THƠ CỦA LÝ BẠCH - BÀI 109, 110 VÀ 111
Thầy Dương Anh Sơn
THƠ CỦA LÝ BẠCH
Bài 109
ANH VŨ CHÂU 鸚鵡洲
Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ, 鸚鵡來過吳江水,
Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh. 江上洲傳鸚鵡名。
Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ, 鸚鵡西飛隴山去,
Phương châu chi thụ hà thanh thanh. 芳洲之樹何青青。
Yên khai lan diệp hương phong noãn, 煙開蘭葉香風暖,
Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh. 岸夾桃花錦浪生。
Thiên khách thử thời đồ cực mục, 遷客此時徒極目,
Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh? 長洲孤月向誰明?
Dịch nghĩa:
Dòng sông Ngô, chim anh vũ đã vượt qua, - Bãi đất cát trên sông đã truyền lại cái tên Anh Vũ. – Chim anh vũ bay đến từ núi Lũng phía tây, - Bãi sông thơm ngát với những hàng cây sắc xanh ngắt mượt mà biết bao! (c.1-4)
Khói tỏa vào những ngọn lá của hoa lan ,hương thơm (lồng trong) ngọn gió nồng ấm, - Bờ sông gần với hàng cây hoa đào sinh ra những con sóng tươi đẹp ( phản chiếu trên sóng nước). – Lúc này khách đi đày đang đi bộ nhìn căng mắt ra!, - Vầng trăng lẻ loi nơi bãi dài đang soi sáng hướng về ai đây? (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
BÃI ANH VŨ.
Dòng Ngô anh vũ vượt qua,
Bãi sông Anh Vũ truyền là tên đây!
Về tây ,núi Lũng chim bay,
Bãi thơm ngào ngạt, hàng cây xanh tràn.
Khói dâng nồng ấm hương lan,
Hoa đào sinh sóng bờ gần đẹp tươi!
Khách đày dõi mắt xa xôi!
Bãi dài trăng lẻ hướng người nào soi?
Chú thích:
** Năm 760, Lý Bạch đã 56 tuổi đang bị đi đày đến huyện Dạ Lang, Quý Châu đã làm bài thơ này lúc đang đợi chiếc đò qua bờ kia của Trường Giang
- anh vũ 鸚鵡: loài chim két, lông có nhiều màu sắc, có thể tập cho biết nói một số câu nhất định nên vẫn gọi là loài vẹt, lập đi lập lại...
- Ngô giang 吳江: con sông Trường Giang (Dương Tử Giang) chảy qua địa phận nước Ngô
- Anh Vũ (châu) 鸚鵡洲: tên bãi sông ở Trường Giang, Vũ Xương 武昌, Hồ Bắc 湖北, Trung Hoa. Bãi này nằm trên sông Trường Giang phía tây nam huyện Hán Dương, Hồ Bắc. Câu chuyện về cái tên của bãi xảy ra như sau: Về cuối đời Đông Hán,Hoàng Tổ làm thái thú miền Giang Hạ có con trưởng tên là Xạ mở tiệc đãi tân khách. Có người dâng con chim vẹt (anh vũ). Một tân khách là Nễ Hành nhân đó làm bài phú nên từ đấy bãi sông có chim vẹt thường đến được gọi là ANH VŨ CHÂU. Về sau, Nễ Hành đã bị Hoàng Tổ giết chết cũng mang chôn tại đây. Bãi Anh Vũ nổi tiếng nhờ nhiều cảnh đẹp và càng đẹp thêm nhờ bài thơ tuyệt vời là Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu (704-754, cùng thời với Lý Bạch) trong đó có câu: “.... Phương thảo thê thê Anh Vũ châu, Nhật mộ hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhân sầu.... 芳草萋萋鸚鵡洲.日暮鄉關何處是, 煙波江上使人愁. ”(Cỏ thơm tươi tốt nơi bãi Anh Vũ. Trời về chiều, nơi nào là quê nhà, Khói và sóng trên sông khiến cho người đượm nỗi sầu!). Toàn bộ bài thơ thất ngôn bát cú này của Thôi Hiệu thật sự toàn bích và hoàn hảo khiến cho bậc “thi tiên” như Lý Bạch khi đến lầu Hoàng Hạc rất thán phục và “nói không được (đạo bất đắc)” khi ông viết: ” Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc, Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu...” (Trước mắt có cảnh mà không nói được, Thôi Hiệu đã đề thơ ở trên đầu rồi!) [dẫn: Trần Trọng San, THƠ ĐƯỜNG, cuốn1, Bắc Đẩu X.B lần 3, Saigon 1972, tr.112]
- Lũng Sơn 隴山: tên núi và tên huyện ở Thiểm Tây, Trung Hoa.
- hà thanh thanh 何青青: màu xanh (của hàng cây) chập chùng bao khắp mượt mà làm sao! (hà 何: làm sao, nào đâu, há nào, vì sao, chỗ nào, sao lại thế....)! Lý Bạch dùng chữ “phương châu 芳洲” để nói đến sự lan tỏa rộng khắp của hương thơm không những của “phương thảo thê thê”(cỏ thơm tươi tốt dày dặc
- trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu) mà cả nhiều loại cây xanh khác nữa đang mọc tươi tốt trên bãi sông chẳng hạn như hoa đào in bóng trên sóng nước!
- hương phong noãn 香風暖: mùi thơm (của các hoa lan cùng với khói bay tỏa) được gió cuốn đi mang lại sự ấm áp (noãn). (Có bản lại ghi “hương phong khởi 香風起” nghĩa là hương thơm được gió nổi lên cuốn đi...)
- đào hoa cẩm lãng sinh 桃花錦浪生: hoa đào tươi đẹp ,rực rỡ như gấm sinh ra trên sóng nước. [do hàng đào nằm gần bờ sông (ngạn giáp); cẩm: gấm: loại vải đẹp, nhiều màu sắc rực rỡ, lộng lẫy và sang trọng]
- thiên khách 遷客: khách phải di chuyển rày đây mai đó, người bị lưu đày hoặc quan lại xưa kia bị biếm trích...
- cực mục 極目: mở hết đôi mắt ra để nhìn, căng mắt ra nhìn cho rõ ,dõi mắt...
- hướng thùy minh 向誰明: hướng về ai đây để soi sáng?
Bài 110
(Hai bài)
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ KỲ NHẤT 長相思 期㇐
Trường tương tư, 長相思,
Tại Trường An. 在長安。
Lạc vĩ thu đề kim tỉnh lan, 絡緯秋啼金井闌,
Vi sương thê thê điệm sắc hàn. 微霜淒淒簟色寒。
Cô đăng bất minh tứ dục tuyệt, 孤燈不明思欲絕,
Quyển duy vọng nguyệt không trường thán. 卷帷望月空長嘆。
Mỹ nhân như hoa cách vân đoan, 美人如花隔雲端,
Thượng hữu thanh minh chi cao thiên, 上有青冥之高天,
Hạ hữu lục thuỷ chi ba lan. 下有淥水之波瀾。
Thiên trường địa viễn hồn phi khổ, 天長地遠魂飛苦,
Mộng hồn bất đáo quan san nan. 夢魂不到關山難。
Trường tương tư, 長相思,
Tồi tâm can. 摧心肝。
Dịch nghĩa:
Nhớ nhau mãi, - Nơi Trường An, – Vào thu, tiếng côn trùng (loại có cánh cọ vào nhau) kêu lên nơi lan can của cái giếng vàng. – Hơi sương rét mướt, chiếc chiếu tre đẫm ướt lạnh lẽo - Ngọn đèn lẻ loi không (đủ) chiếu sáng rất là nhiều nỗi mong nhớ (trong lòng), - Cuốn lại tấm rèm che, nhìn vầng trăng trên trời mà than dài! – Người đẹp như bông hoa cách ngăn bởi làn mây!, - Bên trên là màu xanh thăm thẳm mờ mịt của bầu trời cao, – Bên dưới là màu nước xanh lục của những cơn sóng lớn. – Trời cao đất rộng hồn không nơi đâu là không khổ!, - Hồn mộng không đến được vì cửa ải và núi non gian nan khó khăn!. – Nhớ nhau mãi xé nát tim gan!
Tạm chuyển lục bát:
NHỚ NHAU MÃI MÃI (Bài 1)
Trường An mãi mãi nhớ nhau!
Tiếng thu “lạc vĩ” lao xao giếng vàng.
Chiếu tre ướt lạnh hơi sương,
Đèn đơn không sáng nỗi mong nhớ tràn.
Cuốn rèm than mãi nhìn trăng,
Như hoa, người đẹp cách ngăn mây trời.
Trời xanh thăm thẳm cao vời,
Mênh mông bên dưới trong ngời sóng xao.
Đường xa ,hồn khổ ngờ đâu!
Ải non chẳng đến khó sao mộng hồn!
Tim gan xé nát, nhớ mong!.....
Chú thích:
- trường 長: lâu dài, xa, dài, luôn, thường, mãi luôn, hoài, tuổi cao...
- lạc vĩ 絡緯: một loài côn trùng tựa như con châu chấu nhưng có màu đen và to hơn, có nhiều lớp cánh thường xuất hiện lúc cuối hè vào thu, cọ cánh vào nhau phát ra tiếng như xe tơ. (theo: thivien.net)
- kim tỉnh lan 金井闌: lan can rào quanh giếng vàng trong cung điện hay nhà của người quyền quí...
- vi sương 微霜: hơi sương hạt rất mỏng và nhẹ..
- thê thê 淒淒: lạnh lẽo, rét mướt...
- điệm 簟: chiếc chiếu ngồi hay nằm đan bằng tre...
- tư dục tuyệt 思欲絕: rất là (tuyệt: dứt, rất, cực kỳ, cắt đứt, có một không hai...) mong nhớ...
- quyển duy 卷帷: cuốn bức rèm hay màn che...
- cách vân đoạn 隔雲端: ngăn cách bởi (đoạn) đám mây...
- thanh minh 青冥: màu xanh tối tăm mờ mịt, màu xanh cao thăm thẳm xa mờ...
- lục thủy 淥水: dòng nước trong veo, dòng nước rất sạch...
- ba lan 波瀾: sóng lớn, sóng mênh mông...
- phi 飛: bay rất nhanh, không ngờ, bất ngờ, cao, ở đâu...
- hồn phi khổ 魂飛苦: hồn không ngờ lại khổ sở... (phi: bay, không ngờ, bất ngờ, ở đâu đâu, rất nhanh, cao...)
- câu 10: có bản ghi là: Thiên trường địa viễn 天長地遠 (trời rộng, đất xa). Bản đang dùng là: Thiên trường lộ viễn 天長路遠 (trời cao rộng, đường lại xa)
- tồi 摧: bẻ gãy, làm tan nát, xé nát, làm thương tổn, làm hư hao, diệt hết.
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ KỲ NHỊ 長相思期二
Nhật sắc dục tận hoa hàm yên, 日色欲盡花含煙,
Nguyệt minh như tố sầu bất miên. 月明如素愁不眠。
Triệu sắt sơ đình phụng hoàng trụ, 趙瑟初停鳳凰 拄,
Thục cầm dục tấu uyên ương huyền. 蜀琴欲奏鴛鴦絃。
Thử khúc hữu ý vô nhân truyền, 此曲有意無人傳,
Nguyện tuỳ xuân phong ký Yên Nhiên. 願隨春風寄燕然。
Ức quân điều điều cách thanh thiên, 憶君迢迢隔青天,
Tích thì hoành ba mục, 昔時橫波目,
Kim tác lưu lệ tuyền . 今作流淚泉。
Bất tín thiếp trường đoạn, 不信妾腸斷,
Quy lai khán thủ minh kính tiền. 歸來看取明鏡前。
Dịch nghĩa:
Sắc trời không còn nữa(trời đã vào tối), hoa ngậm sương khói, - Trăng sáng trắng nõn như tơ, buồn sầu không ngủ được!. – Đàn sắt nước Triệu vừa mới ngừng ở trụ dây phượng hoàng, - Cây đàn Thục uốn tấu lên dây đàn uyên ương. – Khúc nhạc này có ý (được sắp đặt bên trong tiếng đàn) không có người truyền lại, - Nguyện theo cơn gió mùa xuân gửi đến Yên Nhiên. – Nhớ chàng nơi xa xôi cách ngăn bởi trời xanh. – Thời trước làn sóng của đôi mắt vỗ ngang, - Nay làm nên suối lệ tuôn chảy. – Không tin thiếp đau đớn trong lòng, - (Chàng hãy) quay về trước tấm gương sáng soi lấy để xem!
Tạm chuyển lục bát:
NHỚ NHAU MÃI MÃI (Bài 2)
Chiều tàn hoa ngậm khói dâng,
Sáng trăng trắng nõn,buồn không ngủ rồi!
Phượng hoàng Triệu sắt dừng thôi!
Uyên ương đàn Thục dục mời tấu lên.
Khúc này ý chẳng người truyền,
Gió xuân mong gửi Yên Nhiên non ngàn.
Trời xanh xa cách nhớ chàng,
Mấy làn mắt sóng nằm ngang thuở nào .
Nay thành suối lệ tuôn ào,
Chẳng tin là thiếp đớn đau cõi lòng.
Về mang gương sáng ngắm trông!.....
Chú thích:
- dục tận 欲盡: không muốn còn nữa , đã hết cả rồi...
- hàm 含: ôm giữ, ngậm, chứa đựng ...
- tố 素: tơ còn thô trắng nõn, mộc mạc, thanh đạm, lụa trắng, chỗ quen cũ...
- Triệu sắt 趙瑟: còn gọi là cẩm sắt hay là đàn gấm do người nước Triệu giỏi chơi đàn sắt. Đàn do vua Phục Hi thời cổ xưa của Trung Hoa làm ra có 50 dây. Về sau Hoàng Đế chỉnh lại còn 25 dây. Lý Thương Ẩn (813-858) bên Trung Hoa trong bài thơ “Cẩm sắt 錦瑟” đã mô tả cây đàn sắt: “Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền...” (nghĩa là cây đàn cẩm sắt không biết từ đâu có năm mươi dây đàn) là loại đàn cổ (cổ cầm 古琴) được làm bằng gỗ cây ngô đồng vì theo vua Phục Hy ,chỉ có loại gỗ ngô đồng mới giúp đàn phát ra tiếng đàn thanh thoát như chim phượng hoàng đi đâu cũng có nhau và con đực (phượng 鳳) cất tiếng hót, con cái (hoàng 凰) sẽ phụ họa ngay...
- sơ đình 初停: vừa mới dừng lại ,bắt đầu đứng lại, lần đầu ngưng lại...
- trụ 拄: cái cột, cái phím đàn, con ngựa để căng dây trên trục đàn...
- Thục cầm 蜀琴: đàn nước Thục có 7 dây. Tư Mã Tương Như người nước Thục giỏi chơi đàn này nên gọi là Thục cầm.
- tấu 奏: âm nhạc cất lên, cái gì đang tiến hành gọi là tấu, một âm là tâu: tâu lên cho người bậc trên biết...
- uyên ương huyền 鴛鴦絃: cây đàn nước Thục (Thục cầm) có dây (huyền) được đặt tên là uyên ương huyền lấy từ câu chuyện giống chim uyên ương thường sống vùng sông nước hay đầm phá có dáng hình giống con vịt nhưng nhỏ hơn. Con đực trên cổ có lông trắng và dài, cánh to lông đẹp được gọi là uyên. Con cái không có lông nơi cổ cánh cũng xấu hơn được gọi là ương . Loại chim này đi đâu cũng có nhau và không bao giờ rời nhau nên gọi chung là đôi uyên ương ví như những cặp vợ chồng chung thủy gắn bó với nhau.
- hữu ý 有意: có ý và cố ý, cố tình. Có sự tính toán sắp xếp bên trong...
- Yên Nhiên 燕然: tên núi vùng phía đông Tuyên Hóa, Trung Hoa giáp các nước phương bắc.
- điều điều 迢迢: xa xôi cách trở, triền miên, xa lắc, cao chót vót, cao vút, cao thăm thẳm, sâu thẳm...
- hoành ba mục 橫波目: đưa ngang làn sóng mắt...
- trường đoạn 腸斷: đứt ruột, đau xé lòng...
- khán thủ 看取: ngắm lấy, nhìn xem và giữ lấy những gì mình thực sự nhìn thấy. [Nó có nghĩa tương tự như “khán thủ 看守: trông coi và giữ gìn]
(Lần đến: THƠ LÝ BẠCH – Bài 112 và 113 )
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét