THƠ TƠ ĐÔNG PHA - BÀI 31 VÀ 32
Thầy Dương Anh Sơn
THƠ CỦA TÔ ĐÔNG PHA
Bài 31
HIỂU CHÍ BA HÀ KHẨU NGHINH TỬ DO 曉至巴河口迎子由
Khứ niên ngự sử phủ, 去年御史府,
Cử động xúc tứ bích. 舉動觸四壁。
U u bách xích tỉnh, 幽幽百尺井,
Ngưỡng thiên vô nhất tịch. 仰天無㇐席。
Cách tường văn ca hô, 隔墻聞歌呼,
Tự hận kế chi thất. 自恨計之失。
Lưu thi bất nhẫn tả, 留詩不忍寫,
Khổ lệ tí chỉ bút. 苦淚漬紙筆。
Dư sinh phục hà hạnh, 餘生復何幸,
Vinh sự hữu kim nhật. 榮事有今日。
Giang lưu kính diện tịnh, 江流鏡面靜,
Yên vũ khinh mạc mạc. 煙雨輕漠漠 。
Cô chu như phù ê, 孤舟如鳧鷖,
Điểm phá thiên khoảnh bích. 點破千頃碧。
Văn quân tại Từ Hồ, 聞君在磁湖,
Dục kiến cách chỉ xích. 欲見隔咫尺。
Triêu lai hảo phong sắc, 朝來好風色,
Kỳ vĩ tây bắc trịch. 旗尾西北擲。
Hành đương trung lưu kiến, 行當中流見,
Tiếu nhãn thanh quang dật. 笑眼清光溢。
Thử bang nghi khả lão, 此邦疑可老,
Tu trúc đái tuyền thạch. 修竹帶泉石。
Dục mãi Kha thị lâm, 欲買柯氏林,
Tư mưu đãi quân tất. 茲謀待君必。
(Làm tại Hoàng Châu, năm 1080, đời Tống Thần Tông)
Dịch nghĩa:
Năm ngoái nơi phủ ngự sử, - Nhấc chân tay lên đã chạm vào bốn bức tường! – Chiếc giếng sâu hun hút cả trăm thước, - Ngẩng lên trờikhông có một manh chiếu (che trên). (c1-4)
Cách bức tường, nghe tiếng ca hát rất lớn, - Tự hận mình tính toan hỏng cả! – Thơ làm giữ lại ,không dám ghi chép lại, - Dòng lệ đau xót và đầm đìa thấm đẫm giấy bút. (c.5-8)
Còn sống sót, may mắn sao! – Nhờ chuyện tốt đẹp này mới có
ngày hôm nay! – Dòng sông chảy phẳng lặng như tấm gương soi, - Khói mờ và cơn mưa nhẹ nhàng yên lặng. (c.9-12)
Chiếc thuyền lẻ loi tựa như con vịt trời hay con cò xám, - Chấm
phá, điểm xuyết thêm ngàn khoảng xanh biếc. – Nghe nói chú (Tử Do) đang ở tại Từ Hồ, - Muốn trông thấy (chú) cách gang tấc thôi!(c.13-16)
Buổi sáng cảnh sắc tươi đẹp, - Cờ đã phất nhắm hướng tây bắc! –
Đang đi đã gặp nhau giữa dòng, - Mắt cười tràn ngập sự trong sáng.(c.17-20)
Vùng đất này ngỡ là có thể ở đến già! – Với dãy tre dài và con suối nước nhiều đá. – Muốn mua khu rừng của họ Kha, - Hẳn là phải đợi chú lo liệu cho! (c.21-24)
Tạm chuyển lục bát:
BUỔI SÁNG ĐẾN CỬA KHẨU BA HÀ ĐÓN TỬ DO.
Phủ quan ngự sử năm qua,
Chân tay bốn vách cứ là chạm nhau!
Cả trăm thước giếng thẳm sâu,
Ngẩng trông chẳng chiếc chiếu nào ở trên.
Cách tường nghe hát vang rền,
Hận mình tính toán chẳng nên hỏng rồi!
Thơ còn,không dám chép thôi,
Khổ đau giấy bút lệ rơi đẫm trào.
Vẫn còn sống sót may sao!
Bao điều tốt đẹp có vào hôm nay.
Lặng yên sông chảy gương bày,
Mênh mang sương khói mờ bay nhẹ nhàng.
Như cò,chim diệc thuyền đơn,
Sắc xanh khoảnh biếc muôn ngàn điểm tô.
Nghe rằng chú ở Tư Hồ,
Cách ngăn gang tấc ,mong cho thấy người.
Sớm mai cảnh sắc đẹp tươi,
Hướng về tây bắc đuôi cờ phất cao.
Giữa dòng đang đến gặp nhau,
Mắt cười sáng sủa dạt dào tràn ra!
Vùng này có thể ở già,
Những con suối đá với là tre cao.
Họ Kha,rừng muốn mua nào,
Chắc là đợi chú thêm vào lo toan!
Chú thích:
** Đây là bài thơ Đông Pha làm sau khi được thả ra từ nhà tù của Phủ Ngự sử triều đình nhà Tống bên Trung Hoa khi dâng biểu lên vua phản đối “tân pháp” của Vương An Thạch và bị buộc tội làm thơ báng bổ triều đình (1079) phải giam nơi đây. Tô Triệt (Tử Do) đem chức quan của mình xin chuộc tội cho anh mình nhưng không được còn bị giáng chức đày đi Quân Châu (Giang Tây, Trung Hoa) làm giám sát việc thu thuế. Còn Đông Pha, sau khi được tha,cho ra Hàng Châu làm một chức quan không được lương bổng nên cuộc sống rất khó khăn. Khi được bạn giúp mua được một khu đất ở sườn phía đông một ngọn đồi vùng này (đông pha 東坡). Ông cũng lấy tên nơi ở mới này làm biệt hiệu của mình là Đông pha Cư Sĩ. Ông ra sức cày
cấy trồng trọt để sinh sống và có ý nghĩ sẽ ở lại lâu dài đất biếm trích Hàng Châu....
- Tử Do 子由: là tên tự của Tô Triệt 蘇轍(1039-1112), em ruột của Tô Thức (tự là Tử Chiêm 子瞻, hiệu là Đông Pha Cư sĩ 東坡居士 hay Tô Đông Pha 蘇東坡 1037-1101), có cha là Tô Tuân 蘇洵 (1009-1066). Người đời gọi là “Tam Tô” đều đứng trong tám nhà văn ,nhà thơ lớn thời Đường Tống (Đường Tống bát đại gia). Tô Triệt lúc nhỏ học với cha và học thêm với thầy Lưu Thuần cũng ở quê Mi Sơn của Tử Do (nay thuộc Tứ Xuyên ,Trung Hoa). Ông cùng anh mình đều thi đỗ tiến sĩ năm 1057 ,đời Tống Nhân Tông(1022-1063). Đến năm 1061, lại cũng anh dỗ kỳ thi Chế khoa để bổ ra làm quan. Nhưng Tử Do xin tạm hoãn do phải phụng dưỡng cha rồi vài năm sau mới vào triều. Năm 1070, đời Tống thần Tông, Vương An Thạch được cử làm tể tướng đã đưa ra “tân pháp” hay “biến pháp” để cải cách chính sách của triều đình. Khi đem ra thi hành, tân pháp bị sự phản đối của nhiều quan lại và sĩ phu trong đó có hai anh em nhà họ Tô. Tô Triệt đã dâng thư phản đối lên vua chỉ trích tân pháp.
Nhờ người bạn Trần Thắng Chi có lời tâu nên khỏi chịu tội nhưng bị đổi đi làm Trấn thủ Hà Nam (Trung Hoa). Lần lượt năm 1073 bị đổi đi làm thư ký ở Tề Châu (Sơn đông),rồi năm 1077 bị đổi làm Trước tác lang . Năm 1079, lấy chức quan để chuộc tội cho anh là Tô Thức không được, lại bị giáng chức làm việc giám sát thuế ở Quân Châu (Giang Tây, T.H). Năm 1084, được thăng làm Tri huyện Tích Khê (An Huy, T.H). Khi Tống triết Tông lên ngôi, cựu đảng do Tư Mã Quang đứng đầu lại dược trọng dụng. Tô Triệt lại được triệu về kinh nhận chức mới lần lượt lên đến chức Ngự sử trung thừa ,Môn hạ thị lang nắm quyền chấp chính. Nhưng rồi Tống Triết Tông lại thay đổi triều chính theo tân đảng ,ông dâng thư phản đối lại bị giáng chức và bị biếm trích ra Nhữ Châu và nhiều nơi khác nữa. khi Tống Huy Tông nối ngôi (1100), ông vẫn còn nay đây mai đó rồi được phục chức Thái trung đại phu. Rồi lại bị giáng chức và trở lại chức này. Năm 1101, ông đã 62 tuổi chán ngán quan trường nên xin về nghỉ hưu ở vùng Hứa Xương (Hà Nam, T.H) bên dòng Dĩnh Thủy nên lấy biệt hiệu là Dĩnh Tân di Lão 颍滨遗老 để vui thú điền viên. Năm 1113, Tử Do mất thọ 73 tuổi. Đọc thơ của Tô Đông Pha, chúng ta cảm nhận được tình anh em thắm thiết của Tô Thức và Tô Triệt. Ngoài ra,giữa hai anh em họ Tô còn là tình cảm bạn bè sâu đậm hiểu về nhau, chia sẻ những nỗi buồn hay niềm vui khi xa cách, nhớ nhau cũng như cùng chí hướng trong những vấn đề của triều đình khi “tân pháp” của Vương An Thạch ra đời khiến hai anh em và nhiều người phản đối phải lao đao ,tù tội và biếm trích đi xa....
- Ngự sử phủ 御史府: từ thời nhà Hán bên Trung Hoa về sau, triều đình ngày càng củng cố chặt chẽ ,hệ thống điều hành các bộ phủ càng ngày càng nhuần nhuyễn theo tinh thần trung ương tập quyền, từ kinh đô chiếu chỉ, công lệnh của nhà vua theo các hệ thống chức năng sẽ trải rộng từ trung ương xuống địa phương ,từ cao xuống bên dưới của quan trường. Chúng ta có thể lấy hai triều đại tiêu biểu: - Thời nhà Đường bên Trung Hoa, đã đặt ra một cơ quan gọi là Ngự sử đài 御史台 nhằm giám sát tất cả các công việc của các bộ phủ do một Ngự sử đại phu, hàm tam phẩm đứng đầu .Về sau có thêm quan Trung thư 中書 hay Môn hạ 門下 gọi chung là các Gián quan 諫官 để tham dự vào việc can gián vua hay cản ngăn những ý kiến trái chiều nhằm giúp vua chọn được ý kiến tốt. Ngoài việc giám sát các công việc của triều đình, Ngự sử đài còn giúp vua giữ kỷ cương,pháp lệnh của triều đình.- Thời nhà Tống bên Trung Hoa, thời của Tô Đông Pha, cơ quan đứng đầu việc can gián ,đàn hặc đổi là Ngự sử phủ do một quan hàm tòng nhị phẩm, chức là Ngự sử đại phu 御史大夫 đảm nhiệm. Bên dưới có các các quan hàm tòng nhị phẩm là Giám sát ngự sử 监察御史 và tòng bát phẩm là Kiểm pháp quan 检法官 phụ giúp.- Nước ta, triều chính từ thời nhà Lý cho đến thời Gia Long về sau phần lớn các phủ bộ hay đơn vị hành chánh hầu như rập khuôn theo lối các triều đại Trung Hoa . Riêng Ngự sử đài lập ra đầu tiên của nước ta lập ra vào năm 1250, thời vua Trần Thái Tông gồm các quan: Ngự sử đại phu, Ngự sử trung tướng, Thị ngự sử, Giám sát ngự sử, Chủ thư thị ngự sử, Ngự sử trung tán. Sang đời Lê đặt thêm các chức Trung thừa, Phó trung thừa, Chủ bạ, Đô ngự sử, Phó đô ngự sử, Thiêm
đô ngự sử... v.v...
- cử động 舉動: hành vi hay động tác có sự hoạt động của chân tay, nhấc chân hay nhấc tay...
- xúc 觸: tiếp xúc, chạm, húc, đâm, cảm động...
- u u 幽幽: giam cầm, tối tăm, ẩn kín, lặng lẽ....
- bất nhẫn tả 不忍寫: không dám, không nỡ viết ra. Đây là lúc Đông Pha bị giam trong tù của Phủ Ngự sử nên “không dám” viết ra, ghi lại những gì mình nghĩ (tả).
- tí chỉ bút 漬紙筆: thấm đẫm, bám vào (tí) tờ giấy (chỉ) và bút viết (bút)...
- hà hạnh 何幸: may mắn sao, sao lại may như thế, may sao...
- vinh 榮: sự tốt đẹp, vẻ vang, tươi tốt, đông đúc...
- mạc mạc 漠漠: mờ mịt, mênh mông, lặng lẽ, um tùm, bày bố la liệt... v.v...
- phù ê 鳧鷖: con le le, vịt trời, con diệc (phù); con cò màu xanh đen, con phượng hoàng (ê)...
- điểm phá 點破: nét chấm phá điểm xuyết cho bức tranh thêm đẹp...
- khoảnh 頃: theo cách chia ruộng đất của Trung Hoa xưa 100 mẫu ruộng là một khoảnh, vừa mới, gần đây, thoáng chốc (khoảnh khắc), nhanh chóng, chưa lâu...
- cách chỉ xích 隔咫尺: xa cách trong gang tấc.
- kỳ vĩ 旗尾: đuôi của chiếc cờ. (Có bản ghi là “kỳ cước 旗腳” nghĩa là chân của cây cờ). Xưa kia cây cờ lệnh được ném xuống hay phất lên là để thi hành lệnh như tiến binh , thi hành án... v.v... Ở đây Tô Đông Pha dùng chữ “trịch 擲” ở cuối câu có nghĩa là cờ (có đuôi) đã được phất lên, theo cách nói, để bắt đầu lên đường đi gặp Tử Do...
- thanh quang dật 清光溢: ánh sáng trong trẻo tràn ngập (dật)
- bang 邦: vùng đất, một bang của một nước.
- tu trúc 修竹: cây tre hay cây trúc dài.
- tư 茲: thêm vào, càng thêm, nay, mùa màng, chiếu, đây, như thế...
- mưu 謀: lo liệu, tính toán, định mưu tìm kế...
- tất 必: mong là, mong được, tất phải, hẳn là, ắt là, ắt hẳn...
Bài 32 (Hai bài)
HUỆ SÙNG XUÂN GIANG VÃN CẢNH 惠崇春江晚景
I
KỲ NHẤT 期㇐
Trúc ngoại đào hoa tam lưỡng chi, 竹外桃花三兩枝,
Xuân giang thuỷ noãn áp tiên tri. 春江水暖鴨先知。
Lâu hao mãn địa lô nha đoản, 蔞蒿滿地蘆芽短,
Chính thị hà đồn dục thướng thì. 正是河豚欲
II
KỲ NHỊ 期二
Lưỡng lưỡng quy hồng dục phá quần, 兩兩歸鴻欲破群,
Y y hoàn tự bắc quy nhân. 依依還似北歸人。
Diêu tri sóc mạc đa phong tuyết, 遙知朔漠多風雪,
Cánh đãi Giang Nam bán nguyệt xuân. 更待江南半月春。
Dịch nghĩa:
I
Bên ngoài khóm trúc là hai ba cành đào, - Nước con sông vào xuân ấm áp, đàn vịt đã biết trước rồi! – Cây lâu hao đầy khắp mặt đất, mầm của lau sậy còn non (mới nhú lên). – Chính là lúc loài cá “hà đồn” muốn ngoi lên (đớp bóng ăn mồi).
II
Từng đôi chim hồng quay về, muốn tách khỏi bầy, - Phất phơ quay lại giống như người từ phương bắc trở về. - Biết là vùng sa mạc phía bắc xa xôi nhiều gió tuyết, - Chẳng lẽ đợi nửa vầng trăng của mùa xuân đất Giang Nam?!
Tạm chuyển lục bát:
HUỆ SÙNG : NGẮM CẢNH CHIỀU TRÊN SÔNG XUÂN
I
Hoa đào, ngoài trúc vài cành,
Mùa xuân nước ấm, vịt rành biết thôi.
Lâu hao, sậy khắp nhú chồi,
Là khi “hà độn” muốn ngoi lên dòng.
II
Hồng về từng cặp tách bầy,
Như người phương bắc quay về phất phơ.
Tuyết nhiều gió cát xa mờ,
Trăng xuân nửa mảnh đợi chờ Giang Nam?
Chú thích:
** Hai bài thơ này Tô Đông pha làm năm Bính dần (1086) khi trở về kinh đô sau năm năm bị biếm trích làm quan không lương bổng ở Hàng Châu. Lúc này ông đã 51 tuổi được giữ chức Trung thư xá nhân,phụ trách văn thư thuộc Trung thư sảnh coi việc hành chánh của triều đình. Tâm trạng nhà thơ như con cá muốn ngoi lên dòng, như con chim hồng muốn tách bầy bỏ lại gió cát tuyết đầy của sa mạc phía bắc của kẻ bị lưu đày ,biếm trích xa nhà muốn quay về đất phương nam. Ông đã ghé thăm sư Huệ Sùng, một cao tăng tài hoa chuyên vẽ các loài như ngỗng ,vịt ,cò, chim hồng và đã đề hai bài thơ này lên hai bức tranh của Huệ Sùng với nhiều ngụ ý tâm trạng của
ông. Bản thân Tô Đông Pha vừa là một nhà thơ nổi tiếng cùng với thi
pháp, bút pháp và tài năng hội họa được nhiều người mến phục...
I
- áp tiên tri 鴨先知: loài vịt nói riêng và các loại vịt trời (cũng như nhiều loài chim di trú khác) có những bản năng nhận ra sự thay đổi của thời tiết, của tự nhiên nên khi mùa xuân ấm áp sau mùa đông lạnh giá, những con vịt trời hay ngỗng trời “biết” (tiên tri: biết trước, đoán trước...) chọn nơi ấm áp để quay về...
- lâu hao 蔞蒿: loại cỏ sống nhiều năm, hoa màu hơi vàng, cọng ăn được, cả cây dùng làm thuốc (theo Tự điển Thiều Chửu)
- lô 蘆: cây lau, cây sậy thường mọc gần nơi có nước, dùng làm mành mành để lợp nhà.
- nha 芽: sư vật, sư kiện gì mới phát ra gọi là nha (manh nha), cây cỏ mới nhú mầm cũng gọi là nha . Nha đoản 芽短: mầm mới nhú còn non và ngắn.
- hà đồn(độn)河豚: tên một loài cá nóc (bụng phình to như bụng lơn con hay bong bóng) từ biển Đông, lội ngược Trường Giang, Trung Hoa vào đẻ ở các nhánh sông .Cá này thịt ngon nhưng gan, tạng huyết và tuyến sinh dục rất độc....
II
- lưỡng lưỡng 兩兩: từng đôi này rồi đôi kia, cặp này rồi cặp kia...
- hồng 鴻: một loài ngỗng trời hay loài nhạn lớn thường sống nơi các vùng đầm lầy hay ven nước, cánh đen bụng trắng, có khi có đàn lông và mỏ dẹp màu hồng nhạt bay rất cao thành hàng. Nguyễn Du trong Đ.T.T.T. có câu: “Cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm..” (câu 2247-48) để tả nỗi mong nhớ và đặc biệt là hình ảnh “cánh hồng” cho thấy sự kính phục Từ Hải cùng ước vọng bay cao ,bay xa “khuấy nước chọc trời” của họ Từ....
- phá quần 破群: tách ra khỏi bầy đoàn...
- y y 依依: phất phơ, dật dờ, mềm mại, tươi tốt, dằng dặc không nguôi, trơ trơ, lưa thưa, lao xao...
- diêu tri sóc mạc 遙知朔漠: biết (tri) là vùng sa mạc (mạc) phía bắc (sóc)xa xôi (diêu)
- cánh đãi 更待: chẳng lẽ, lẽ nào, sao lại (cánh)... chờ đợi (đãi); canh:
(âm là cánh) còn có nghĩa: lại thêm, càng thêm, hơn...
- Giang Nam 江: vùng đất phía nam sông Dương Tử (Trường Giang) bên Trung Hoa gồm các tỉnh Thượng Hải, Giang Tô, An Huy, Chiết Giang, Phúc Kiến, Hồ Động Đình, Hàng Châu , Tô Châu, Vô Tích, Thường Châu, Nam Kinh, Ninh Ba, Thiệu Hưng với thời tiết vào hè nóng ẩm và mùa đông mưa nhiều và lạnh...
(Lần đến: THƠ CỦA TÔ ĐÔNG PHA- Bài 33 và 34)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét