Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024

Saigon Thứ 7

SAIGON THỨ 7 
Anh Bằng

Thực hiện: Theo Dấu Giầy Sô

Trân trọng 
NHHN 

Kính mời quý vị theo dõi 




Thứ Năm, 25 tháng 4, 2024

Cha Tôi, Chết Không Cần Quan Tài

You Tube VIETLIVE TV

CHA TÔI, CHẾT KHÔNG CẦN QUAN TÀI 
Đào Nam Hòa 

Tôi ghi lại bài này thay cho nén hương lòng để thành tâm tưởng nhớ đến Bố Mẹ tôi nhân ngày giỗ Bố lần thứ 8 và giỗ Mẹ lần thứ 7. Tôi không biết bắt đầu câu chuyện từ lúc nào nhưng thời điểm có lẽ ấn tượng nhất và rõ nét nhất mà hầu hết người dân miền Nam Việt Nam nhớ mãi là ngày 30-4-1975.

Khi miền Nam sụp đổ cũng là lúc bất ngờ tất cả nỗi thống khổ đày đọa ập xuống. Nhanh như một cơn cuồng phong thịnh nộ phá nát tan hoang. Mất tất cả! Ngày 10-6-1975 tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Trước khi đi cái gọi là “học tập cải tạo” 10 ngày, dù với suy nghĩ chỉ là 10 ngày như lời thông báo, cha tôi cũng không lấy mấy ngàn dằn túi. Ông bảo tôi (lúc đó 19 tuổi) đem hai chỉ vàng cuối cùng còn lại của gia đình – là đôi bông tai của bà nội tôi để lại – ra tiệm vàng bán. Đó là kỷ vật quý nhất nhưng đành phải bán để mua ít lương thực cho ông mang đi. Hai chỉ vàng lúc ấy bán được 33 ngàn. Ông mua khoảng hai ngàn đồng lương thực các thứ và dằn túi một ngàn. Còn lại 30 ngàn ông dặn ở nhà cố gắng 13 mẹ con dè xẻn ăn uống đợi ông về. Mười ngày trôi qua nhanh chóng. Không ai trong số cải tạo trở về. Tôi nghĩ đây là một cú lừa mà đã và sẽ được lịch sử ghi lại kỹ hơn.

Giá sinh hoạt tăng từng giờ. Buổi sáng 100 đồng một ổ bánh mỳ thì chiều đã lên 120. Sau ba tuần thì 12 anh em tụi tôi và mẹ tôi không còn một đồng nào trong nhà. Chị tôi lớn nhất 21 tuổi còn đang đi học, và em út mới hai tuổi. Mười hai con tàu há mồm tuổi đang lớn nuốt bao nhiêu cho đủ! Cơm và thức ăn mỗi bữa mẹ tôi phải chia cho từng đứa. Vài hột cơm sót nơi đáy nồi cũng không yên. Chúng tôi đổ nước vào và cạo sạch không còn một hột. Còn hơn là gạo châu củi quế.

Mẹ tôi và vài đứa em phải đi xâm canh làm ruộng rau muống, một hình thức của kinh tế mới để giãn dân. Không lên voi nhưng phải xuống chó, mẹ tôi và em tôi ngày ngày vào ruộng hái rau muống xong gánh bộ về tới chợ cách đó sáu cây số để bán. Buổi sáng khoảng ba giờ khi trời còn mờ mịt hơi sương và giá lạnh, mẹ và em tôi thay nhau gánh bộ cho kịp phiên chợ sáng. 70 bó rau oằn trên vai người phụ nữ nhỏ bé cao 1,45m nặng chưa tới 40kg. Sáu ký rau mới đổi được một ký gạo. Một tuần mới cắt được một lần chờ cho rau mọc. Những ngày còn lại là cấy rau, nhổ cỏ, trồng khoai mỳ…

Sức ăn trước ngày 30-4-1975 của gia đình tôi một bữa là ba lít gạo, tức một tuần 42 lít, khoan nói chuyện thức ăn cá mắm gì hết. Nay một tuần chỉ còn 13 lít! Bắt đầu tháng 7-1975 lần lượt đồ đạc trong nhà mọc cánh nhẹ nhàng, nhanh chóng, lả lướt, bay đi theo chân những kẻ buôn hàng. Từ cái quạt trần, tôn cống, hàng rào, tủ quần áo, đài radio, giường sắt, đồng hồ treo tường, đồng hồ đeo tay… đều giã từ để về với chủ mới. Hết sạch đồ thì mấy kẻ đi buôn bảo giở gạch bông, giở bớt tôn ngoài mái hiên, tôn trần nhà… bán tiếp. Bán cho đến khi căn nhà nhỏ bỗng trở nên rộng tênh vì chả còn thứ gì ngoại trừ vài cái nồi nấu bằng củi đen thui cũng đã sứt quai gãy gọng. Buổi tối trải chiếu ngủ dưới đất là xong với cái bụng lép kẹp và cơn đói hành hạ. Không biết bao lần tôi phải ăn tưởng tượng trong đêm khuya bằng cách hình dung mấy món ăn tầm thường ngày trước như vài con khô, miếng dừa kho, tô canh bầu… (mơ mà cũng hà tiện không dám mơ thịt cá hải sản).

Bố tôi sau sáu tháng trong trại cải tạo lần đầu được viết thư về. Ông dặn khi lên thăm nuôi, không cần mang theo gì cả vì trong trại có đủ mọi thứ. Ông hiểu hơn ai hết, còn cái gì để mà mang cho ông! Tôi nhớ mãi ngày lên thăm nuôi ông ở trại Thanh Hóa (Hố Nai). Cả nhà chỉ có một cái xe đạp, còn lại mẹ và các em tôi cuốc bộ 8 cây số mang theo một cái giỏ đi chợ lưng lửng với ít thịt kho mắm ruốc, một ký đường, hai hộp sữa và một bộ quần áo. Nhìn những người đi thăm nuôi, có người gánh hai bao đầy mà lòng tôi trào dâng niềm tủi hổ.

Sau đợt đổi tiền ngày 22-9-1975, chúng tôi như đàn chim vỡ tổ. Tất cả bỏ học ngang, vài đứa em nhỏ tiếp tục theo mẹ làm ruộng rau muống, còn lại mỗi đứa một phương trời kiếm sống. Đứa lên Gia Ray vào rừng lấy củi, làm lò than, đứa theo xe lửa bán trà đá, hàng rong, đứa bán thuốc lá. Hơn ba năm sau, bố tôi được cho về để nhìn xác nhà tan hoang điêu tàn loang lở, nhìn bầy con xanh khướt, gầy rạc, tản mát. Một chị tôi bệnh tâm thần không người chăm sóc phải lang thang ăn xin đầu đường xó chợ, có lần xin không được, quá đói, chị giựt mấy miếng đậu hũ bỏ chạy, chị bị người ta phang đòn gánh chảy máu lỗ đầu giữa ngày bố tôi được tha về.

Bố không khóc, cũng không nói gì! Qua hàng xóm xin ít bông băng. Lòng ông như xát muối! Có lẽ ông bấy giờ mới thấm sâu mệnh đề “mất nước là tất cả mất”. Khóc lóc than van ích lợi gì. Giọt nước mắt chỉ làm cho kẻ chiến thắng hả hê say sưa thêm mà thôi. Rồi theo “chủ trương”, ông không được ở lại thành phố. Họ hàng nhà tôi đa số cũng là thành phần “Ngụy quân, Ngụy quyền” nên không ai giúp gì được cho nhau. Cuối năm 1978, ông lên rừng Gia Ray ngay chân núi, cất túp lều nhỏ bé xiêu vẹo. Ngày ngày ông và hai em tôi sống nhờ rừng.

Ai ở rừng mới biết: ăn của rừng rưng rưng nước mắt! Và từ đó chuỗi ngày lầm than, buồn thảm lại tiếp tục sau hơn ba năm trong trại cải tạo. Đói nhiều hơn no, buồn nhiều hơn vui. Cực khổ nặng nhọc quần quật suốt cả ngày chỉ đủ kiếm vài lon gạo vài con cá khô. 10 năm sau, tôi đã làm ăn khá hơn, mua được chiếc xe máy mini scooter, lần đầu tiên lên thăm ông. Quà cho Ông chỉ là một lít rượu đế nấu bằng rỉ mật. Ông mừng lắm vì tôi đã tương đối ổn định công việc.

Bữa cơm hôm đó, ông nói:

– Bố năm nay 63 tuổi rồi, cuộc đời không dành cho bố con mình được sống sum họp và đầy đủ. Dù sao các con cũng cố gắng vươn lên để thoát khỏi bệnh tật, đói khát và tù đày.

Rồi ông chỉ tay dưới chân ngọn núi Chứa Chan:

– Nhớ lời bố dặn. Nếu bố có chết, các con không cần quan tài làm chi cho tốn kém, cứ bó chiếu vùi thây bố dưới chân núi là bố mát mẻ rồi.

Thú thật, lúc ấy nếu tất cả 12 anh em tôi gom lại chắc cũng không đủ tiền mua cái quan tài loại chót. Ông biết và không muốn các con gánh nặng thêm! Năm 1999, sau bao nhiêu khó khăn vì không có tiền làm hồ sơ xuất cảnh diện HO, cuối cùng thì bốn bố con tôi cũng tới được Mỹ. Ngày lên đường mẹ tôi và chín em phải ở lại vì hộ khẩu lung tung không được phái đoàn Mỹ chấp thuận. Bốn bố con mà hành trang vỏn vẹn có năm va ly nhỏ và nhẹ tênh, chưa tới 1/3 tiêu chuẩn trọng lượng.

Đến Mỹ ba anh em tôi phải đi làm ngay sau tháng đầu tiên để kiếm tiền trả nợ lúc làm hồ sơ. Bố tôi thì ăn welfare vì ông đã 74 tuổi. Ban đầu hội thiện nguyện giúp thuê nhà. Bốn bố con phải ở chung trong một căn apartment hai phòng ngủ cùng với hai người nữa là sáu người. Quá chật, chúng tôi đành ra ở riêng trong khi bố tôi được Chính phủ Mỹ cho ở nhà housing. Và từ đó ông sống cô độc, một thân một mình. Nhưng cũng là lúc ông làm được một việc lớn nhất, to nhất, ý nghĩa nhất kể từ sau ngày 30-4-1975!

Hàng tháng ông trả tiền điện và tiền nhà chưa tới tổng cộng 80$. Thức ăn thì ông đi xin các hội từ thiện miễn phí. Có lần tôi giận bố kinh khủng. Gia đình tôi cố tình chở ông vào một quán kêu cho ông mấy món ngon. Ông từ chối, chỉ xin cho một dĩa bánh cuốn là đủ. Ông nói: Ở Việt Nam nhà mình còn quá khổ, bố không đành ăn ngon bên này nhưng các con đi làm vất vả cần bồi bổ, cứ ăn đi. Mỗi tháng số tiền dư còn lại gần 400$, bố để dành và cứ sáu tháng bố gởi về Việt Nam cho mẹ và chín đứa con còn ở lại.

Chị cả tôi viết thư qua có câu: “Bố ơi, nhiều lần con phải đi bán máu với số tiền 200 ngàn một lần để có tiền nuôi con. Để có 200 ngàn đồng tiền Việt, tụi cò máu nó đã ăn chặn mấy chặng rồi. Cầm 300$ của bố cho mà con cứ ngỡ trong mơ. Đời con chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế… Phải bán 10 lần máu chỉ mới được 150$ …”. Bố đọc thư không khóc! mặc dù bố biết chị chỉ cân nặng có… 34kg! Gan góc đến thế là cùng! Rồi việc phải tới! Một ngày mùa đông năm 2006, tức sau gần tám năm ở Mỹ, tự dưng bố kêu và đưa tôi 8.000$ và một tờ di chúc – nét chữ vẫn còn rất đẹp dù đã có dấu hiệu nghệch ngoạc biểu hiệu của tuổi già.

Di chúc nói rõ. Khi bố chết đi, bố đã hỏi cô Hoa, người của hội thiện nguyện, và biết rằng tiền hỏa thiêu không quan tài chỉ mất có 800$ thôi! Bố nói bố không cần quan tài, không cần để nhà quàn làm gì cho tốn dăm ngàn, cứ để người ta đưa thẳng bố đi thiêu, trừ tiền thiêu ra, còn bao nhiêu con cứ làm theo di chúc gởi về cho người nhà mình ở Việt Nam. Sau đó mấy ngày, bố đột quỵ! Người ta đưa Bố vào trại dưỡng lão. Rồi bố hấp hối. Ba anh em tôi họp nhau và quyết định làm theo di chúc của bố. Và chúng tôi phải ký một hợp đồng với nhà thiêu. Khi bố tắt thở, sau một tiếng người ta đuổi hết anh em tôi ra. Trong phòng người ta bỏ bố vào một cái bao và kéo cái fermeture là xong! Quá đơn giản cho một kiếp người! Ba anh em tôi lúc đó mới đi làm, ăn lương một giờ 8$ (lương tối thiểu), chỉ vừa đủ tiền nhà tiền ăn. Vẫn biết có làm đám tang bỏ bố vào quan tài bằng vàng với hàng ngàn người tham dự thì cũng vậy thôi, vì bố đâu biết gì nữa, mà sao tôi vẫn cảm thấy xót xa vô bờ.

Cuối đời của một sĩ quan, từng chỉ huy hàng mấy trăm lính, từng chỉ huy mấy cung đường sắt, âm thầm, vắng lặng và quạnh hiu. Không ai biết, không ai đưa tiễn! Y như một chiến sĩ vô danh! Người ta bỏ bố lên chiếc xe kéo, đẩy ngang chỗ chúng tôi đang đứng. Tất cả con, dâu và cháu chỉ có năm người. Họ dừng lại và hỏi chúng tôi muốn nói gì không. Tôi có cảm tưởng như một luồng điện lạnh chạy xé dọc sống lưng. Tôi chỉ lắp bắp nói như kẻ không hồn:

– Vĩnh biệt Bố. Từ nay Bố không còn phải hy sinh nữa Bố nhé. Công ơn của Bố cao hơn núi Thái Sơn Bố ạ!

Rồi họ lạnh lùng kéo bố tôi đẩy lên chiếc xe dài, đi chỗ nào thiêu hay làm gì, ở đâu, chúng tôi không được biết! Họ làm theo hợp đồng. Tôi không khóc! Không còn nước mắt để khóc! Hai tuần sau tôi lấy tro cốt bố. Khi cô nhân viên nhà xác đưa hộp tro cốt, bên dưới có ghi tên bố tôi, chỉ đến lúc bấy giờ, nước mắt tôi tự dưng tuôn ra đầm đìa…

Đào Nam Hòa

Kính mời quý vị theo dõi câu chuyện




Sài Gòn Nỗi Nhớ

SÀI GÒN NỖI NHỚ 
Ngàn Thu 

Trân trọng 
NHHN 

Kính mời quý vị thưởng thức 




Sàigòn Còn Mãi Trong Tôi

SÀIGÒN CÒN MÃI TRONG TÔI

Thơ: Tha Nhân
Nhạc: Trần Chương Lương
Trình bày: Tâm Thư 

Trân trọng 
NHHN 

Kính mời quý vị thưởng thức 




Nước Mắt Cho Sài Gòn

NƯỚC MẮT CHO SÀI GÒN 
Nguyễn Đình Toàn 

Trân trọng 
NHHN 

Kính mời quý vị thưởng thức 




Đêm Nhớ Về Sài Gòn

ĐÊM NHỚ VỀ SÀI GÒN
Trầm Tử Thiêng

Trân trọng 
NHHN 

Kính mời quý vị thưởng thức 



Ngày Giỗ Của Ba Tôi




NGÀY GIỖ CỦA BA TÔI
Khánh Lưu

- Ba con vẫn còn mất tích mà! 

Đó là cái lý của mẹ mỗi khi chị em tôi tính chuyện lập bàn thờ cho ba. Mẹ vẫn hy vọng một ngày nào đó ba sẽ đột ngột quay về.

Lần cuối cùng ba về là tết năm Quý Mão nhưng chỉ ở nhà được mỗi ngày Mồng Một là ba phải về đơn vị vì tình hình chiến sự ngày đó nóng lắm. Sau tết, tin từ các mặt trận ngày một xấu. Tây nguyên thất thủ, Quảng Trị đánh lớn rồi thất thủ, quân VNCH rút về Huế rồi co cụm tại Đà Nẵng. Tiếp đến là tin mất Tam Kỳ, Nha Trang, cuối cùng là trận cầm cự đẫm máu Xuân Lộc rồi miền nam thất thủ hoàn toàn.

Từng ấy ngày diễn ra chiến sự, mẹ tôi đứng ngồi không yên. Không đêm nào bà trọn giấc, cứ thấp thỏm lo cho ba tôi giữa làn tên mũi đạn.

Tin Sài Gòn giải phóng qua radio, mẹ tôi thở phào:

- Vậy là hoà bình rồi! Hết đánh nhau rồi! Ba con sẽ sớm trở về thôi.

Bà hy vọng sẽ một đêm có tiếng gõ cửa đánh thức để bà được ôm ba tôi khi ông đột ngột xuất hiện. Rồi tiếng gõ đợi chờ cũng đến. Đêm đó nghe tiếng gõ, mẹ bật dậy sung sướng: “Ba con về!”. Bà ào ra mở cửa. Bà và hai chị em tôi sững người. Không phải ba mà là ba người cách mạng. Một người mặc đồ dân sự, hai người còn lại mặc đồ bà ba mang súng. 

Mẹ tôi mời họ ngồi. Người cán bộ dân sự từ tốn:

- Tôi đến hỏi tin tức anh nhà. Đã hơn một tháng vẫn chưa thấy anh ấy lên trình diện chính quyền cách mạng.

Lúc đầu mẹ tôi nghe sợ nhưng nghe người cán bộ nói mẹ cũng an lòng, bà đáp:

- Tôi cũng mong anh ấy về hoặc tin tức về anh nhưng đến nay vẫn chưa thấy. Khi nào ảnh về tôi sẽ bảo ảnh nhanh lên trình diện. Gia đình cũng mong các anh giúp đỡ, nếu có tin tức gì về chồng tôi xin báo cho gia đình tôi biết.

Họ đi ra, để lại niềm hy vọng cho mẹ tôi hết tính bằng ngày, chuyển qua tháng rồi tính bằng năm. Ba tôi vẫn biền biệt.

Những ngày sau đó là những ngày khốn khổ. Gia đình tôi là gia đình nguỵ quân. Mẹ tôi xoay xở đủ thứ để lo cho ba miệng ăn. Của cải rồi vật dụng trong nhà từ dây chuyền, hoa tai sau đến quạt máy, bàn là… cái gì bán được mẹ cũng bán để lo cho cuộc sống khốn khó của ba miệng ăn. 

Chị em tôi đi học lại nhưng ba năm sau chị phải ở nhà cùng mẹ bươn chải, bán bánh, bán xôi ở bến xe để có tiền lo cho cái ăn cái mặc và để nuôi tôi đi học. Khổ quá, dù cật lực cũng không đủ ăn, chị tôi xin đi công nhân đường sắt. Mẹ tôi thương con rướm nước mắt nhưng không còn đường nào khác. Tôi cũng muốn nghỉ học để đi kiếm việc làm nhưng mẹ nhất quyết không cho. Mẹ buồn buồn: “Chị con nghỉ học giữa chừng mẹ đau lòng lắm rồi, con mà nghỉ nữa, ba về mẹ ăn nói với ba sao đây!” 

Mẹ tôi vẫn hy vọng. Khắp trại cải tạo từ nam ra bắc, ai bà biết có người thân cải tạo cũng nhờ hỏi tin tức về ba tôi. Bà vẫn đợi chờ, không có tin trong nước, bà mong tin từ nước ngoài. Biết đâu ba tôi đã được định cư ở một quốc gia nào đó.

Tôi tốt nghiệp cấp 3, định nộp đơn thi vào đại học nhưng đơn tôi đã bị gạt khi chưa kịp đến “vòng gửi xe” vì lời nhận xét trong lý lịch:

Cha: Đại uý, sĩ quan ác ôn nguỵ.

Tôi chán nản không thiết gì với tương lai giờ chỉ lo tìm việc gì kiếm được tiền giúp mẹ. 

Nghe ý định mở quán sửa xe đạp, mẹ tôi ủng hộ. Bà chắt bóp đồng tiền kiếm được và vay mượn thêm mua cho tôi bộ đồ nghề. Nhà tôi mặt phố nên tôi làm quán sửa xe ngay tại nhà.

Từ sửa xe đạp tôi mày mò tìm hiểu rồi sửa được xe máy honda. Tuy không khá mấy nhưng cũng có được đồng tiền giúp mẹ. Năm năm sau chị tôi lấy chồng xa, mẹ tôi cũng yếu dần vì gánh xôi trên vai mẹ. Một hôm mẹ về bảo tôi:

- Con nè! Mẹ nghe ngoài bến xe họ nói là từ nay thi đại học họ bỏ xét lý lịch. Hay là con nộp đơn thi thử.

Tôi cười buồn: 

- Năm năm rồi, chữ thầy đã trả cho thầy, còn nhớ chi đâu mà thi hả mẹ!.

Mẹ vãn động viên: 

- Con từng là học sinh giỏi nhất trường mà! Con thử ôn  lại hay đi học thêm, mẹ dành dụm được ít tiền chắc cũng đủ cho con học.

Tôi tìm hiểu và đúng như mẹ nói. Trong công cuộc “mở cửa” nhà nước đã bước đầu “mở trói”, bớt phân biệt thái độ chính trị, trước hết là cho thành phần con em gia đình dính líu đến chế độ cũ được học đại học. 

Tôi bỏ ra ba tháng ôn luyện kiến thức cơ bản, vốn gần như quên sạch. Sau đó bằng đồng tiền tích cóp ít ỏi, tôi lùng mua các cuốn sách luyện thi đại học. Tiền mẹ cho, tôi xin ghi tên học mấy khoá luyện thi đại học cấp tốc.

Đúng vậy, lần này làm lý lịch, phần chứng nhận của phường chỉ ghi: Lý lịch khai đúng như hồ sơ tại địa phương. Tôi nộp hồ sơ thi vào đại học kinh tế.

Tôi đậu đại học. Mẹ tôi mừng phát khóc khi tôi đọc điểm thi trên giấy báo khá cao để khoe mẹ.

Tôi vào trường đại học trong điều kiện cực kỳ khốn khó. Chị tôi không đủ sức lo cho gia đình chị thì làm sao có thể giúp tôi. Đôi vai mẹ cũng không còn sức nuôi tôi trên gánh xôi đi – về của mẹ. Tôi chống chọi với miếng ăn nơi thành phố đã khó huống gì việc học.

May mà trong cái khó ló cái khôn. Trường đại học có một khoảnh đất hẹp, cỏ mọc giáp đường. Tôi lên ban giám hiệu trình bày hoàn cảnh, xin được đặt tạm cái lều chỗ đó để làm quán sửa xe. Thông cảm hoàn cảnh của tôi, nhà trường đồng ý. Vậy là tôi đã có cần câu cơm. Một buổi đi học, một buổi tôi thay bộ đồ, làm anh thợ sửa xe bên cái quán tềnh toàng với cái tên rất gợi: “Quán sửa xe Sinh viên”. Tôi sửa chủ yếu xe đạp cho sinh viên. Giá cả cũng rất “sinh viên” vì ai cũng nghèo mà! 

Qua gần 4 năm tôi bám trụ “cần câu cơm” để học và để mơ về tương lai của mình. Có lẽ ở trường tôi là sinh viên nổi tiếng với 3 cái nhất: Sinh viên già nhất, nghèo nhất và… giỏi nhất khoá.

Giữa học kỳ 1 năm cuối, trường có buổi hội thảo về thị trường Châu Âu. Diễn giả là một tiến sĩ người Thuỵ  Sĩ, Dr Moolie Hoods. Sinh viên tham dự phần lớn do tính hiếu kỳ vì ngày đó khái niệm “kinh tế thị trường” còn lạ lẫm lắm, có lẽ trừ tôi ra. Từ khi đọc được cuốn Economics: An Introductory Analysis của nhà kinh tế học người Mỹ, Paul Samuelson, tôi hiểu rằng kiến thức kinh tế học được ở nhà trường chỉ là hạt cát, nhiều khi những điều học từ giáo trình xem ra rất phản quy luật. Do vậy được tham gia dự thính buổi hội thảo với tôi là cơ hội quý giá nhất để hiểu biết thêm về nền kinh tế châu  Âu tư bản.

Tôi chăm chú nghe ngài Hoods giới thiệu về kinh tế châu Âu trong giai đoạn tiền hợp nhất thành EU và tương lai sắp tới mà cứ há hốc mồm. Tôi không cần nghe qua phiên dịch, thậm chí người phiên dịch trong nhiều ngữ cảnh dịch rất tệ. Tiếng Anh với tôi cũng không khó khăn gì vì từ hồi 5 tuổi, ba tôi đã gửi tôi vào trường của hội Việt – Mỹ nên sau 7 năm, tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ thứ hai của tôi rồi. Thời gian gần đây tôi thích tìm đọc các sách báo bằng tiếng Anh và nghe đài nước ngoài nên vốn liếng Anh ngữ của tôi ngày được nâng cao.

Sau bài giới thiệu về nền kinh tế châu Âu, ngài Hoods khuyến khích sinh viên đặt câu hỏi để ông trao đổi, trả lời. Chỉ một vài sinh viên đứng lên dè dặt đặt câu hỏi mà kiến thức chủ yếu không vượt qua được những gì tiếp thu tại giảng đường. 

Vẻ thất vọng thoáng hiện trên khuôn mặt ngài Hoods. Đợi không còn ai hỏi nữa, tôi đứng dậy đặt câu hỏi bằng tiếng Anh. Mắt ông sáng lên đầy thú vị vì chỉ có tôi là sinh viên trao đổi trực tiếp bằng tiếng Anh với ông.

Diễn đàn trở nên hấp dẫn vì cuộc trao đổi và tranh luận bằng tiếng Anh chỉ có tôi và ngài Hoods. Sinh viên chủ yếu ngồi nghe chứ phần lớn không hiểu hết chúng tôi tranh luận về đề tài, nội dung gì, chỉ biết rằng họ rất ngưỡng mộ mỗi khi tôi đối đáp bằng tiếng Anh và được ngài Hoods gật đầu kèm với nụ cười.

Buổi chiều, khi tôi còn loay hoay trong bộ đồ dính đầy dầu mỡ để sửa xe thì bỗng nghe tiếng gọi: “Hi!”. Tôi ngẩng lên thì ngài Hoods tay cầm máy ảnh vừa nháy tôi một pô. Tôi đứng dậy chào, đưa tay bắt nhưng sực nhớ tay mình đang nhem nhuốc, định rụt về thì ngài đã bắt tay tôi lắc mạnh, cười tươi thân thiện: “No problem! you’re good!”.

Tôi lấy chiếc ghế đòn, phủi bụi mời ông ngồi. Ông đưa máy ảnh chụp “gara” tôi thêm vài kiểu nữa rồi ngồi xuống ghế. Cứ tưởng sau buổi hội thảo khi sáng ông đã đi rồi. Ông bảo đoàn ông còn buổi chiều làm việc với nhà trường về việc tài trợ học bổng tương lai. Người phụ trách đoàn ông đang làm việc với ban giám hiệu, ông tranh thủ dạo chơi quanh trường chụp mấy kiểu ảnh làm kỷ niệm và không ngờ gặp tôi nơi đây. Ông hỏi tôi về gia đình, về tài chính học tập. Tôi kể sơ về hoàn cảnh của mình và cười chỉ bộ đồ nghề sửa xe bảo là “nhà tài trợ tài chính” cho tôi suốt 4 năm đại học. Ông cười, trong nụ cười chứa đầy thông cảm. Cuối buổi ông hỏi tôi là có khi nào nghĩ đến du học nước ngoài không? Tôi lắc đầu bảo là tôi sống được để học là nhờ cái “gara” này thì lấy tiền đâu mà ra nước ngoài. Chỉ mong học xong có được việc làm là mừng lắm rồi.

Ông chia tay tôi bằng nụ cười với ngón tay “number one” cùng với một lời khen: “good!”

Một tháng sau, một người bạn học báo là tôi có thư từ nước ngoài. Tôi mừng phát run, chạy lên văn phòng khoa. Cứ nghĩ là ba tôi ở một nơi nào đó gửi về. Nhưng khi nhận thư, xem lại là thư ngài Hoods gửi cho tôi. Tôi đọc thư. Dr Hoods kể rằng đã đọc qua học bạ của tôi, về nước ông đã trao đổi với  viện công nghệ danh tiến của Thuỵ Sĩ là ETH Zurich và xin cho tôi được 1 suất học bổng toàn phần để làm luận án Master sau khi tôi tốt nghiệp đại học. Kèm theo thư là các tài liệu giới thiệu về trường  ETH Zurich cùng các mẫu đơn và bản hướng dẫn về hồ sơ xin học bổng.

Dù không phải thư của ba nhưng tôi mừng khôn xiết. Úp lá thư ngài Hoods vào ngực tôi nhắm mắt cho cơn mơ vượt khỏi dải đất hình chữ S bay đến tận trời  Âu. 

Tôi tốt nghiệp với tấm bằng loại giỏi. Theo hướng dẫn, tôi làm đơn và gửi cho viện ETH Zurich rồi chờ đợi. Một tháng, hai tháng tôi đợi thư trả lời từ Thuỵ Sĩ nhưng đến tháng thứ ba thì hy vọng trong tôi tắt lịm. Tôi lại quay về thực tại là mơ ước được một chân nhân viên quèn ở bất kỳ công ty nào để có việc làm.

Trong cơn tuyệt vọng thì ngài Hoods như từ trên trời rơi xuống. Ngài quay lại Việt Nam tìm tôi vì tin chắc có chuyện không hay nào đó xảy ra với tôi vì ngài đã liên hệ với viện ETH Zuủich. Họ báo rằng đã gửi thư chấp nhận đến 2 lần  nhưng không thấy tôi liên hệ lại. Khoá học mới đã học 1 tháng nhưng không có tên tôi nên ông quyết định sang tìm tôi. Khi biết tôi chưa nhận được bất cứ thư nào, ông đã hiểu ra. Ông cầm tay tôi động viên: “Đừng từ bỏ hy vọng, anh bạn trẻ! Tôi sẽ làm hết sức mình”.

Ông chia tay tôi bay ra làm việc và nhờ đại sứ quán Thuỵ Sĩ tại Hà Nội can thiệp. Chưa đến một tuần, hai thư chấp nhận của viện ETH Zurich gửi các tháng trước đã đến được với tôi.

Nửa tháng sau tôi từ giã mẹ và chị, bay qua châu  Âu bằng vé máy bay do ngài Hoods tài trợ.

Năm sau, tôi đã xong luận án Master rồi được luôn học bổng toàn phần để lấy bằng tiến sĩ về kinh tế tại viện ETH Zurich danh giá. Thời gian học tập tôi luôn được sự giúp đỡ chân tình của Dr Hoods. Ông là ân nhân, là bạn và là đối tác của tôi sau này. Ngày nhận bằng tiến sĩ, tôi không có mẹ bên cạnh để tri ân nhưng tôi được hân hạnh có ngài Hoods thay mẹ trong buổi vinh dự trao bằng. Ngài rất tự hào về tôi. Hôm sau, một tờ báo Thuỵ Sĩ với tít: From a bicycle repair student to a doctor of the prestigious university.

(Từ một sinh viên sửa xe đạp đến tiến sĩ của một đại học danh tiếng)

Bài báo với hình tôi ngồi sửa xe mà Dr Hoods chụp năm xưa cùng với hình ảnh tôi tươi cười nhận bằng tiến sĩ hôm qua chiếm hẳn một trang báo. Thì ra bài là của Dr Hoods viết về tôi. 

Từ bài báo này, cùng với lời giới thiệu của Dr Hoods mà Viện Nghiên cứu chiến lược kinh tế Đông Nam Á Thuỵ Sĩ  (gọi tắt là IESSAS) mời tôi về làm việc.

Một năm sau, IESSAS mở văn phòng đại diện tại Việt Nam ngay trên thành phố quê tôi,. Tôi được cơ hội trở về với quê hương cùng mẹ, cùng chị.

Tôi trở thành cầu nối giữa Việt Nam – Thuỵ Sĩ về quan hệ kinh tế. Các nhà đầu tư Thuỵ Sĩ qua giới thiệu của tôi đã đầu tư rất nhiều dự án tại Việt Nam đặc biệt là tại thành phố nơi tôi sống. Trường đại học kinh tế nơi tôi từng học, qua mối quan hệ với Dr Hoods tôi đã tìm được nhiều suất học bổng sau đại học cho các khoá sinh viên sau này.

Trên Facebook cá nhân, tôi đặt ảnh ba tôi làm avatar và hình nền là ảnh tôi ngồi sửa xe năm xưa mà Dr Hoods chụp tặng tôi. Thỉnh thoảng mở facebook, tôi lại được nhìn ba tôi cười. Nhìn chân dung thời trai trẻ trong bộ quân phục lính dù mà tôi thầm ngưỡng mộ. Cám ơn ba, cuộc đời này con luôn tự hào được là con trai của ba. Tôi nhìn hình nền để được nhắc nhở rằng: Dù hôm nay tôi có là tiến sĩ danh giá thì quá khứ năm xưa, tôi đã từng là cậu sinh viên sửa xe đạp để tự nuôi mình.

Một đêm, nghe messenger báo tin nhắn, tôi tỉnh thức, nhìn màn hình điện thoại, có ai đó nhắn cho tôi:

- Xin chào!

Tôi nhắn lại: “Xin chào!” 

Nhìn nick name là John Le, tôi đoán là một Việt kiều. Người đó nhắn tiếp:

- Xin lỗi, cháu có phải là con trai của đại uý Giang, Hoàng Thanh Giang, không?

Tôi bật dậy, tim đập dồn. Tôi nhìn avatar của người đang chat. Đó là người đàn ông ở tuổi 70 trong quân phục lính dù, mũ đỏ giống quân phục ba tôi. Tôi đáp:

- Dạ, đúng rồi, con là con trai của ba Giang. Bác biết ba con à?

- Bác là trung uý Tá, Lê Văn Tá là đại đội phó của ba con.

Tôi mừng rơn mà tim đập thình thịch.

- Vậy bác có biết tin tức gì về ba con không?

Bác không đáp mà hỏi lại: 

- Vậy từ đó đến nay con không có tin tức gì về ba à?

- Dạ không, con và mẹ không biết ba còn hay mất.

Một lát lâu bác nhắn lại: 

- Ba con mất rồi!

Dẫu biết câu trả lời sẽ không chút hy vọng nhưng lời chat của bác làm tôi không khỏi bàng hoàng.

- Ba con mất ở đâu? Khi nào? Bác biết không?

- Ba con mất trên cầu Sài Gòn vào buổi sáng 30/4/1975.

Hình minh họa

Rồi bác kể: Sáng hôm đó đại đội ba tôi chỉ còn hơn 10 người. Vì bị truy kích nên phải rút về cố thủ trên cầu Sài Gòn. Cuộc giao tranh ác liệt vẫn chưa dừng lại. Quân số và súng đạn không thể đối chọi với quân giải phóng. Phải rút tiếp thôi! Ba tôi cùng hai đồng đội bò lên phía trước thu hút hoả lực địch để toán còn lại phía sau có cơ hội thoát lui. Khi trung uý Tá cùng các chiến hữu về được bên trong cầu Sài Gòn thì hoả lực đã nổ tung khiến thân xác ba tôi cùng hai chiến hữu của ông bị hất tung lên rồi rớt xuống sông. Khi trung uý Tá rút về đến ngã tư Hàng Xanh thì trên loa truyền thanh, Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng và yêu cầu các lực lượng quân đội VNCH bỏ súng.

Tôi ngồi úp mặt vào lòng hai bàn tay. Tưởng tượng lại phút giây chiến đấu không cân sức nhưng bi hùng của ba tôi năm ấy trên cầu Sài Gòn mà nước mắt giàn dụa. Bình tâm lại tôi gọi điện thoại cho mẹ. Mẹ tôi nghe máy khi nghe tôi báo là đã có tin tức của ba. Câu đầu tiên mẹ hỏi là “ba con giờ đâu rồi?” Tôi ngậm ngùi kể lại nội dung vừa chat với bác Tá. Mẹ tôi im lặng nghe tôi kể, khi tôi nghe mẹ nấc lên trong điện thoại là mẹ tắt máy.

Ngày hôm sau mẹ điện thoại bảo là tôi đưa mẹ vào cầu Sài Gòn được không? Tôi bảo được. Chiều hôm sau, theo chuyến bay, mẹ, chị và tôi vào Tân Sơn Nhất rồi đón taxi đến cầu Sài Gòn. 

Chúng tôi đi bộ dọc theo thành cầu mà mường tượng trận đánh cuối cùng năm xưa. Cầu Sài Gòn người xe như mắc cửi. Dưới cầu, sông Sài Gòn lượn lờ mang những mảng lục bình trôi về biển. Trong dòng nước bao la ấy, thân xác, thịt da ba tôi cùng với bao người của hai chiến tuyến và những người dân vô tội năm xưa, bao năm nay đã bị rửa trôi về cùng biển mặn. Chiến tranh đã lùi xa nhưng nỗi đau vẫn còn ở lại với bao người trong đó có gia đình tôi. Mẹ thẩn thờ nhìn những mảng lục bình trôi xuôi như cố tìm dáng hình ba tôi trong ấy. 

Qua đến bên kia cầu, tìm được nơi, tôi thắp bó hương rồi trao nửa bó cho mẹ, nửa còn lại chị em tôi chia ra cắm xung quanh. Mẹ tôi quỳ hướng về sông, lâm râm khấn. Chắc trên trời ba tôi đã hiểu nỗi đau trong lời khấn của mẹ. Bà đã đi gần nửa thế kỷ trong thân phận  người vọng phu. Mẹ tôi cắm phần hương trên mô cát gần đó để mặc cho làn khói bay xa. Tôi mong sao làn khói kia cuốn bớt nỗi đau trong lòng mẹ. Hương tàn hơn nửa, tôi bảo mẹ:

- Thôi mình về đi mẹ.

Mẹ không quay lại, giọng buồn buồn: 

- Hãy để hương cháy thêm lát nữa đi con.

Hai chị em tôi lặng im, chắp tay đứng sau lưng mẹ, cứ để mẹ thì thầm từ tận đáy lòng với ba tôi trong cõi hư vô. Nén hương cháy hết, tắt hẳn, mẹ mới quay lại gật đầu: 

- Mình về thôi các con!


Vậy là gia đình tôi chọn 30/4 là ngày giỗ ba tôi. Hôm nay là ngày giỗ đầu tiên của ba. Gia đình cũng vừa nhận được tin vui là bác Tá, chiến hữu của ba cũng về dự giỗ. Bác bảo rằng đây là lần về Việt Nam đầu tiên kể từ ngày bác định cư ở Mỹ. Trước khi đáp chuyến bay tiếp theo về thăm gia đình tôi, bác sẽ đến cầu Sài Gòn thắp hương tưởng niệm ba tôi cùng đồng đội bỏ mình ngày đó. Hy vọng cuộc tương phùng này, qua bác, gia đình tôi sẽ biết thật nhiều về đời binh nghiệp của ba, đặc biệt là trong những ngày cuối của cuộc chiến.

Sáng nay tôi dậy sớm, sửa sang và dâng hoa bàn thờ ba trước khi đi dự buổi lễ kỷ niệm ngày “Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước” do Uỷ ban nhân dân thành phố mời. Vì tính chất trong quan hệ đối ngoại giữa cơ quan đại diện viện nghiên cứu với cấp chính quyền sở tại mà tôi không thể không dự.

Buổi lễ diễn ra hết sức hoành tráng. Trước khi vị chủ tịch đọc diễn văn là các màn trình diễn múa vui văn nghệ. Các bài ca đi cùng các vũ điệu tái hiện những giây phút hào hùng của ngày chiến thắng năm xưa. 

Vị chủ tịch lên đọc diễn văn kỷ niệm ngày chiến thắng. Các điệp khúc “Mỹ cút, nguỵ nhào”, “Chiến thắng vinh quang dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng” gần nửa thế kỷ được lặp lại trong giọng đọc đầy tự hào của vị chủ tịch. Trước khi kết thúc buổi lễ, dàn đồng ca lên sân khấu hát vang bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Tôi quay lại, chỉ có quan khách ngoại giao nước ngoài, kể cả tôi là còn ngồi. Hầu hết hội trường đều đứng dậy hát theo trong nhịp vỗ tay tự hào.

Khi người dẫn chương trình tuyên bố bế mạc, tôi đứng dậy. Vị chủ tịch thành phố tiến đến tươi cười bắt tay tôi. Ông cám ơn tôi vì đã tham dự cùng với lời mời trân trọng:

- Hôm nay là kỷ niệm ngày chiến thắng, Uỷ ban có tổ chức buổi tiệc trưa long trọng, xin mời anh đến dự.

Tôi cười đáp lại: 

- Rất cám ơn lời mời của anh nhưng trưa nay tôi không thể.

- Anh bận việc gì à? Vị chủ tịch hỏi lại, tôi rời bàn tay ông còn đang nắm chặt, trả lời:

- Hôm nay là ngày giỗ ba tôi.

Khánh Lưu

(Internet)


Kính mời quý vị nghe đọc truyện




Thứ Tư, 24 tháng 4, 2024

Xin Hãy Làm Ánh Đuốc

XIN HÃY LÀM ÁNH ĐUỐC
Nguyệt Ánh

Trân trọng 
NHHN 

Kính mời quý vị thưởng thức 




Sáng Danh Lạc Hồng

SÁNG DANH LẠC HỒNG 
Cục Chính Huấn

Trân trọng 
NHHN 

Kính mời quý vị thưởng thức 




Việt Dzũng - Một Chút Quà Cho Quê Hương

MỘT CHÚT QUÀ CHO QUÊ HƯƠNG 
Việt Dzũng

Trân trọng 
NHHN 

Kính mời quý vị thưởng thức 




Lời Kinh Đêm | Nhạc: Việt Dzũng - Thơ: Mán Thuận

LỜI KINH ĐÊM
Thơ: Mán Thuận
Nhạc: Việt Dzũng

Trân trọng 
NHHN 

Kính mời quý vị thưởng thức 




Tình Ca Cho Nguyễn Thị Sài Gòn

TÌNH CA CHO NGUYỄN THỊ SÀI GÒN 
Việt Dzũng

Trân trọng 
NHHN 

Kính mời quý vị thưởng thức 




Hãy Trả Lại Tôi Tên Gọi Saigòn

HÃY TRẢ LẠI TÔI TÊN GỌI SAIGÒN
Xuân Điền & Việt Dzũng

Trân trọng 
NHHN 

Kính mời quý vị thưởng thức




Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên

SÀI GÒN NIỀM NHỚ KHÔNG TÊN 
Nguyễn Đình Toàn 

Trân trọng 
NHHN 

Kính mời quý vị thưởng thức 




Saigon Ơi Vĩnh Biệt

SAIGON ƠI VĨNH BIỆT 
Nam Lộc

Trân trọng 
NHHN 

Kính mời quý vị thưởng thức 




Cao Nguyên Con Trai Của Tôi


Hình minh họa

CAO NGUYÊN CON TRAI CỦA TÔI
Phạm Tín An Ninh
               
Một câu chuyện có thật vô cùng thương tâm của một người vợ lính Biệt Động Quân - Quân Lực VNCH. Được kể lại tài tình dưới ngòi bút của Phạm Tín An Ninh

Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư ở NA UY, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những mùa đông dài băng giá. Nhưng lại rất đẹp vào những ngày hè và lãng mạn vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy lòng mình trăn trở. Không phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong ”Rừng Na-Uy”, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng. TIẾNG KHÓC CÓ MÃNH LỰC QUYẾN DỤ TÔI, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm cho tôi đau đớn, khốn khổ cả một đời.

Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới.

Có lẽ ngày ấy tôi là một cô gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường Nữ Trung Học, cũng đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình, đạp xe theo tôi sau những buổi tan trường. Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng SVSQ Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh.

Như là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người. Anh là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp từ thời còn ở trường Võ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạn, cũng chẳng có điều gì trắc trở. Ông xã tôi là lính BIỆT ĐỘNG QUÂN.

Hậu cứ đóng ở Pleiku. Ngày về làm đám cưới, đôi giày saut của anh còn bám đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới chúng tôi được tổ chức tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa mới trải qua khói lửa Mậu Thân. Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng, rồi phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên, không an toàn khi tôi phải sống một mình. Chỉ những khi nào tiểu đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.

Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng. Một đứa con trai bụ bẫm. Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho con là Cao Nguyên, LÊ CAO NGUYÊN. Anh về phép thăm con khi cháu vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha. Đôi mắt to, sóng mũi cao, và đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có MỘT LỖ TAI NHỎ NHƯ BA NÓ. Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về đơn vị, anh bị thương nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con lên Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi,  nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày, để tôi thăm và săn sóc anh trong quân y viện. Sau khi xuất viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp việc.

Cuối năm 1973, trong một lần VC pháo kích vào trại gia binh,  làm một số đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên. Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở. Năm sau, khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên và yêu nhau.

Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, những ngày nắng chỉ thấy toàn bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám dính gót chân. Pleiku đúng là một thành phố lính. Những người vợ lính sống ở đây dường như chỉ để CHỜ CHỒNG, trở về sau những cuộc hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày bị thương nằm trong quân y viện. Với họ thì đúng là ” may còn có anh đời còn dễ thương”. Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góa phụ!

Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc, một buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, chồng tôi hối hả bảo mẹ con tôi và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ mang theo những gì cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, để theo anh vào hậu cứ. Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại.

Thành phố Pleiku như đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình nay vội vàng bỏ đi, không một tiếng giã từ.

Đang giữa mùa xuân mà cả một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng tôi, bằng một cơn mưa đổ xuống, khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng lại. Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ các binh chũng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi và bạn bè nói là một số ĐƠN VỊ BIỆT ĐỘNG QUÂN được chỉ định đi sau, ngăn chận địch quân tập hậu ĐỂ BẢO VỆ CHO ĐOÀN NGƯỜI DI TẢN. Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một cuộc hành quân triệt thoái.

Hơn một ngày mò mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã HẬU BỔN vào lúc trời sắp tối. Vừa dừng lại, chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và súng nổ khắp nơi. Xe và người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng. ĐỊCH ĐÃ BAO VÂY. Các đơn vị BĐQ chống trả kiên cường, nhưng địch quá đông, và bên ta thì VỪA QUÂN VỪA DÂN CHEN CHÚC NHAU HỖN ĐỘN. Trong lúc nguy nan này trời lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều bất hạnh: Một chiếc phản lực cơ DỘI BOM NHẦM vào quân bạn. Đoàn xe vội vã rời Hậu Bổn, di chuyển đền gần Phú Túc thì lại bị địch tấn công từ khắp hướng. Nhiều xe bốc cháy và rất nhiều người chết hoặc bị thương. Cả đoàn xe không nhúc nhích được.

Chúng tôi có lệnh bỏ lại tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về CỦNG SƠN. Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ, vợ con. Tôi dắt theo Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương. Chúng tôi lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn lửa như muốn xé màn đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc đến bờ một con sông nhỏ. Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi cùng một số đồng đội chia nhau canh gác. Mệt quá, tôi ngủ vùi một giấc, thức dậy thì trời vừa sáng. Chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Tôi không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải dùng cái võng nilong, gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp.

Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên, khi thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị thương, mình đầy máu. Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt dìu nhau đi tìm sự sống. Hình như họ không còn mang theo bất cứ thứ gì. Nhìn nét mặt ai nấy cũng KINH HOÀNG. Chồng tôi bàn bạc cùng một số bạn bè trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám đông này, tìm một lộ trình khác mà đi, để tránh sự phát hiện của địch. Vừa rời đoàn người vài phút thì đạn pháo thi nhau rót xuống. Tiếng la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả một khu rừng như trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng tôi cũng đã có một số người chết. Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm đường sống. Gia đình tôi cùng gia đình vài người bạn nữa chạy vào khu rừng phía trước, nơi không nghe tiếng súng. Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ còn dùng để MONG CỨU ĐƯỢC VỢ CON MÌNH.

Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị tan rã. Đồng đội kẻ chết người bị thương. Có thể một số đã bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng được số mệnh bi thảm của những người lính biệt động một thời oanh liệt trên khắp chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ, tức tửi! Chồng tôi suýt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ ông tướng tư lệnh Quân Đoàn: “ĐẠP LÊN MÀ ĐI” Trong cả đời binh nghiệp, chắc những người lính không còn nhận cái lệnh nào đau đớn hơn thế nữa!

Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một toán lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi. Thầy trò chưa kịp nắm tay mừng rỡ thì súng nổ. Địch quân phía trước mặt. Trở lại cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, điều động anh em xông vào trận mạc. Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt. Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi tiếp. Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật RỢN NGƯỜI. Tôi hình dung đến cái bóng của tử thần. Chúng tôi dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Tội nghiệp cho những người lính trung thành. Đáng lẽ họ lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, vì đó là sở trường của họ, nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương không thể đi nổi, nghe lời chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm.

Sau khi sắp xếp anh em phòng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho mẹ con tôi. Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được. Chồng tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây. Anh ôm tôi thật chặt vào lòng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trên môi, trên tóc. Trong hoàn cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để lãng mạn yêu thương, nhưng có lẽ anh đang tội nghiệp cho một người con gái đã trót CHỌN CHỒNG LÀ LÍNH CHIẾN. Và không ngờ đó lại là những nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi. Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch. Cũng là lần cuối cùng tôi chứng kiến những người lính biệt động can trường. Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông vào lòng địch mà đánh, tiếng thét ”BIỆT ĐỘNG QUÂN SÁT” vang dội cả một vùng. Nghe súng nổ, tôi đoán lực lượng địch đông lắm. Một anh trung sĩ bị thương ở cánh tay trong trận đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả đám đàn bà con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến. Đã vậy anh còn phải dìu theo một người lính bị thương khác.

Vợ chồng tôi THẤT LẠC NHAU kể từ phút ấy. Tôi còn lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay cả những khi lâm trận. Không biết chiếc áo giáp có đủ che chắn hình hài bé nhỏ của con tôi! Hình ảnh này trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn truyện Tàu mà tôi đã đọc. Tiếp tục di chuyển chừng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường mòn, chúng tôi lại nghe súng nổ. Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi nhận ra từng loạt lựu đạn nổ, bảo tât cả chúng tôi nằm rạp xuống. Chờ im tiếng súng, đám chúng tôi rời con đường mòn, chạy về hướng rừng bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn hơn. Khi đến bìa rừng, tôi bàng hoàng nhìn thấy mấy người lính biệt động quân nằm chết bên cạnh xác quân thù, máu me lai láng. Sau này tôi được biết những người lính này bị địch bao vây, đã tự sát để cùng chết chung với giặc.

Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nữa thì chúng tôi bị một đám khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí. Tất cả chúng tôi BỊ LÙA VÀO bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp một số sĩ quan, binh sĩ của ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra sau, ngồi theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước họng súng sẳn sàng nhả đạn của kẻ thù. Tôi cố ý tìm xem, nhưng không thấy chồng tôi trong số người bị bắt. Lòng tôi LO ÂU VÔ HẠN. Từ lúc ấy, tiếng súng tạm im, chỉ còn tiếng quát tháo với cái giọng rất khó nghe của đám người thắng trận. Tất cả chúng tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một ngôi trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Hòa). Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn. Chị giúp việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy Dương, vừa lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát. Nhìn đứa con gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con trai giờ này không biết sống chết ra sao, LẦN ĐẦU TIÊN TÔI BẬT KHÓC.

Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng vừa lọt vào tay giặc. Lúc nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng và khóc như mưa. Tôi không đủ can đảm mang tin buồn đến nhà chồng, nhờ cha tôi sang báo tin, tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang mất tích. Cả nhà chồng kéo sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà săn sóc. Mẹ chồng tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này.

Nằm nhà hơn một tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình phục, tôi xin được trở lại PHÚ BỔN  tìm chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà tôi và cha mẹ chồng đều ái ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út của chồng tôi, dùng xe honda chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7.

Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi Tôi nhìn thấy :

- ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy
- những bộ xương người con vương vãi đó đây
- bao nhiêu nấm mộ lấp vội bên đường.
- Cả một vùng xông mùi tử khí.

Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số.

Đến CHEO REO Tôi hỏi thăm một vài người dân, được biết một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở THUẦN MẪN. Chúng tôi đến đó, trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản, mới được cho vào trại.

Sau khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ một sĩ quan nào cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi được gặp anh đại đội phó lúc chồng tôi còn ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo TU NA. Họ cho biết chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một nơi nào đó. Tôi SÁNG LÊN NIỀM HY VỌNG. Ngay hôm ấy tôi thuê 5 người Thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi tìm. Liên tục trong một tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số ngôi mộ vô danh, nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo NIỀM TUYỆT VỌNG không chỉ cho tôi, mà cho cả nhà chồng. Cha mẹ chồng tôi LẬP BẢN THỜ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích tôn của ông bà.

Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con. Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại PHÚ BỔN tìm đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao Nguyên. Tôi đã CÙNG DAO KHẮC ĐẬM TÊN ANH VÀ CHÁU CAO NGUYÊN vào thân cây.Và lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm vươn vải, do bom đạn hôm nào, tạo thành một thứ âm thanh não nùng, xé ruột.

Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định cư sau chuyến vượt biển, được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu vớt. Tháng 5 năm 1985, cha mẹ chồng tôi góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển. Tôi, cháu Thùy Dương và một đứa em trai của tôi được đi cùng với gia đình chồng. Tôi cũng xin được một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị đã về quê trên vùng Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của tôi mang lên biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.

Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ chồng cháu về lại Việt Nam trình diện ông bà ngoại, và đến địa điểm cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên còn sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng nhớ đến cha và anh mình. Chúng tôi đến đây đúng vào giữa mùa Xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con trai. Con đường TỈNH LỘ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành QUỐC LỘ 25. Chúng tôi thuê bao một chiếc xe 8 chỗ ngồi.

- Ngoài tôi
- vợ chồng cháu Thùy Dương
- còn có cậu em trai út của tôi
- và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa.

Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A YUN PA thuộc tỉnh GIA LAI. Tất cả không còn gì dấu vết của chiến tranh. Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành phố núi này, để có dáng dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn “cải biên” thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng nghèo nàn được mang tên “thị xã”. Nhìn dãy NÚI HÀM RỒNG  từ xa, ẩn hiện trong những đám mây mù, lòng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy tôi đã vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo khi ban quân nhạc trổi khúc quân hành. Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.

Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường đến tháp YANG MUN và tháp DRANG LAI. Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn vái và xin xăm.

Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xăm tôi bốc trúng lại là bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:

Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây
Rõ ràng hoa rụng hương bay
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi

Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business. Chẳng lẽ ông thần Chàm này lại thuộc cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng thấy bốn câu thơ lại đúng vào trường hơp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô hạn.

Trở về phòng trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của người dân tộc, vừa đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia cầm với giá rất rẻ. Tôi cũng muốn mua mấy con gà, để cúng chồng tôi. Khi còn sống anh thích ăn gà luộc. Bà còn cho biết thêm dân chúng ở vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và M’dhur. Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này từ 10 tới hơn 20 cây số.

Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu họ nói gì. Chợ phiên nhóm rất sớm. Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ phiên của người sắc tộc. Đã vậy vợ chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ. Khi đang cố giải thích về nguồn gốc của người Thượng.

Chúng tôi đến một quày gà. Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong mấy cái lồng đan bằng tre. Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi lồng. Người chủ là một anh đàn ông Thượng vừa đen vừa ốm, nói tiếng Việt chưa sõi. Khi anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng giật mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết sẹo CÓ HÌNH DÁNG ĐẦU MỘT CON CỌP. Tôi nhớ tới Cao Nguyên, đứa con trai ba tuổi , bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia binh ở Biển Hồ. Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình ảnh đầu một con cọp. Biểu tượng binh chủng BĐQ mà chồng tôi luôn mang trên vai áo. TÔI BIẾN SẮC, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta. Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sóng mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái tóc màu nâu sậm như màu đất đỏ Pleiku. Không có nét đẹp của Cao Nguyên ngày trước. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi mặt xuống, khựng lại. Nhưng TÔI KỊP NHỚ RA trên vành tai của Cao Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào tai anh người Thượng. Tôi bàng hoàng khi NHẬN RA 2 CÁI LỔ TAI NHỎ trên hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt trào ra.

Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra rồi nói một tràng tiếng Thượng. Vợ chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì. Nghĩ tới chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi bảo cháu Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước. Tôi kéo chị ra xa, nói vào tai chị:

– Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không?

Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời tôi mà thì thầm một mình:

– Thằng Nguyên? Chẳng lẽ là thằng cu Nguyên?

Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi:

– Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?

Anh người Thượng lắc đầu:

– Tao là thằng Ksor Tlang,

Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và đưa cho anh một nắm tiền. Sau khi đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nữa, rồi buột miệng:

– Mày bắt cái con gà nhiều tiền quá!

Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi chạy vào phòng trọ tìm bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy ra. Có lẽ bà ta là người tai mắt ở đây, nhưng là một người tốt bụng, bà nhấc điện thoại gọi công an. Chưa đầy ba phút, hai gã công an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà chủ. Chưa kịp nói gì, bà chủ kéo tay hai gã công an ra chợ. Vừa đi bà vừa giải thích. Đến nơi, gã công an nói một tràng tiếng Thượng. Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại. Cuối cùng hai người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại. Chúng tôi đi theo phía sau trở về phòng trọ.

Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch lại các điều trao đổi giữa tôi với anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách tìm ra tông tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la.

– Em có cha mẹ không? Tên ông bà là gì ?
– Tôi có cha mẹ. Cha tôi tên Ksor H’lum, mẹ tôi tên H’Nu.
– Có anh em không?
– Không.
– Anh có nhớ ngày sinh không?
– Không
(Gã công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ tìm khai sinh sau)

– Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không?
– Không! Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà.
– Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết vì sao mà có cái sẹo này không?
(Gã công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)

– Không! Chắc là bị cành cây đâm trúng.

Tôi THỞ RA THẤT VỌNG. Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi:

– Cha mẹ anh đang ở đâu?
– Buôn BAN MA DEK.
(Gã công an nhìn tôi, bảo: Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)

– Anh ở chung với cha mẹ anh?
– Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con.
– Đã có vợ con rồi à ! Tôi buột miệng.

Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu. Nhưng bảo là chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô không chạy được. Bà chủ nhà trọ gọi hộ chúng tôi bảy cái xe ôm.

Cha mẹ của anh bán gà đã khá già, trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi nên không nói được tiếng Việt. Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của gã công an người Thượng. Vợ và hai con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn. Ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng thấy TÔI KHÓC LÓC NĂN NỈ và nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha mới kể lại sự thực:

– Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá to trước nhà để tránh đạn. Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng lắm, nhưng cố lếch vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.

– Rồi xác người lính ấy ở đâu? Tôi hỏi.

Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:

– Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới lên ăn thịt.

Chúng tôi theo hai người công an dìu ông già đi về phía khu rừng.

Tôi KHÓC NGẤT khi nhìn thấy nấm mồ thấp lè tè nằm dưới tàng cây, được rào lại bằng những que gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng quỳ xuống, ôm vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi. Nó đang đứng bất động, hai tay nắm chặt hai đứa con đang trần truồng, đen đúa. Tôi chạy lại ôm hai đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.

Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông già mới cùng vợ chồng và hai đứa con thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksor Tlang và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà già, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp tiền bạc cho ông bà sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông già MỘT MỰC CHỐI TỪ bảo là họ không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng mãi mãi là nhà của họ. Họ không thể sống xa rừng cũng như loài cá không thể sống mà không có nước.

Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi. Ban đầu tôi dự định xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng trong nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý. Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành người Thượng và chắc không biết gì về anh. Và có lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao nhiêu đồng đội, một thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảng phất ở quanh đây.Tôi mướn thợ xây lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụp chung với tôi cùng hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang theo. Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng, nơi đã cưu mang nó. Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó đã vận vào cuộc đời của nó.

Điều làm tôi đau đớn hơn là tôi chẳng làm được điều gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ của mình, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ nuôi một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng rãi hơn, sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một số quần áo mới. Nhưng phải năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la. Bằng đúng số tiền mà tôi đã trả công cho hai gã công an!

Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi nhà sàn mới. Buổi chiều, tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp hương trước mộ ba nó. Nó quỳ bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm trong miệng và khi ngước lên, ĐÔI MẮT ĐỎ HOE. Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình.Tôi nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày chỉ vừa lên bốn tuổi.

Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo TỈNH LỘ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, mà ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa, mà tất cả đều mang hình dáng của những bộ xương người nối tiếp nhau, trùng điệp. Tai tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió. Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếng khóc của cây?

(Sài Gòn trong tôi/ Phạm Tín An Ninh (theo lời kể của một người vợ lính BĐQ)).