- Giải pháp Khu Vực Xám của Ông Lê Xuân Khoa đối nghịch với chương trình ROVR
Nguyễn Đình Thắng Ngày 17 tháng 12, 2024 http://machsongmedia.org Ngày 25 tháng 7, 1995 DB Christpher Smith, chủ tịch Tiểu Ban Nhân Quyền và Hoạt Động Quốc Tế và tác giả điều luật chống CPA, triệu tập buổi điều trần công khai liền sau buổi điều trần kín tuần trước đó. Mục đích của buổi điều trần này và 2 buổi tiếp theo là đối phó nỗ lực của Bộ Ngoại Giao nhằm triệt hạ điều luật của DB Smith ở Thượng Viện. Bà Phyllis Oakley, Trợ Lý Ngoại Trưởng đặc trách tị nạn, đại diện Bộ Ngoại Giao là người đầu tiên điều trần. CPA là đúng đắn, không thuyền nhân nào bị đàn áp khi hồi hương Bà Oakley khẳng định rằng “Chương trình CPA, theo quan điểm của chúng tôi, là một thành công vì nhiều lẽ”: - “Thanh lọc” tị nạn dưới CPA không hoàn hảo nhưng công bằng và được giám sát bởi CUTN/LHQ.
- Trong 3 năm qua, Bộ Ngoại Giao tài trợ 8 triệu Mỹ Kim cho 4 tổ chức để tái hội nhập thuyền nhân hồi hương. Các tổ chức này không thấy sự đàn áp đối với 72.000 thuyền nhân đã hồi hương.
- Hơn 40.000 thuyền nhân còn ở các trại, hơn phân nửa ở Hồng Kông, đã không được xét là tị nạn và, theo CPA, bắt buộc phải hồi hương; họ sẽ không bị đàn áp vì Việt Nam giữ cam kết không trả thù.
Bà Oakley dẫn chứng rằng “những người của chúng tôi” hoạt động ở Việt Nam không thấy có sự đàn áp thuyền nhân hồi hương: “Chúng tôi có 4 tổ chức NGO, những người có thể tới lui. Kết luận của những người của chúng tôi là mức độ và cường độ giám sát thuyền nhân hồi hương là chưa từng có từ trước đến giờ, và chúng tôi không tìm thấy một dạng mẫu đàn áp hay kỳ thị nào.” Hình 1 – DB Christopher Smith cùng Ông Trịnh Văn Mến, thuyền nhân từ Thái Lan đã bị đàn áp nặng nề sau khi hồi hương, và vợ ở Sài Gòn, Việt Nam, tháng 12, 2005. Ngược lại, bà cáo buộc điều luật chống CPA của DB Smith tạo hy vọng hão làm cho mức hồi hương của thuyền nhân sút giảm ở các trại cấm, kéo dài khổ nạn của họ; hơn nữa, cho dù Hoa Kỳ tái phỏng vấn mọi thuyền nhân theo như chủ trương của DB Smith thì cũng chỉ một số ít hội dủ tiêu chuẩn tị nạn của Hoa Kỳ trong khi đó niềm hy vọng hão có thể tạo làn sóng thuyền nhân mới. Kết luận, Bà Oakley cho biết Bộ Ngoại Giao sẵn sàng châm chước cứu xét tái định cư một số ít thuyền nhân đang ở các trại dù không xứng đáng tư cách tị nạn: “...trong khi họ không được xét là tị nạn, dù vậy có thể vì lợi ích nhân đạo cho Hoa Kỳ... chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ một đề nghị tạo cơ hội phỏng vấn tái định cư sau hồi hương cho người hiện ở các trại đồng ý hồi hương tự nguyện.” Đề nghị ấy chính là cái mà Ông Lê Xuân Khoa gọi là “Khu Vực Xám” -- “xám” vì những người này không là tị nạn nhưng có thể được châm chước tái xét vì lý do quan hệ với Hoa Kỳ hoặc vì lý do nhân đạo đặc biệt. Xem nguyên bản điều trần của Bà Oakley ở phần tài liệu tham khảo, trang 2 - 6. Trò tung hứng Bốn tổ chức nhận tài trợ 8 triệu Mỹ Kim mà Bà Oakley nói đến gồm 3 thành viên chính thức của nhóm Tổ Hợp Consortium cộng với thành viên nới rộng là SEARAC, mà Ông Lê Xuân Khoa đứng đầu. Ông Lê Xuân Khoa không được mời điều trần nhưng nộp bản tuyên bố dài 5 trang với các điểm chính: - Tái thanh lọc cho một số hạn chế hồ sơ oan sai, bao gồm cựu tù cải tạo, một số binh lính Nùng, cựu nhân viên Hoa Kỳ, lãnh đạo tôn giáo, thân nhân của công dân Hoa Kỳ, và hồ sơ nhân đạo đặc biệt.
- Các quốc gia nhận tái định cư, trong đó có Hoa Kỳ, thực hiện việc tái thanh lọc và nhanh chóng tái định cư số hồ sơ được chấp nhận.
- Các quốc gia tạm dung khôi phục các dịch vụ cho thuyền nhân trong các trại.
- Con đường duy nhất cho các thuyền nhân còn lại là hồi hương.
- Tăng chương trình giám sát và dịch vụ hỗ trợ người hồi hương.
Minh chứng cho tuyên bố của Bà Oakley rằng không một ai trong số 72 nghìn thuyền nhân đã hồi hương bị đàn áp, Ông Lê Xuân Khoa viết: “... trong trường hợp những người hồi hương từ các quốc gia tạm dung, nhiều nhà quan sát quốc tế -- bao gồm các tổ chức nhân quyền và nhà báo đã thăm viếng Việt Nam để điều tra khả năng vi phạm nhân quyền trong số người hồi hương – đã không tìm thấy chứng cứ đàn áp. Cuối năm ngoái, một phái đoàn của Tổ Công Tác CPA thuộc Vụ Uỷ Ban Di Dân và Tị Nạn của tổ chức InterAction thăm viếng Việt Nam đã báo cáo rằng ‘chúng tôi không nhận được thông tin nào trong thời gian thăm viếng là tuyệt đại đa số người hồi hương có lý do sợ hãi chính quyền [Việt Nam] khi hồi hương.’ Họ viết thêm... ‘phái đoàn tin rằng tuyệt đại đa số người xin tị nạn [còn ở các trại] sẽ tốt hơn nếu tình nguyện về Việt Nam...’ “Riêng về phần tôi, tôi đã thăm viếng Việt Nam nhiều chuyến kể từ 1991. Tôi cũng không tin là có sự kỳ thị hay đàn áp có hệ thống. Rõ ràng là chính quyền Việt Nam, với sự chấm dứt Chiến Tranh Lạnh, đã chuyển từ lập trường Cộng Sản cứng rắn sang kinh tế thị trường. Trong tháng này, qua việc thiết lập quan hệ bang giao với Hoa Kỳ và trở thành thành viên của ASEAN [Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á], tiến trình hội nhập của Việt Nam vào cộng đồng các quốc gia đã tăng tốc. Như một kết quả, sẽ có nhiều cơ hội hơn để phát huy dân chủ và cải thiện thành tích nhân quyền của quốc gia này... “Trong những năm qua, nhiều nhóm trẻ người Mỹ gốc Việt đã thiết lập các chương trình của riêng họ, huy động nguồn lực của chính họ, để cung ứng sự trợ giúp cho cả những người hồi hương và những người không thuộc thành phần hồi hương. Không một nhóm nào trong số đó nhận diện bất kỳ trường hợp bị đàn áp nào.” Xem nguyên bản, trang 217 – 222, trong tài liệu tham khảo. Bản tuyên bố này có nội dung giống gần như đúc với bản lập trường mà Ông Lê Xuân Khoa là tác giả, đăng trên ấn bản Hè 1995 của tờ The Bridge của SEARAC, được tường thuật trong Bài 2. Đối chiếu phát biểu của Bà Oakley và bản tuyên bố của Ông Lê Xuân Khoa thì thấy ngay lập trường của họ là một, lý lẽ là một, thậm chí từ ngữ cũng là một. Đó là trò tung hứng của 2 thành phần đồng minh đang dốc sức triệt hạ điều luật chống CPA của DB Smith tại Thương Viện. Hình 2 – Đồng bào thuyền nhân trong trại cấm Hồng Kông tuyệt thực phản đối thanh lọc bất công và chống cưỡng bức hồi hương Phái đoàn InterAction trong vai trò mở đường Ông Lê Xuân Khoa nhắc dền phái đoàn InterAction thăm viếng Việt Nam cuối năm 1994. Đó là phái đoàn do ông ta hướng dẫn và cũng chính ông ta đã chuyển đạt thông điệp chung của phái đoàn đến mọi thuyền nhân còn ở các trại cấm qua “Thơ gửi người trong trại tị nạn Đông Nam Á” công bố ngày 15 tháng 2, 1995, chỉ vài ngày sau khi DB Smith đệ trình vào Hạ Viện điều luật chống CPA: “Nay thì tất cả những người binh vực cho tị nạn (refugee advocates) đều nhận thấy rằng những phương cách đấu tranh và đòi hỏi như trước đây không những sẽ không có hy vọng thành công mà nhiều khi có thể gây hậu quả trái ngược. “... những hoạt động thực tế và cần thiết nhất trong giai đoạn này là cố gắng vớt vát những trường hợp đã được InterAction đề nghị cứu xét, đồng thời mở rộng các chương trình bảo vệ và giúp đỡ những người đã và sẽ phải trở về nước.” “Để cho các hoạt động thực tế và cần thiết nói trên có thể đạt được kết quả tích cực, cộng đồng người Việt hải ngoại cần tuyệt đối tránh việc gửi đi những tin tức hoặc những tín hiệu sai lạc, đem lại cho đồng bào những hi vọng sai lầm, do đó gây nên những hậu quả tai hại cho nhiều gia đình, nhất là cho những người quá tuyệt vọng.” Phái đoàn InterAction đã mở đường cho Ông Lê Xuân Khoa và Bộ Ngoại Giao rao hàng cho giải pháp Khu Vực Xám. Khu Vực Xám đối nghịch với ROVR Sau khi chương trình ROVR ra đời, là kết quả của điều luật chống CPA của DB Sminh, Ông Lê Xuân Khoa vội nhận rằng nó xuất phát từ giải pháp Khu Vực Xám. Đấy là lập luận ngược ngạo vì cái mà ông ta gọi là Khu Vực Xám chỉ là mồi nhử của Bộ Ngoại Giao, hoàn toàn đối nghịch với điều luật chống CPA của DB Smith và với chương trình ROVR xuất phát từ điều luật này. Bảng dưới đây cho thấy sự đối nghịch này. Khu Vực Xám – mồi nhử của Bộ Ngoại Giao | | CPA là đúng đắn, được CUTN/LHQ giám sát; không ai bị từ chối tư cách tị nạn oan sai. Các thuyền nhân còn ở các trại không ai có tư cách tị nạn. Tình trạng nhân quyền ở Việt Nam đã cải thiện. Không một trường hợp thuyền nhân nào đã hồi hương bị đàn áp hay kỳ thị. Các thuyền nhân còn ở các trại có thể an tâm hồi hương. Phải bảo vệ và tuân thủ CPA đến cùng; tuy nhiên Hoa Kỳ có thể châm chước cứu xét lại cho một ít hồ sơ trên căn bản nhân đạo. Điều luật chống CPA của DB Smith – khởi điểm của chương trình ROVR Kết quả thanh lọc CPA hoàn toàn không đáng tin cậy; CUTN/LHQ đã tắc trách về bảo vệ người tị nạn. Tuyệt đại đa số thuyền nhân còn ở các trại bị bác tư cách tị nạn một cách oan sai. Nhà nước Việt Nam tiếp tục vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Nhiều thuyền nhân hồi hương bị đàn áp, tù đày. Tuyệt đại đa số thuyền nhân còn ở các trại đối mặt nguy cơ bị đàn áp nếu hồi hương. Xoá CPA; phỏng vấn lại tất cả thuyền nhân từ đầu bởi viên chức và theo tiêu chuẩn tị nạn của Hoa Kỳ. Một yếu tố pháp lý quan trọng cần giải thích: Theo Công ước LHQ, yếu tố xác định tư cách tị nạn là phải chứng minh được nỗi sợ hãi có căn cứ SẼ bị đàn áp nếu hồi hương (vì lý do chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, quan điểm chính trị hay thành phần xã hội đặc thù). Việc Bà Oakley và Ông Lê Xuân Khoa xác nhận rằng Việt Nam không còn chính sách đàn áp nhân quyền có hệ thống và thuyền nhân đã hoặc sẽ hồi hương không ai bị đàn áp đồng nghĩa với khẳng định rằng 72 nghìn thuyền nhân đã hồi hương và hơn 40 nghìn thuyền nhân còn ở các trại cấm đều không có tư cách tị nạn, thanh lọc dưới CPA là đúng đắn, hồi hương là con đường duy nhất còn lại cho họ. Các phát biểu điều trần tiếp theo sau Bà Oakley bác bỏ sự khẳng đinh ấy và chứng minh giải pháp mồi nhử Khu Vực Xám là không thể chấp nhận. Phần này sẽ được tường thuật trong bài sau. Hình 3 – Nữ thuyền nhân ở trại Sikiew, Thái Lan bị đối xử như phạm nhân trong khi điều trị tại bệnh viện Giờ đây chương trình ROVR đã hoàn tất. Chính kết quả của nó cho thấy chương trình này là đúng đắn: hơn 18 nghìn thuyền nhân, tức hơn 97% thuyền số thuyền nhân được Hoa Kỳ phỏng vấn, đã bị đàn áp sau khi hồi hương nên được xét là tị nạn và tái định cư vào Hoa Kỳ. Trong khi đó Ông Lê Xuân Khoa và Bộ Ngoại Giao khẳng định rằng thuyền nhân không hề bị đàn áp khi hồi hương; họ đề xuất Khu Vực Xám để “vớt vát” số ít hồ sơ không tư cách tị nạn nhưng có quan hệ với Hoa Kỳ hoặc yếu tố nhân đạo đặc biệt. Đại Sứ Rees, người đồng hành với DB Smith và tôi từ khởi đầu đến kết cục của chương trình ROVR, nói về điều này: “Trong số khoảng 19.000 người được xét đủ tiêu chuẩn cho các cuộc phỏng vấn [với viên chức tị nạn Hoa Kỳ] – Phòng Dân Số, Tị Nạn và Di Dân [dưới quyền của Bà Phyllis Oakley] đã hạn chế tiêu chuẩn ấy bằng cách đề ra các thời hạn tuỳ tiện, và do đó loại trừ khoảng 100 nghìn thuyền nhân đã hồi hương lẽ ra đủ tiêu chuẩn – và trong số 19.000 người này, tuyệt đại đa số, hơn 18.000, được khám phá là người tị nạn và được tái định cư vào Hoa Kỳ. “Tôi luôn cảm thấy hãnh diện về vai trò của tôi trong tiến trình đề ra chương trình ROVR, dù tôi không bao giờ cho là ý kiến tốt khi bắt buộc thuyền nhân hồi hương về Việt Nam như điều kiện để được cứu xét và tôi tin rằng chương trình này phải mở ra cho mọi người hồi hương dưới CPA. Cho đến ngày hôm nay, tôi luôn vui mừng mỗi khi gặp một ai đó đã tái định cư Hoa Kỳ theo chương trình ROVR. Và, do nhứng lý do kể trên, tôi luôn tin rằng chương trình ROVR đã không thể có nếu như không do các nỗ lực của chúng tôi để thông qua điều luật chống CPA của DB Smith.” Đó là trích từ email mà ĐS Rees trả lời Ông Lê Xuân Khoa ngày 29 tháng 1, 2022. Ông Lê Xuân Khoa đã giấu nó; luật sư của chúng tôi đã phải liên lạc trực tiếp với ĐS Rees để có tài liệu này. Tài liệu tham khảo: Nguyên bản chuyển tả buổi điều trần ở Hạ Viện Hoa Kỳ ngày 25 tháng 7, 1995: https://chrissmith.house.gov/uploadedfiles/1995.07.25_indochinese_refugees_-_comprehensive_plan_of_action.pdf Bản lập trường của SEARAC: https://dvov.org/wp-content/uploads/2024/11/The-Bridge-Summer-1995.pdf “Thơ gửi người trong trại tị nạn Đông Nam Á” của Ông Lê Xuân Khoa: https://dvov.org/wp-content/uploads/2024/11/LXKs-letter-to-boat-people-Feb-15-1995.pdf Email của ĐS Rees gửi Ông Lê Xuân Khoa ngày 29 tháng 1, 2022: https://dvov.org/wp-content/uploads/2024/11/GJRs-response-to-LXKs-email-public.pdf Mạch Sống
| |
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét