Thứ Tư, 25 tháng 3, 2020

Tháng Ba Nhớ Lại

GIỚI THIỆU
Quyết định sai lầm của lãnh đạo vào tháng 3/1975 (45 năm trước), đã đưa đến hậu quả thủ đô Sài Gòn thất thủ. Miền Nam VN (VNCH) lọt vào tay cộng sản Bắc Việt. Một số con dân Việt phải sống lưu vong nơi "đất khách quê người".
Nhà thơ Cao Ngọc Cường ghi lại cảm xúc và nỗi đau thương của dân tộc qua bài thơ THÁNG BA NHỚ LẠI.
Xin chia sẻ đến quý độc giả của Diễn Đàn NHHN
Trân trọng
NHHN




THÁNG BA NHỚ LẠI
Cao Ngọc Cường

Bốn mươi lăm năm trôi qua, từ ngày ấy - 1975-2020

10/3/75 Ban Mê Thuột thất thủ kéo theo những quyết định sai lầm liên tiếp của các cấp chỉ huy cao nhất đã triệt tiêu sức chiến đấu của quân dân miền Nam.

Đường di tản bi thảm trên Tỉnh Lộ 7B Pleiku-Phú Bổn-Tuy Hòa của quân khu II là bước đầu cuộc khổ nạn của dân tộc tôi từ đó.

Tháng Ba nhớ lại, những đoạn buồn này như những nén nhang được thắp lên để tưởng niệm hơn 200 nghìn quân dân miền cao đã tử nạn trên tầng đầu địa ngục có thật ấy.

Lòng bỗng chạnh buồn giữa tháng Ba
Hằn trong ký ức chẳng nhạt nhòa
Tháng Ba bốn mươi lăm năm trước
Như vết thương buồn đến nứt da

Thành sẹo trong hồn khi nhớ lại
Quân dân giữa địa ngục trần ai
Tức tưởi khi chưa là chiến bại
Làm sao kể hết nỗi đau dài

Tháng Ba địa ngục mùa Xuân ấy
Một thoáng đã tròn bốn lăm năm
Cao nguyên nghiêng ngửa trong binh lửa
Tháng ba bi thảm khúc bảy lăm

Làm thân lính thú miền biên trấn
Gửi lại chiến trường chút máu xương
Vuốt mắt cho bạn bè nằm xuống
Dạo tháng ba buồn đến thê lương

Ngày 10 giặc chiếm Ban Mê Thuột
Tin về thêm rúng động lòng quân
Biết đâu vận nước lâm tuyệt lộ
Dã quỳ vẫn nở buổi tàn xuân

Triệt buộc, quân lui về duyên hải
Đoàn xe tan tác giữa rừng già
Tỉnh Lộ 7 B đầy máu lửa
Căm hờn trào ngập nước sông Ba

Quân đoàn chạy tự hôm mười sáu
Ta còn mê mải trấn Chu Pao
Kon Tum hớt hải đường 14
Pleiku khói lửa ngút trời cao

Căn cứ 41, 42 cầu số Sáu (*)
Suốt đêm trái sáng bắn như sao
Ta cứ như đang ngồi trên lửa
Lệnh truyền cố thủ đến khi nào!

Mở đường dân chạy như đàn vịt
Bế bồng gồng gánh bước thấp cao
Dân lẫn vào quân đông kìn kịt
Thượng lên Kinh xuống! Thế là sao!

Người nói thế này người thế khác
Tin đồn nhiễu sóng loạn cào cào
Mình như là ếch ngồi đáy giếng
Biết đâu đất thấp với trời cao

Nấn ná rán thêm đôi ngày nữa
Lệnh lạc chờ hoài cứ êm ru
Đành phá súng xuôi đường 14
Về ngang hậu cứ đến Pleiku

Hậu cứ chẳng còn ai trực gác
Biển Hồ nước lặng đến tang thương
Khu Gia Binh vắng hoang tàn quá
Từng vùng đất chết rất thê lương

Phố Núi tan hoang trong khói lửa
Biên Trấn tịnh không một bóng người
Chợ Cũ đám người đang hôi của
Diệp Kính cháy đen kịt góc trời (**)

Xe qua Hàm Rồng còn ngoái lại
Pleiku lửa khói bốc sau lưng
Chưa đụng đã co chân bỏ chạy
7 B Lộ máu bước đường cùng

Hai chục vạn dân không tấc sắt
Quay lưng trốn chạy khỏi Pleiku
Trên con Lộ máu trong đói khát
Làm đích cho bom đạn giặc thù

Xác phơi la liệt trong rừng rú
Máu dọc đường di tản kinh hoàng
Người hiện nguyên hình loài quỉ dữ
Khắp trời đất nước phủ màu tang

Lính cũng chẳng hơn gì dân chúng
Hỗn loạn trên đường đánh tháo lui
Giống như đàn kiến trong miệng thúng
Dân lẫn vào quân cứ rối nùi

Lẩn quẩn loanh quanh rừng Phú Bổn
Mười phần chết bảy chỉ còn ba
Kẻ sống như hồn ma vất vưởng
Người chết làm phân bón rừng già

Quân hồi vô phèng trông chán quá
Cao nguyên khắc nghiệt lúc tàn xuân
Nắng khô đổ lửa khi đầu hạ
Dân theo quân chạy nhích từng phân

Bụi đỏ mù trời theo bánh xích
Đoàn xe triệt thoái chậm như rùa
Tan tác theo từng làn pháo địch
Chưa đụng mà chừng ngó đã thua

Dân khiếp cứ theo quân mà bám
Lính mệt đứ đừ chẳng còn hơi
Gục trên mũi súng không còn đạn
Cục sắt nặng thành món đồ chơi

Lạc lõng quân dân trong khổ nạn
Giặc thù truy đuổi sát sau lưng
Dân lành như cá phơi trên cạn
Loạn quân làm giặc quậy tưng bừng

Đám người chạy nạn theo Lộ máu
Dắt díu tận cùng bước bơ vơ
Lúc sống chia nhau chung nỗi sợ
Chết thôi đủ kiểu chết không ngờ

Chết khi chen lấn tìm đường thoát
Bom ta, đạn địch dội trên đầu
Chết nghiền trong những lằn bánh xích
Hay chìm mất xác dưới dòng sâu

Chết vì kiệt sức hay đói khát
Thây phơi bụi đỏ nắng đầu hè
Đầy những hồn oan chưa siêu thoát
Nặc nồng tử khí khắp sơn khê

Mẹ già đuối sức không theo nổi
Con đành để mẹ tựa gốc cây
Khóc lạy mẹ rồi quay đầu chạy
Đau thương cho nỗi đoạn trường này

Cả đại đội còn dăm ba mống
Sức tàn lực cạn nghĩ càng đau
Cố nhắm hướng Đông tìm đường sống
Đàn bà con nít bám theo sau

Đứa bé lên ba xiêu lạc mẹ
Hãi kinh chẳng khóc nổi tiếng nào
Bám lấy tay ta không đành đoạn
Phó mặc cho trời biết làm sao

Đoạn đường máu hai trăm cây số
Dòng dã đi hoài chẳng đến nơi
Mịt mùng lạc giữa trùng vây địch
Đành ngửa mặt than hỡi trời ơi!

Thế cùng tuyệt lộ anh hùng tận
Vất vưởng oan hồn lạc nơi nao
Thân sống mà lòng đau khóc hận
Bầm gan Từ Thứ lúc qui Tào

Mới biết thế nào là tủi nhục
Như kẻ qua sông bị đắm đò
Chìm trong những tháng năm tù ngục
Càng hiểu vô cùng chữ tự do

Tháng Ba nhớ lại trong ký ức
Dọc đường máu lửa ở Tây nguyên
Mới chỉ là tầng đầu địa ngục
Kéo dài thêm mãi bốn thập niên

Đau thương dân tộc tôi lãnh đủ
Đến giờ chưa ngóc nổi đầu lên
Tháng ba ngày cũ ai còn nhớ
Muốn quên không chắc dễ gì quên

Rót chén rượu vào trong thinh lặng
Giải hờn oan trái tháng Ba xưa
Trên con đường máu và xương trắng
Khổ nạn e chừng đã đủ chưa!

Cao Ngọc Cường - 18 tháng 3

(*) Các Căn cứ hỏa lực trên QL 14 Kontum-Pleiku
(**) Khu Diệp Kính, thị xã Pleiku 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét