, nếu tầu đi thẳng sẽ tới Vũng Tầu vào ban đêm bất tiện nên thuyền trưởng Trụ cho đổi đường hơi chếch về phương bắc hướng về Cam Ranh. Tầu tiếp tục đi, tới hoảng 3 giờ chiều đã bắt đầu lờ mờ thấy dẫy núi bờ biển VN; tầu chỉ còn cách bờ chừng 30 hải lý. Đến 8 giờ tối tầu cách bờ biển Cam Ranh 12 hải lý nhưng cũng không thấy bóng dáng tầu bè HQ Việt Cộng. Sau đó tầu đổi hướng xuôi Nam, đi dọc bờ biển qua Phan Rang, Phan Thiết… Tới khoảng 6 giờ sáng ngày 25-10 thấy đèn hải đăng Vũng Tầu. Tầu vào vịnh Vũng Tầu, rồi sau đó thả neo ở Bãi Trước lúc 8 giờ sáng.

Sau đây là phần kể lại của thuyền phó Vương Thế Tuấn:

VNTT neo ở Vũng Tầu mấy tiếng đồng hồ mà VC không hề hay biết. Sau khi biết đây chính là chiếc VNTT từ Guam về họ đã cho trực thăng bay quanh chiếc VNTT đồng thời cho chiếc Hộ Tống Hạm PCE 13 của ta để lại đã đánh đèn như sau:

- How many people aboard on your ship.
Chúng tôi trả lời bằng tiếng Việt:
- Tàu chở 1,600 người hồi hương
Sau đó họ không đánh quang hiệu nữa và cho 3 chiếc SL 8 chạy ra chiếc VNTT với vũ khí hòm sẵn họ bắc loa hỏi:
- Thuyền trưởng là Mỹ hay Việt Nam.
Khi biết là anh Trụ, họ nói mọi người ở đâu ở đó không được đi lại trên boong rồi cặp vào với một trung đội súng ống sẵn sàng, leo lên chiếc VNTT. Sau đó chúng niêm phong lái và cầu thang lên đài chỉ huy. Khi màn đêm vừa buông xuống chúng ra lệnh cho thủy thủ đoàn VNTT nhổ neo và đi theo chiếc LS 8 dẫn đường nhưng không cho biết là đi đâu. Sau 2 ngày hải hành khi tới Cầu Đá Nha Trang thì chúng ra lệnh cho chiếc VNTT chạy vào thả neo tại đây.

Sau đó có một đoàn cán bộ từ trong bờ ra dẫn đầu là tên Thiếu Tá Thùy. Chúng họp với anh Trụ và ban đại diện đồng thời yêu cầu anh Trụ lập một danh sách gồm những người nồng cốt của chiếc VNTT. Những ngày kế tiếp chúng cho tàu nhỏ ra chở mọi người vào bờ, kể cả anh Trụ.. Trên tàu chỉ còn lại 15 người gồm có: anh Phước TP, tôi TP/HH anh Khải CKT, anh Hiệp GL, anh Đẳng y tế và một số anh phụ trách máy neo, đặc biệt cò 2 anh Gòn ĐK và một anh CK là nhân viên cơ hữu của chiếc VNTT.

Mỗi ngày chúng ra lệnh cho nhóm chúng tôi nhổ neo chạy xuống Cam Ranh rồi lại chạy về Cầu Đá. Chúng tôi làm như vậy trong suốt 2 tuần cuối cùng 15 người chúng tôi cũng được lệnh rời tàu để lên bờ. Chúng chuyển chúng tôi tới BCH/CSQG/V2 cũ của mình để điều tra. Sau hơn 2 tháng chúng chuyển chúng tôi đến Trại Xuân Phước hay còn gọi là Z 30 để nhốt tất cả chúng tôi là những người đã trở về trên tàu VNTT. Trại này gồm 3 khu: A, B và C. Khu A là SQ, B là HSQ và C là binh lính cùng một số dân chính gồm phụ nữ, con nít. Cho đến tháng 4/1977 tại khu A chúng đã cho thanh lọc ra 120 người là những SQ cấp tá, SQ CTCT, SQ Cảnh Sát và An Ninh để chuyển ra trại Cải Tạo Trung Ương số 3 Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh do công an quản lý, đây là một nơi hoang vu rừng thiêng nước độc chỉ cách biên giới Lào-Việt khoảng 30 cây số. Đội 8 rau xanh của chúng tôi gồm anh Trụ, các SQ cấp tá các quân bình chủng đã về trên chiếc VNTT. Vì chiến tranh biên giới phiá Bắc với TC nên giữa năm 1978 chúng đã cho chuyển những trại giam ở biên giới về xáp nhập với chúng tôi. Đây là lần đầu tiên chúng tôi đã gặp lại các bạn ngày xưa. Cho đến tháng 7 năm 1980 thì chúng chuyển chúng tôi vào Nam trong đó có anh Trụ vào trại Gia Trung Kontum. Tôi đã không được chuyển vào Nam nhưng đến đầu năm 1981 thì tôi được thả về từ ngoài Bắc.

… Quả là một sự may mắn đã đến với tôi khi được trả tự do vào đúng lúc phong trào vượt biên đang lên cao điểm tại Sài Gòn. Tôi không thể ngờ cuộc đời hải nghiệp tưởng đã lùi vào dĩ vãng nay lại có dịp thi thố. Tôi đã bỏ hết công sức để điều nghiên chuyến ra khơi sắp tới. Do sự mầu nhiệm sau hơn 2 ngày lênh đênh trên biển trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Chiếc ghe chở 207 người của chúng tôi đã được thương thuyền Hoà Lan Nedlloyd Dejima vớt ngoài khơi Côn Sơn vào 9 am ngày July 3rd, 1981.

Riêng thuyền trưởng Trần Đình Trụ được thả năm 1988,. Ông phải trả giá bằng 13 năm tù khổ sai để được gặp vợ con. Ông và gia đình đến Hoa Kỳ vào ngày 12-12-1991 theo diện HO và định cư tại Dallas-Fort Worth tiểu bang Texas.

Kinh qua hồi ký vừa kể ở trên, quả mỗi người đều có một số phận cho riêng mình. Khi còn trong tù tôi nghĩ sẽ vùi thây nơi sương lam chướng khí. Vậy mà kỳ diệu thay tôi đã qua được, trong tù mãi 5 năm sau mới biết tin ở ngoài đang vượt biên như một ánh sáng cuối đường hầm từ đó tôi đã nuôi hy vọng để sống. Sau đó tôi và gia đình đã đến được bờ bến Tự Do như đã nói ở trên. Không riêng gì tôi mà sau này tôi đã gặp lại rất nhiều anh em của tầu VNTT tại Hoa Kỳ. Năm 2015 chúng tôi những người kém may mắn của chiếc tầu VNTT đã thực hiện một cuộc hội ngộ 40 năm tại nam CA quy tụ được gần 200 người.

Xin cảm ơn nước Mỹ đã hai lần cưu mang những anh em VNTT chúng tôi.

San Jose April 16th, 2019
Vương Thế Tuấn & Trần Đỗ Cẩm

Quốc Giỗ




Nỗi Buồn Khôn Nguôi




Đêm Bên Bờ Sông Ba



ĐÊM BÊN BỜ SÔNG BA
Trang Y Hạ

Buổi họp cuối cùng!

Ra khỏi Tòa Hành chánh tỉnh KonTum vào lúc 4 giờ chiều ngày 15 tháng 3 năm 1975. Bên tai tôi vẫn còn nghe văng vẳng lời nói của ông Tỉnh Trưởng: " Tình hình KonTum vẫn yên tĩnh, chúng ta được tăng cường thêm một Liên Đoàn BĐQ...!" Thành phần tham dự gồm các Phòng, Ban Tiểu Khu và các Đơn Vị Hành Chánh. Mặc dù nghe lời ông Tỉnh Truởng nói như vậy... nhưng khi ra về chúng tôi nhìn nhau không dấu nỗi sự lo âu vu vơ nào đó hiện trên khuôn mặt mỗi người!

Bầu trời KonTum hôm nay toàn màu mây xám yên ắng một cách lạ thường, trông ảm đạm như những ngày mùa hè đỏ lửa cách đây ba năm! Không nghe tiếng máy bay, tiếng đại bác như mọi ngày. Tôi chạy xe ra phi trường đường băng im lìm không có chiếc máy bay nào nằm ở đấy. Người lính gác cổng bồng súng đứng tư lự mắt nhìn về cuối sân bay - nơi đó có vườn "Paradise"! Tôi vòng xe chạy ra đường Nguyễn Huệ ngang qua ngôi nhà thờ gỗ thấy cửa đóng im ỉm; tiếp tục chạy ra cầu DakbLa quay qua trường trung học Hoàng Đạo. Phố đã lên đèn, "Chiêu Anh Quán" cuối đường Lê Thánh Tôn dân nhậu lưa thưa. Tôi buồn bã trở về đơn vị!

6 giờ sáng ngày 16 tháng 3 năm 1975. Người Chỉ Huy chạy đến cho tôi biết rằng" Tất cả bỏ KonTum đi trong đêm các cây xăng không còn một giọt xăng nào! Anh em tự lo liệu..."! Ông chở tôi về nhà đón vợ con ông- rồi tức tốc chạy ra khỏi Tỉnh. Khi xe chạy qua cầu DakbLa tôi quay đầu nhìn lại KonTum lần cuối. Dòng sông DakbLa hiền hòa êm ả với những đám bắp xanh tươi dọc theo bờ sông Phương Hòa - Phương Qúy- đôi mắt tôi cay xè và lòng tôi nặng triũ! (Mặc dù tôi không còn người thân -năm 1972 đã được di tản về làng tạm cư Long Thành, sau đó định cư ở Long Khánh). Phố núi thơ mộng nầy - nơi tôi đã chôn chặt một thời tuổi nhỏ với biết bao thương nhớ: bạn học ngày xưa; bạn chiến đấu và những kỷ niệm tình yêu một thời gắn chặt trong suốt quãng thời gian hai mươi năm!

Pleiku im lìm như một thành phố ma! Nghe nói Bộ chỉ huy quân đoàn rời bỏ Pleiku lúc 9 giờ đêm hôm trước. Nhìn về hướng Phi Trường Cù Hanh những cột khói bốc cao và những tiếng nổ...hình như không phải tiếng pháo kích của Cộng Quân-tôi nghĩ vậy...Xe chúng tôi chạy vòng qua rạp hát và rẽ về hướng Phú Bổn. Vì chúng tôi đã biết đường QL 19 đã bị Cộng Quân chặn mấy tuần lễ trước. Đến Phú Bổn tôi thấy một người Mỹ, có lẽ là cố vấn cùng với những người Lính VNCH bên cạnh chiếc Trực Thăng, họ nói chuyện vui vẻ! Tôi cứ tưởng rằng nơi đây vẫn còn yên tỉnh...Chúng tôi chạy quanh co một lúc là bắt kịp đoàn Quân, Dân di tản ùn ùn kéo nhau qua đèo.

Tôi không biết Đèo nầy tên gì, chúng tôi vượt đèo nhanh vì xe nhỏ. Qua khỏi Đèo chừng 3 hay 4 cây số, tôi thấy địa hình bằng phẳng, chỉ có cỏ tranh và những lùm cây thấp; không thấy hình dạng con đuờng 7B như thế nào! Nhìn ra xa những dãy núi cao nhấp nhô tít tắp chân trời. Hồi còn học sinh tôi nghe thầy giáo giảng về Địa Lý:"Ở Tuy Hòa có đập nước "Đồng Cam" do Người Pháp xây dựng đồng thời mở con đường cũng từ Tuy Hòa- Đồng CamCheo Reo, bây giờ là Tỉnh Phú Bổn đến PleiKu". Con đường 7B từ năm 1954 đến 1975 không còn sử dụng. Bỏ bê lâu ngày mưa núi xói mòn, cây rừng mọc kín làm mất dạng, những đoạn còn lại thì đá dăm lởm chởm cỏ, gai mọc xen lẫn lúc thấy lúc không nên rất khó đi. Trong khi đó đoàn xe Công Binh, xe Quân Đội lớn nhỏ và xe dân chở người, chở vật dụng ước chừng hơn cả ngàn chiếc chưa kể xe Honda gắn máy. Xe Lính đi trước, xe dân theo sau chen lấn dàn hàng ngang chạy tìm dấu vết đường cũ mà tiến tới, bóp kèn tin tin, inh ỏi. Tạo ra cảnh nghẽn đường chưa từng thấy dưới ánh nắng chói chang của những ngày đầu mùa hè. Mọi người bơ phờ, sợ hãi...người gìa, phụ nữ, trẻ em - đói, khát kêu khóc!

Nghẽn đường- nhích từng chút, từng chút..., có khi chạy vài trăm mét lại ngừng - một phần thì... lo âu không biết Cộng quân có rượt theo hay ra chận đường! Còn nếu có pháo kích thì coi như chết tập thể...! Xe nào hết xăng thì bỏ xe xin quá giang xe khác. Tôi cũng ở trong tình trạng đó...Xe khởi động nhiều lần hết bình Ắc Quy, nếu còn xăng thì hút ra... bán - rồi bỏ xe. Không đi nhờ xe khác được thì đi bộ. Những cây cầu sắt bắc qua các con suối lâu ngày ván gỗ mục hết còn lại khung sắt hoen rỉ... người đi bộ vin thành cầu đi qua, còn xe thì tìm những chỗ thấp, cũng may bây giờ không phải là mùa mưa. Những chiếc xe Honda- Vespa –Suzuki -Yamaha len lỏi chạy trước, đến khi hết xăng thì chỉ còn cách đẩy nó xuống khe núi! Hàng trăm, hàng ngàn chiếc cứ thế mà vứt - không thương tiếc, mới thấy thấm thía câu nói " Bỏ của chạy lấy người!" mà không biết có thóat được không? Khi phía trước là núi cao, con đường 7B ở trong mơ, còn phía sau Cộng quân sẻ đuổi kịp và tàn sát bất cứ lúc nào! Cũng có người quay ngược trở lại. Nhưng không ai khuyên ai một lời nào. Lý do tại sao trở lại...

Gần đến Củng Sơn rừng rậm và đèo dốc nhiều. Xe Quân Đội họ chạy nhanh bỏ xa xe dân, nhưng bù lại là có đường mòn dễ đi và cứ thế chạy theo. Khi đến một cái dốc cao dài khoảng chừng 100 mét phía bên dưới là thung lũng cây rừng rậm rạp. Xe đi nhiều nên tạo ra một lớp bột đất mịn bụi bay mù trời...Tài xế chạy xe xuống trước còn người thì mặc quần áo nhiều vào rồi lăn hay tuột xuống... cũng có trầy xước nhưng không đến nổi bị thương. Nhìn cảnh nầy tôi nhớ khi đọc Tam Quốc Chí đoạn: " Đặng Ngãi dẫn quân đi đường tắc qua ngã Âm Bình vào đất Ba Thục tiêu diệt ấu chúa Lưu Thiện". Xe chạy cứ chạy còn những người đi bộ ghé vào Củng Sơn tìm mua thức ăn.

Tôi cũng đi theo họ. Đến nơi đã có một số người đến trước. Họ mua gà nấu cháo. Gọi là "Tiểu Khu" nhưng chỉ có vài con đường, nhà cửa lụp xụp như ở miền thôn quê. Được biết từ lâu Củng Sơn bị tách biệt với Tuy Hòa vì đường bộ Cộng Quân hay chặng đường và cầu cống bị đánh sập...Tôi thấy người dân ở đây chẳng quan tâm gì về chuyện tại sao chúng tôi đến đây, họ vẫn làm việc hằng ngày của họ, tôi thấy họ phơi bánh tráng. Tôi đi lại hỏi mua. Họ nói:" Bánh tráng sắn, không phải gạo, ăn được thì mua!" Tôi nói: Ăn được! Người phụ nữ lấy một cái bánh còn ướt, nóng, ở trên lò chồng lên cái bánh tráng nướng sẵn và gập lại. Tôi trả tiền quay ra và thấy người con gái mặc quần loe, tóc dài, cười tươi đi vô nhà. Hình như ở đây rất thanh bình thì phải...?

Tôi may mắn được một chiếc xe "Landrover" cho qúa giang. Chạy quanh co trong rừng chừng hơn một giờ là đến một bãi cát rộng mênh mông với những lùm cây lưa thưa ngang đầu. Tôi nghĩ, chắc đã đến bờ sông Ba. Xe Quân Đội đứng thành nhiều hàng dọc theo bờ sông có cả gia đình họ, tiếp đến là xe dân. Nhìn bãi đậu xe khổng lồ-thấy phát khiếp!


NGÀY & ĐÊM THỨ NHẤT Ở BÊN BỜ SÔNG BA!

Những giọt nắng yếu ớt còn đọng lai trên những tàn cây, đàn chim hình như không vội vàn bay về tổ, chắc chúng chờ xem bọn người nầy đến đây phá tan sự yên tĩnh của chúng chăng? Đúng thế! Dòng sông tuy mùa khô cạn nước, nhưng lòng sông ở đoạn này vẫn cỏn sâu và rộng chừng 100 mét. Toán Công Binh bắt đầu làm cầu phao qua sông. Tiếng máy nổ bơm hơi vào những cái phao; những thanh nhôm được kết nối lại; những sợi cáp kéo ngang qua bên kia bờ. Công việc gấp gáp, ánh đèn từ chiếc xe GMC nổ máy pha sáng trưng, quang cảnh nhộn nhịp như một Công Trường!

Mọi người đổ xô xuống sông múc nước uống, tắm...Trên bờ những đụn khói bay lên bên cạnh những chiếc xe, họ nấu ăn, nhưng đa phần ăn mì gói và bánh mì mang theo từ lúc ở nhà. Sau một ngày mệt nhọc họ tìm chổ ngủ. Họ ngủ trên xe, ngủ dưới gầm xe, ngủ ngay trên cát. Tìm chổ ngủ cũng vất vả không ít, vì xe đậu lộn xộn không có lối đi.

Qúa mệt sau một ngày vượt núi, tôi chui vào một lùm cây và ngủ đến khuya. Có ai đó đạp vào chân tôi, choàng dậy...trong ánh sáng mờ mờ của ánh sao đêm, tôi thấy hai người phụ nữ tay cầm cái bình màu trắng. Tôi hỏi các chị đi lấy nước phải không? Họ nhờ tôi dẫn đi ra sông và các chị cũng cho biết là đoàn người phía sau còn rất đông. Đêm đầu tiên tôi ngủ ở bên bờ sông Ba! Đêm rừng nhưng không lạnh, trên trời đầy sao nhưng xem ra chẳng có ngôi sao may mắn nào! Phía xa xa từ hướng Phú Bổn những viên đạn lửa bay lên bầu trời và những tia chớp như sắp có cơn dông. Tôi nghĩ chắc đánh nhau, mà sao chẳng có nghe tiếng máy bay phản lực. Bầu trời vẫn yên lặng-yên lặng đến khó hiểu. Không có tiếng gà gáy. Có tiếng con nít khóc; tiếng vỗ về dỗ dành; tiếng hát ru nhè nhè của người mẹ...oan khốc tội tình gì mà bỏ nhà cửa ra bờ sông Ba mà nằm phơi sương, phơi nắng...? "Tuổi thơ ơi, tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người!" Tôi đưa hai người phụ nữ trở về chổ của họ. Trời sắp sáng, tôi lần mò ra sông. Toán Công Binh vẫn miệt mài làm, tôi hy vọng cầu sẽ xong trong ngày hôm nay!


NGÀY & ĐÊM THỨ HAI Ở BÊN BỜ SÔNG BA!

Trơì không có sương mù nên những ánh nắng mặt trời rọi xuống dòng nước chảy lờ đờ trong vắt, thấy cát ở bên dưới, tôi xuống rửa mặt và nhìn qua bên kia bờ sông bằng phẳng. Đồng cát trắng phau phau, xa xa là rừng rậm. Mọi người cũng xuống sông làm vệ sinh như tôi, con nít- có đứa nhảy xuống tắm trông cũng vui! Nhưng khi mặt trời càng lên cao, cái nắng càng gay gắt... cọng với cát được đun nóng hằng giờ mà chẳng có bóng cây cao che mát. Những lùm cây thấp ngang đầu lưa thưa trụi lá...hình như mùa xuân chưa hề qua đây! Người ta tận dụng tấm "Poncho", mền. Căng ra từ thành xe qua các lùm cây. Còn tiểu và đi tiêu họ giải quyết vấn đề đó ngay tại chổ. Họ không dám đi xa vì sợ có lệnh di chuyển bất ngờ. Mà họ cũng không dám đi xa, sợ lạc vì bãi đậu xe mênh mông mà không ngay hàng thẳng lối mạnh ai nấy chen lấn dành chỗ ưu tiên. Càng trưa cái nắng Cao Nguyên mùa khô như thiêu cháy một rừng người và xe cộ giữa hoang mạc. Những người đàn ông vội vã chạy xuống sông lấy nước và hấp tấp trở về lo cho ngươi nhà và bảo vệ chút gia tài: Vàng, tiền mang theo-trôm, cướp là chuyện thường xãy ra trong thời buổi loạn ly...

Nhiều người say nắng, trúng gió, xây xẩm, ói mửa! Tiếng kêu cạo gió, xoa bóp, chờm nước...inh ỏi! Tiếng trẻ con khác sữa đòi ăn và mồ hôi nhễ nhại. Tội nghiệp những người mẹ quạt không ngưng tay, rồi chính những người mẹ cũng kiệt sức và ngã gục, người cha cũng bơ phờ mệt mỏi. Ở giữa rừng mà không có không khí trong lành để thở...Cát càng nóng càng bốc mùi nước tiểu, phân và thức ăn thừa cộng với mùi xăng dầu, mồ hôi do không được tắm giặt...Không khí đặc quánh, nồng nặc. Gió rừng không thổi hết mùi xú uế. "Thượng Đế hỡi! Có thấu cho Việt Nam nầy..." !!!

Tôi thấy phía bờ sông giòng xe nhà binh nhúc nhích từng mét. Chắc cầu làm đã xong, trong lòng tôi mừng rỡ. Chạy đến xem xe chạy qua cầu như thế nào? Đến nơi tôi không thấy chiếc cầu đâu cả, nó chìm hẳn xuống khỏi mặt nước chừng nữa mét bởi sức nặng của chiếc xe GMC. Phía trước đầu xe là hai người lính Công Binh đi hai bên dẫn đường, xe qua thì phía sau cầu nổi lên. Chậm, nhưng rồi cũng qua được phía bên kia! Tôi nghe có tiếng ai nói cứ tiến độ như thế này, thì phải mất ba tháng số xe nầy mới qua hết. Còn cây cầu mong manh này liệu có chịu nổi số lượng xe khổng lồ này hay không? Và, Cộng Quân không vội vả gì rượt đuổi chúng ta -tự chúng ta đói khát, bịnh hoạn rồi chết! Tôi còn nghe bàn tán xôn xao đâu đó là: "Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã có kế hoạch "Di Tản Chiến Thuật" ra khỏi Cao Nguyên, nên chúng ta bình tĩnh chờ đợi...!" Tôi nghe và tôi cũng tin như thế thật! Bởi vì cả guồng máy chiến tranh hùng hậu mà không đủ sức di tản hết số Quân,Dân này hay sao?

Năm 1972 bằng đường hàng không, dân hai Tỉnh KonTum & PleiKu chuyển đi sạch để lại thành phố cho Quân Đội chiến đấu và chiến thắng! Tôi nhìn lên bầu trời ánh nắng chói chang, trong vắt không gợn tý mây, không thấy bóng dáng chiếc máy bay nào như mọi ngày. Và, họ cũng như tôi kiên nhẫn chờ đợi ông Tổng Thống Thiệu đến cứu hay một phép mầu nào từ Thượng Đế...

Những đoàn người chạy sau, vừa mới tới tìm lối xuống sông múc nước và cho biết có đánh nhau khi qua đèo "Phụng Hoàng hay Tu Na" gì đó, Lính BĐQ và dân chết bị thương nhiều, ai chạy thoát được thì đi tiếp tới đây, ai không thoát được thì quay trở lại Cheo Reo. Họ cho biết thêm có người kêu gọi quay về: "Hòa Bình rồi đừng chạy theo bọn Ngụy nữa..." Bây giờ là 5 giờ chiều tin tức xấu cứ tiếp tục lan truyền trong đám người Di Tản. Đã sợ, giờ càng sợ hơn. Những khuôn mặt buồn thảm hốc hác, bây giờ lại càng lo lắng và xen lẫn thất vọng. Không ai bảo ai những ánh mắt đều nhìn về hướng Phú Bổn, nhưng nào có thấy gì đâu, còn phía Củng Sơn một vài đụn khói bốc lên. Có lẽ là khói bếp...

Nắng chiều vẫn còn bịn rịn trên dãy Trường Sơn, không khí không còn nóng hầm hập như buổi trưa, những tấm poncho, mền được tháo xuống trải trên mặt cát. Họ chuẩn bị ăn một chút gì đó qua loa và chờ đêm nay đến phiên xe mình qua sông. Tiếng trẻ con khóc và tiếng ầu ơ của người mẹ nhừa nhựa yếu ớt, có tiếng cầu kinh và cũng có tiếng kêu tên ông Thiệu ra chửi tùm lum...Tôi trở lại lùm cây cũ đêm hôm trước hòng tìm chỗ ngã lưng, chiếc xe land Rover tôi đi nhờ vẫn còn nằm đó. Lùm cây trơ trọi không còn chiếc lá nào, mùi nước tiểu xông lên nồng nặc, bụng đói cồn cào, hai ngày qua không có hột cơm trong bụng. Tôi quay ra bờ sông và thấy những người Lính đang ăn cơm sấy-tôi xin và họ cho tôi một bịch! Đêm nay tôi nằm trên cát, đêm rừng buông xuống thật nhanh, nhìn chùm sao bắc đẩu sáng lung linh, tôi nhớ mẹ tôi ở LK. Mẹ ơi! Mẹ đâu biết rằng đứa con trai độc thân 25 tuổi của mẹ hai đêm nay nằm ở bên bờ sông Ba!


NGÀY THỨ BA Ở BÊN BỜ SÔNG BA!

Mệt, đói! Tôi ngủ vùi, khi giật mình tỉnh dậy xem giờ mới hay đã hơn 2 giờ sáng, nhìn về cầu phao ánh đèn từ chiếc xe GMC vẫn rọi xuống sông, nhưng không thấy chiếc xe nào qua cầu. Hình như cầu hư? Tiếng búa, tiếng va chạm sắt thép dội đi trong đêm thanh vắng...Nhìn về hướng Cheo Reo xa xa thấy những ánh chớp và những âm thanh như tiếng Đại Bác vọng về. Đơn vị chiến đấu đi theo lệnh di tản có nghĩa là người Lính mang theo vợ con. Chỉ có súng cá nhân, gặp Cộng Quân vướng viú làm sao chiến đấu với hỏa lực địch có súng hạng nặng và xe tăng! Vậy tiếng súng vọng về là của ai? Tôi càng thêm lo lắng...

Buổi sáng ngày thứ ba! Bình minh le lói phía chân trời nhưng không đem lại niềm hy vọng đến cho mọi người đang chực chờ sang sông. Nỗi lo lắng lẫn sợ hãi thật sự căng thẳng trên từng khuôn mặt bơ phờ mệt mỏi do thiếu ăn, thiếu ngủ...Mới 10 giờ sáng nhưng ánh nắng đã gay gắt, cát nóng, mùi xú uế tích tụ những ngày hôm trước xông lên "Nồng nàn" đến ngộp thở...Người ta xúm lại săn sóc cho người phụ nữ mang thai - "Chị ấy sinh!" -có người nói thế! Và tôi nghĩ: Xưa nay người ta nói: "Chết bờ, chết bụi!" chứ có ai nói: Sanh bờ, sanh bụi đâu? Trời ơi! Sao em bé lại ra đời trong lúc nầy không biết nữa! Dòng sông Ba hiền hòa nhưng cũng oan nghiệt nầy chứng kiến biết bao thảm cảnh...!

Tôi đi ngược ra phía sau để tìm xem trong đêm qua những người chạy xuống may ra có đồng đội hay người quen biết. Trời! nhiều người bị thương: Lính có, Dân có! Bộ đêm qua trên đường có đánh nhau hả? Tôi hỏi người mang áo Lính rách bươn. Người Lính không trả lởi mà nói: "Trong ngày hôm nay không thóat qua khỏi sông Ba thì thế nào Cộng Quân Sư Đoàn 320 đuổi kịp, hoặc nó pháo chúng ta chết hết"! Đoàn người mới đến sáng nay họ không mấy quan tâm đến cầu phao. Họ kéo nhau đi bọc ra sau bãi xe và xuôi theo bờ sông tìm chỗ cạn để vượt. Ai chờ cứ chờ, ai đi bộ cứ tìm đường mà đi. Tôi cũng đi theo họ. Lúc này đã 3 giờ chiều, đi được chừng một cây số, thì mọi người hốt hoảng bởi những tiếng nổ chát chúa phía bãi xe. Pháo Kích! Pháo Kích! Có người hét lên...Tôi kéo hai đứa bé gia đình đi bên cạnh nằm xuống. Tôi nghĩ Cộng Quân pháo đuổi theo gây tang thương hoảng lọan chứ chưa chắc đã đến.

Tôi nghe tiếng Trực Thăng càng lúc càng gần. Thì ra chiếc Trực Thăng Hồng Thập Tự hồi sáng nay có bay đến và lượn đi lượn lại bốn năm vòng rồi bay đi luôn! Không biết tại sao bay trở lại? Nó đáp thật nhanh xuống lùm cỏ giữa bãi cát, chong chóng vẫn quay...một số người chạy ào lên! Chiếc Trực Thăng vội vàn cất cánh nhưng qúa nặng cứ chúi chuí hai ba lần, những cái túi xách quăng xuống hết. Trực Thăng từ từ nhấc mình lên một cách khó nhọc và người ta thấy bên dưới một người Phụ Nữ đeo tòn ten dưới càng của nó! Khi lấy độ cao lướt qua lùm cây bên kia sông cũng là lúc người Phụ Nữ buông tay rơi tự do xuống đám rừng! Có người làm Dấu Thánh! Lạy Chúa tôi...! Người Phụ nữ ấy chết hay bị thương trong lúc nầy, dù ai có lòng từ bi đức độ đến mấy cũng đều lực bất tòng tâm, không thể nào cứu được- Phía trước sông ba phía sau đạn thù! Tôi và hai đứa bé tiếp tục đi, cha mẹ nó mang đồ đạt lặc lè theo sau.

Đi được chừng hai cây số tôi thấy một cái Đập nước chắn ngang, thấp và nước chảy xói mòn. Tôi đoán đây có lẽ là cái dạng còn lại của đập "Đồng Cam" do người Pháp xây đã bỏ lâu năm bị nước xâm thực hư haị. Đoạn sông này cạn, nước sâu khoảng đến đầu gối. Hai bên là những bãi cát chen lẫn những lùm cây, màu cát trắng cọng với nắng chiều quyện vào nhau lung linh tuyệt đẹp!

Đã 5 giờ chiều mọi người "Dừng Quân" nằm xuống cát nghĩ ngơi hít thở không khí trong lành thật sự chứ không phaỉ nồng nặc mùi xú uế như chỗ bãi xe. Tôi lang thang ra đồng cát rộng chừng nữa sân bóng đá, nhìn về hướng Tuy Hòa xa xa. Tôi thấy những đốm đen, tưởng là đàn chim buổi chiều bay về tổ. Nhưng không phải! Cái đốm đen ấy càng lúc càng lớn dần...Một... Hai... Ba... Bốn-năm-sáu-bảy-tám! Đó là những chiếc Trực Thăng "Chinook"! Mừng qúa... Tôi hét lên: Có máy bay bà con ơi! Tôi cởi áo lót trắng cầm nơi tay vẫy, vẫy liên tục... Sáu chiếc bay qua trên đầu. Tôi thất vọng! Nhưng đến chiếc thứ 7 & 8 thì quay trở lại và đáp xuống. Lúc này bà con túa ra ùa lên nêm chặt người và người trên hai chiếc Chinook. Bây giờ tôi mới hiểu ra, chính chiếc Trực Thăng Hồng Thập Tự lúc sáng bay đến thị sát và đã can thiệp để có những chuyến cứu vớt nhân đạo nầy!

Đêm nay và ngày mai... Đoàn quân "DI TẢN CHIẾN THUẬT" chắc chắn sẽ đối diện với Sư Đoàn 320 thiện chiến của Cộng Quân... Và tôi đã khóc!!!

Trang Y Hạ
Tôi đã đi trên con đường 7B

Dấu Ấn Khôn Nguôi




Tháng Tư...




Thứ Hai, 29 tháng 4, 2019

Biệt Minh Kỳ


Nhạc sĩ Minh Kỳ (internet)

BIỆT MINH KỲ
Huyền Chiêu

“Bạn ơi mai này ai hỏi đến tên tôi
Thì xin hãy nói…”

Nhạc sĩ Minh Kỳ có lẽ là người tù cải tạo chết sớm nhất, một cách  đau đớn, khi chỉ mới bị tập trung chứ chưa được chở ra Bắc.

Ông mất ngày 31 tháng 8 năm 1975 tại trại An Dưởng Biên Hòa cùng mười sĩ quan y bác sĩ vì một trái lựu đạn ai đó quăng vào trại.

Ôi! Bảo rằng hòa bình đã đến mà mạng người rẻ đến thế sao?

Nhưng sao gọi là Trại An Dưỡng.

Trại An Dưỡng này, trước là một khu quân sự, về sau đuợc chỉnh trang lại để tiếp nhận những quân nhân tù binh của ta được miền Bắc trao trả theo hiệp định Paris. Họ được nghỉ ngơi, bồi dưỡng cả sức khỏe lẫn tinh thần ở trại An Dưỡng này trước khi trở về đơn vị cũ và gia đình.” (*)

Năm đó ông 45 tuổi.

Thật bàng hoàng thương xót cho người nhạc sĩ rất thân quen với người dân Nha Trang.

"Nha Trang là miền quê hương cát trắng
Có những đêm mơ vọng lại
ầm ầm tiếng sóng xa khơi”

Nghe bài hát, cứ tưởng tác giả là người Nha Trang, nhưng Minh Kỳ gốc Huế, một hoàng thân ngang vai với vua Bảo Đại Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy. Tên ông là Nguyễn Phúc Vĩnh Mỹ, cháu năm đời của vua Minh Mạng.

Ca khúc Nha Trang được viết từ thập niên 50, cho đến nay người Nha Trang lưu lạc khắp bốn phương trời vẫn thấy lòng bồi hồi khi  nghe câu hát:

Còn đâu những chiều vui xưa 
Còn đâu những chiều say sưa 
Ngồi nơi biển buồn trông ra khơi mênh mông. 
Còn đâu Tháp Bà êm mơ 
Còn đâu đá Chồng bơ vơ 
Còn đâu bến Cầu Đá nên thơ. 
(Nha Trang Minh Kỳ- Hồ Đình Phương)

Miền Nam chỉ được yên bình một thời gian ngắn, rồi tất cả đều bị lôi cuốn vào cuộc chiến mới tàn khốc hơn, phi lý hơn.

Tội nghiệp cho chàng học trò chân yếu tay mềm của Minh Kỳ lần đầu đi cầm súng.

Bạn ơi! quan hà xin cạn chén ly bôi
Ngày mai tôi đã đã đi xa rồi.
Thành đô lưu luyến chắn bước chân tôi
trước giờ chia phôi mấy ai không bùi ngùi
kỷ niệm buồn vui mãi ghi trong hồn tôi “
(Biệt Kinh Kỳ- Minh Kỳ)

Khác với tâm trạng người lính bi quan, đau khổ của Trúc Phương, người lính  của Minh Kỳ luôn lạc quan yêu đời và tin vào một ngày mai tươi đẹp.

Tâm hồn Chàng thư sinh ấy còn chưa phai hình ảnh lãng mạn của nguòi chinh phu trong giờ Việt văn ở trường:

“Chàng từ đi vào nơi gió cát
Đêm trăng này nghỉ mát nơi nao”
(chinh Phụ Ngâm)

Và chàng mơ mộng một ngày về hát khúc hoan ca.

Người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên
giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền
có về là khi nước non vui bình yên.
(Biệt Kinh Kỳ)

Chàng lính thư sinh ấy tất nhiên cũng vương vấn trong hồn hình ảnh một nàng áo  xanh, áo trắng nào đó:

Thuở ấy không gian chìm lắng trong mơ 
Tà áo em xanh màu mắt ngây thơ 
Nụ cười hồn nhiên không vương sầu nhớ 
Lời ca vang bên gác nhỏ 
Tiếng tơ êm đềm trong ngõ”
(Tà áo học trò- Minh Kỳ -Nguyễn Hiền)

Các nhân vật trong nhạc Minh Kỳ sao quá đáng yêu.

Cảnh sắc chung quanh Minh Kỳ sao quá rộn ràng, bừng bừng sức sống.


Minh Kỳ viết rất nhiều ca khúc về mùa xuân.

Không thể quên “Cánh Thiệp Đầu Xuân” “Đón Xuân Hòa Bình” “Xuân Đã Về” “Hạnh Phúc Đầu Xuân”… nhạc xuân của Minh Kỳ là tiếng reo ca của một đất nước thanh bình, tươi đẹp...

Mùa thu của Minh Kỳ không u buồn như những “mùa thu chết.”
Khác với “Giọt Mưa Thu” não nề của Đặng Thế Phong, “Mấy Độ Thu Về “ của Minh Kỳ  tươi thắm, xinh đẹp, ngập tràn hy vọng:

“Chiến tuyến người trai ôm súng ước mơ
Rũ chinh y trọn ước với câu thề
Theo lôi về thôn cũ đường thắm hoa
Gió trăng lạnh tình không phai niềm nhớ
Quê cũ mùa trăng thu ngát ý thơ
Bên sông xưa rộn rã tiếng khoan
Cô lái đò đôi má hồng ước mơ
Đón Anh về ghi chép nốt vần thơ”

Trời hỡi! vì sao một tâm hồn tràn ngập niềm yêu đời, yêu người đã phải chết một cách đau đớn, oan nghiệt.

Tưởng nhớ nhạc sĩ Minh Kỳ

Vĩnh Biệt hoàng thân Vĩnh Mỹ, người bạn thân thiết của Nha Trang
Tháng tư buồn thảm, xin thắp ông nén hương và xin ông hãy tin rằng những ca khúc của Minh Kỳ sẽ luôn được yêu mến, sẽ vĩnh cửu cùng năm tháng.

Tháng tư 2019
Huyền Chiêu

(*) trích trong  “Cái Chết Oan Khuất Của Nhạc Sĩ Minh Kỳ”  Phạm Tín An Ninh.

Tác giả Huyền Chiêu 

Xin mời quý vị thưởng thức nhạc phẩm BIỆT KINH KỲ