Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2025

Thuở Trời Đất Nổi Cơn Gió Bụi...

 

Ảnh cảnh thăm nuôi tù

THUỞ TRỜI ĐẤT NỔI CƠN GIÓ BỤI....
Phùng Annie Kim

“Thuở trời đất nổi cơn gió bụị
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?”

Cách đây ba thế kỷ, người phụ nữ Việt nam trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của bà Đoàn thị Điểm đã nghẹn ngào oán than với ông “xanh kia” về nỗi đau khổ của nàng có người chồng đi chiến trận xa mãi chưa về.


Câu hỏi “vì ai…” đã tạo “nên nỗi này”đã làm cho biết bao cặp vợ chồng sống không được gần nhau, chết mãi mãi xa nhau.


Cuối tháng Tư, nhìn những lá cờ vàng sọc đỏ tung bay trên phố Bolsa, tôi lại nhớ một người phụ nữ đặc biệt trong những ngày các sĩ quan cấp bực thiếu úy và trung úy trong chế độ cũ phải trình diện học tập tại trường trung học Taberd.


Đi đâu?

Lúc nào?

Không ai biết! Đi bao lâu?

Con số “10 ngày” thật mơ hồ!

“Tập trung cải tạo” có khác gì đi tù?

Lương thực, vật dụng cá nhân gọn nhẹ dồn trong một cái túi xách.


Sau khi các anh lần lượt khuất sau chiếc cổng sắt lớn từ buổi trưa, tôi vẫn tiếp tục ngồi dưới gốc cây với một ổ bánh mì cầm cự cho đến chiều. Cổng trường Taberd đã thưa người. Chiều đang xuống.


Thấy tôi một mình ũ rũ, chị đến gần hỏi han, tâm sự:


- Tên chị là Thư. Chị đoán vài ngày nữa tụi nó mới chở mấy ảnh đi.


Tối nay chưa chắc. Đi đâu thì mình chưa biết. Tụi nó di chuyển toàn là ban đêm và bí mật lắm. Nhà em gần đây không? Chị sẽ chờ ở đây đến sáng mai. Chị canh đêm nay, nếu tụi nó bất ngờ chở mấy ảnh đi thì mình còn biết? Kế hoạch của Việt cộng khó lường lắm em à.


Tôi nhìn người bạn cùng cảnh ngộ:


- Lát nữa em phải về vì mỗi ngày em phải đến trường trình diện và học tập chính trị. Nếu họ chở mấy ảnh đi, làm sao mình biết tin tức hả chị?


Em chỉ sợ họ đem đi thủ tiêu…


Chị trầm ngâm:


- Chính vì vậy mà chị phải chờ đây. Dù cho mấy ảnh đi, đi sống hay đi chết, mình phải biết thì mới giúp được chồng mình em ạ.


Mạng sống của mấy ảnh bây giờ như cỏ rác. Luật của kẻ mạnh và kẻ chiến thắng. Muốn biết tin, em cứ liên lạ với chị.


Tình thân giữa tôi và chị nảy sinh thật nhanh xoay quanh những câu chuyện về hoàn cảnh hai ông chồng tình cờ cùng trùng tên Long, đều là giáo chức biệt phái cấp bực trung úy, cùng đi trình diện cải tạo một ngày.


Trông chị khỏe mạnh và năng động. Chị đẩy nhẹ chiếc xe Honda, chọn một chỗ sạch sẽ, lấy ra một tấm bạt cũ nhỏ, quấn chiếc khăn quàng vào túi xách khá to kê làm gối và ngã lưng, bảo tôi ngồi chơi với chị chốc lát, chờ Phú, cậu em trai sắp trở lại. Chị Thư và Phú sẽ ở suốt đêm tại đây để biết họ đưa các anh đi đâu.


Trời đã sụp tối, các thân nhân đã về nhà gần hết. Con đường Nguyễn Du thông ra Hai bà Trưng giờ này vắng vẻ, yên tĩnh, héo hắt vài ngọn đèn vàng.


Chị nằm nghiêng, co ro trong chiếc áo len mỏng phủ trên người.


Ngắm chị ngủ thật dễ dàng trên nền gạch, hơi thở đều hòa, bây giờ tôi nhìn kỹ mới thấy chị Thư đẹp.


Chị có giọng nói miền Nam mạnh và rõ. Vóc dáng cao, thon, gọn. Mái tóc đen, dầy, cắt kiểu tém ngắn vẫn còn giữ nếp bồng bềnh.

Đôi mắt xếch, sắc như dao. Nét thanh tú của cái mũi cao và thẳng. Đôi môi hồng, làn da trắng tự nhiên không son phấn. Đẹp nhất có lẽ là bàn tay búp măng thon dài.


Chị kể từ khi bộ đội Cộng sản vào, chị không sơn màu và cắt móng ngắn. Đôi tay mềm mại, nõn nà của một thời khá giả, nhàn hạ, “ăn trắng mặc trơn”.

Thấy cậu con trai ngồi sau chiếc xe giống chị như đúc đang đảo mắt tìm ai, tôi đoán là Phú.


Tôi đánh thức chị dậy.


Chị gọi lớn


“ Phú ơi, Phú ơi, chị đây nè”.


Thấy Phú đến, tôi ngồi chuyện trò với Phú một lúc rồi ra về, hẹn chiều mai ghé lại trường Taberd gặp chị để biết thêm tin tức.


Chiều hôm đó tôi không đến trường Taberd như lời hứa với chị vì về trễ. Nghe các anh đã được đưa đi khỏi trường Tabert, tôi ghé nhà chị Thư. Má chị cho biết 10 chiếc xe cam- nhông đã chở đầy ắp số người trình diện ngày hôm đó khởi hành về hướng Tây ninh vào lúc 4 giờ sáng hôm sau.


Chị đã chờ đợi hai ngày và theo suốt đoàn xe đến Tây Ninh bằng xe Honda.


Đó là tin tức đầu tiên và mới nhất về tù cải tạo mà tôi nhận được từ gia đình chị.


Chị và Phú hiện giờ đang ở Trảng Lớn Tây Ninh cách Sài Gòn 90 cây số.


Bà má nói:


“Con Thư nó gan lì lắm con ơi. Nó đi tìm tin tức thằng chồng.


Bác lo lắm. Thời buổi này nhiều bất trắc. Rừng rú bao la, chị em nó biết thằng Long đâu mà tìm. Bác không biết bao giờ nó về. Thỉnh thoảng con ghé chơi, may ra gặp nó.”


Sáng chủ nhật nghỉ, tôi đèo con gái bằng xe đạp đến nhà thăm chị.


Trong căn nhà lớn có vườn rào, yên tĩnh ở Dakao tôi nghe chị kể về chuyến đi Tây Ninh.


Hơn hai tuần lễ dãi nắng dầm mưa ở vùng đất khô cằn sau chiến tranh, chị thay đổi nhiều.


Mặt mày hốc hác và già sọm. Làn da rám nắng, đen đủi. Tóc tai bờm xờm, xơ xác.


Chị gầy hẳn trong chiếc áo bà ba rộng thùng thình. Chị kể các anh đang bị cô lập trong một cái “trảng” tên là Trảng Lớn.


Đó là một khu đất trống rộng mênh mông như bãi đáp của phi trường trong đó có các khu nhà rộng lớn bỏ hoang, chung quanh có hàng rào kẽm gai, cách nhà dân khá xa.


Như vậy có nghĩa là các anh vẫn còn sống. Những tin tức này được truyền đi trong số các chị có chồng đi tù làm cho các chị ở nhà yên tâm phần nào. Chị Thư an ủi:


- Ổn định xong chỗ ăn ở, thế nào tụi nó cũng cho mình đi thăm nuôi tiếp tế mấy ảnh. Tụi nó nuôi không nổi mấy ảnh đâu. Ráng đi em. “Nín thở qua sông” rồi có ngày chị em mình sẽ gặp lại mấy ảnh.


Hai tháng sau tôi ghé thăm, mẹ chị cho biết chị đi Tây Ninh mấy tuần nay không biết bao giờ về.


Tuần sau tôi trở lại may mắn gặp chị. Chị cho biết thêm một tin mới, các anh đã di chuyển đến một địa điểm khác.


Từ Trảng Lớn đi sâu vào rừng Cà-Tum cũng thuộc tỉnh Tây Ninh mất khoảng 60 cây số, nơi các anh sẽ phải lao động, tự túc lương thực, xây lán trại và “học tập” để “cải tạo tốt”.


Chị đang tìm cách buôn bán, lân la, trà trộn sống ở nhà dân gần đó như người địa phương, mục đích liên lạc với các anh đi lao động. Từ đó, chị sẽ hỏi han tin tức để chuyển tiền và thuốc cho chồng.


Trong khi nhà nước Cộng sản âm thầm khủng bố tinh thần các thân nhân ở nhà bằng cách dấu nhẹm tin tức về các anh, gây nỗi lo sợ, hoang mang về thân phận các tù nhân thì chị Thư là người cung cấp những nguồn tin đầu tiên, chính xác và nhanh nhất cho các chị ngoài này.


Chị kể chuyện hay, rất chi tiết và hấp dẫn. Những ngày tháng đến chơi với chị, nghe chị kể về những chuyến đi tìm các anh, tôi có cảm tưởng như mình cũng tham gia trong các chuyến đi ấy.


Chị còn hứa sau khi liên lạc với chồng chị là anh Long Lê (anh họ Lê), chị sẽ hỏi tin tức về anh Long Đào (chồng tôi họ Đào).


Chị rủ tôi sắp tới cùng vào rừng Cà- Tum kiếm gặp các anh. Chị bảo chờ khi được lệnh thăm nuôi của cộng sản, các anh sẽ chết rũ vì đói và bệnh tật trong tù.


Anh Long Lê bị bệnh suyễn kinh niên. Nếu không có thuốc xịt và thuốc uống thường xuyên, chị sợ anh ấy không sống nổi mỗi khi lên cơn suyễn.


Nỗi lo sợ về bệnh của anh, sự thiếu ăn, lao động cực nhọc nhất là lòng thương yêu chồng vô hạn đã giúp chị vượt qua các hiểm nguy, gian khổ, tìm đủ mọi cách đưa đến tận tay anh thuốc và tiền.


Thời buổi khó khăn, an ninh chặt chẽ, đường xa xứ lạ, thân gái dặm trường, vô rừng tìm chồng là một việc làm hết sức táo bạo, liều lĩnh và vô cùng nguy hiểm chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến. Vậy mà chị Thư dám nghĩ dám làm.


Chị Thư đội cho tôi xem mái tóc giả dài màu đen, chụp trên đầu và quấn thành một búi như củ hành phía sau ót. Mái tóc này làm chị già đi vài chục tuổi. Chị phải bôi một thứ bột đen, chà trên mặt, trên cổ, trên tay để che bớt làn da tuy sạm nắng nhưng vẫn còn mượt mà.


Điều ly kỳ là sau nửa năm xa cách, chị được gặp anh trong rừng mà bọn cán bộ quản giáo không hề hay biết. Chị kể cuộc hẹn gặp anh tưởng như chỉ có trong tiểu thuyết.


Cạnh con suối vào buổi trưa trong giờ nghỉ ngơi, những người bạn tù đã bí mật sắp xếp cuộc gặp gỡ này.


Vài chục con mắt đang âm thầm theo dõi bọn quản giáo để giúp anh chị dễ dàng trò chuyện.


Không một giọt nước mắt của an ủi, vỗ về. Không có những cử chỉ âu yếm, chăm sóc hay nụ hôn nhớ thương. Cách nhau một lùm cây, anh hỏi han và dặn dò chị đủ điều. Chị đứng đó, mắt vừa nhìn anh vừa liếc xa xa canh chừng cán bộ, tai lắng nghe lời anh dặn và chỉ biết gật đầu lia lịa.


Chị kể lúc gặp anh, chị vừa mừng vừa sợ nên quên hết những câu định hỏi anh chẳng hạn như không thấy anh đeo kiếng.

Không có kiếng làm sao thấy đường để đi lao động.

Anh có bị lên cơn suyễn nặng không. Thuốc còn đủ không.

Cái nhẫn cưới bằng vàng sao không thấy đeo.

Cái đồng hồ còn hay mất…


Anh chủ động, nói nhiều và dặn dò chị đủ điều nhưng lời dặn dò duy nhất mà anh nhắc đi nhắc lại nhiều lần là phải tìm mọi cách cho hai đứa con trai vượt biên.


Từ đó, mỗi tháng đi Tây Ninh, chị đều hẹn gặp để chuyển thuốc, tiền và tin tức cho anh Long Lê và bạn tù.


Anh Long Đào cũng có tiền xài rủng rỉnh và được ăn ké.


Những lần tiếp tế ấy vẫn bí mật kéo dài cho đến cả năm sau mới có lệnh thăm nuôi chính thức.


Tôi và chị cùng lúc nhận được giấy phép thăm nuôi.


Thời bấy giờ, chị tìm đâu được chiếc xe La Dalat, tài xế là Phú em trai chị chở chị và tôi cùng với hai bà má chồng và hai bao tải lớn đầy thức ăn khô đi Tây Ninh.


Không ai ngờ con đường vào rừng vào mùa mưa quá xấu nên chuyến xe đi thăm nuôi thật là vất vả, gian nan, đi từ sáng sớm, suốt một ngày trời không những chỉ vượt qua những chặng đường gập ghềnh đầy đá tảng vì bom đạn cày xới mà còn là những hố bom sâu ngập bùn tưởng như không đến được lán trại.


Nếu không có Phú giỏi nghề máy xe, sự lanh lợi, tháo vát của chị bỏ tiền ra huy động dân chúng địa phương giúp đổ đá, lót ván và đẩy xe,

chiếc xe vẫn còn ngập trong những hố bom lầy lội, không kịp đến vào buổi tối để gặp các anh sáng hôm sau.


Đi thăm nuôi hai anh chính thức được hai lần cách nhau ba tháng, một hôm chị mang về một tin mới, các anh sẽ chuyển trại, không biết ngày nào, đi nhiều nơi khác nhau. Mắt chị sáng lên, nhìn xa xăm:


- Chị nghe mấy ảnh nói họ thanh lọc xong các thành phần sẽ có kế hoạch chuyển trại. Từ bộ đội áo xanh, họ sẽ chuyển giao cho công an áo vàng thuộc bộ nội vụ quản lý rồi sẽ thả tù. Hay thiệt! Mấy ảnh ở tù mà biết tin Mỹ đang thương lượng với Việt cộng để thả tù chính trị. Có nhiều hy vọng lắm em ơi. Ai về trước cũng mừng, miễn có thả, có về.


Tôi biết được tin hai anh may mắn cùng chuyển trại đến Hàm Tân Z 30 C là do chị Thư liên lạc tin tức từ các anh tù lao động.


Tôi mừng đến phát khóc vì còn cơ hội đi thăm hai anh chung với chị.

Tại trại này, tôi còn nhớ mãi một kỷ niệm tôi và chị tình cờ bị rơi vào hoàn cảnh thật éo le và đau lòng vì hai anh trùng tên Long.


Nhận được giấy thăm nuôi, buổi sáng hôm ấy, hai chị em chúng tôi cùng với hai bà má chồng có mặt tại nhà chị Lệ từ 4 giờ khuya.


Chồng chị Lệ là tài xế xe đò đi Hàm Tân, họ đứng ra tổ chức cho từng nhóm các gia đình đi thăm tù cải tạo. Từ Sài gòn đến Hàm Tân khoảng 200 cây số, đi mất hơn 4 tiếng.


Đến nơi, trời đã hừng sáng. Trước mắt tôi là khu rừng sâu hun hút. Từ đường cái đi vào lán trại mất khoảng 12 cây số đường rừng. Những người dân địa phương đã chờ sẵn xe Honda, xe bò, quang gánh, võng để chở thuê, gánh thuê, cáng người.


Họ bày bán và mời chào trái cây, nước uống, thức ăn…


Từ khi tù cải tạo chuyển về đây, thị xã này trở nên sầm uất, dân địa phương có thêm phương tiện sinh sống bằng nghề buôn bán và chuyên chở thân nhân thăm tù. Chúng tôi thuê một chiếc xe bò, tuy chậm nhưng có chỗ cho 4 người ngồi và bốn bao tải toàn là thức ăn khô. Cũng may đi vào mùa nắng, con đường khô ráo, bụi đỏ mịt mù, quanh co, gập ghềnh đất đá.


Tội nghiệp cho hai bà mẹ già, bị dằn xóc, lắc lư, tưng lên tưng xuống bởi những ổ voi, ổ gà.


Tôi nghiệp cho hai con bò già gầy trơ xương. Có lúc tưởng chừng như chúng không còn sức để kéo và chiếc xe như muốn đổ sụp xuống.


Gần đến cổng trại cũng là lúc mọi người nhìn thấy cột cờ, nón cối và bộ kaki vàng của công an quản giáo. Khói bốc lên từ những khu nhà, lán trại lợp tranh xa xa.


Những luống rau tươi xanh ngắt và từng đội tù nhân ra sắp hàng điểm danh để đi lao động.


Thân nhân đến trại đều nộp giấy phép thăm nuôi và chờ ở nhà khách. Cán bộ sẽ liên lạc với các đội trưởng các đội lao động nhắn các anh có tên trong danh sách thăm nuôi được về sớm.


Ai cũng dõi mắt nhìn theo những thân hình gầy gò, tay cầm cuốc xẻng trong những bộ quần áo cũ kỹ, rách rưới, vá chằng vá đụp.


Họ cố gắng tìm ra trong số các anh một khuôn mặt thân quen.


Mọi người đang nằm nghỉ lưng trên chiếc giường đan bằng tre trong phòng chờ..


Cán bộ đang gọi tên từng thân nhân vào phòng khách để gặp tù nhân bỗng hai tiếng nổ “bùm” “bùm” từ xa làm ai cũng giật mình, hốt hoảng chạy ùa ra khỏi phòng.


Cán bộ bồng súng hò hét chạy về phía khu rừng.


Trốn trại?


Không phải.


Tiếng này không phải là tiếng súng. Đây là tiếng bom.


Mọi người đều la to:


“Tù cải tạo đi lao động đạp trúng mìn rồi.”


Trong cơn hoảng loạn ấy, một tên cán bộ mồ hôi nhễ nhại, mặt mày xanh lét, vai khoác khẩu súng từ rừng chạy về, xông vào phòng hét lớn:


- Ai là thân nhân của anh “Nong”? (Long nhưng hắn phát âm là “nong”)


Đứng gần tên cán bộ, nghe tên Long, tôi run rẩy, ôm mặt khóc òa.


Trước đám đông thân nhân vây quanh tên cán bộ, tôi thu hết can đảm và bình tĩnh, mếu máo nói với hắn:


- Tôi là vợ của anh Long. Có chuyện gì thưa cán bộ? Chồng tôi… Chồng tôi có… sao không cán bộ.


- Chị sắp xếp đồ đạc đi theo tôi. Nhanh lên. Anh “Nong” bị mìn.


Tôi còn đang bối rối chưa biết tính sắp xếp đồ đạc thế nào thì bà má chồng tôi bất ngờ lảo đảo xỉu ngay tại chỗ.


Chị Thư đứng gần, đỡ bà trong tay, xoa dầu, giựt tóc, vỗ má, gọi tên cho bà tỉnh lại.


Tên cán bộ bỏ chạy về phía doanh trại. Tôi chạy đến bà vừa khóc vừa an ủi:


- Mợ ạ, mợ ở đây với chị Thư và bác Tùng. Con phải theo cán bộ vào rừng xem chuyện gì. Đến nước này, mợ phải khỏe và bình tĩnh để con còn lo cho ảnh.


Tôi quay sang chị Thư, ôm chị khóc ròng:


- Chắc là em phải ở lại đây để xem tai nạn thế nào. Chiều nay em nhờ chị đưa mợ em về Sài gòn và báo tin cho ba má em biết. Đây là địa chỉ của ba má em.


Chị Thư moi trong túi đưa cho tôi hết số tiền và nói:


- Trong hoàn cảnh này em cần tiền hơn anh Long. Em cứ giữ xài.

Chị em mình tính sau. Chị sẽ gửi tiền cho anh Long sau.


Vừa nghe chị nhắc anh Long, tôi chợt nhớ ra còn một anh Long nữa là chồng chị Thư.


Đúng rồi. Đội lao động có hai anh Long. Cán bộ đâu nói là anh Long nào.


Linh tính?

Bản năng sinh tồn?

Hy vọng mong manh?

Kinh nghiệm sống?

hay là tất cả đã khiến tôi trở nên bình tĩnh, sáng suốt và liều lĩnh.


Tôi chạy nhanh đến các phòng tìm tên cán bộ lúc nãy.

Hỏi thăm không được, tôi dùng khổ nhục kế khóc mùi mẫn. Cuối cùng có một tên thương tình dẫn tôi đi tìm hắn.


- Thưa cán bộ, tôi là vợ anh Long. Lúc nãy cán bộ nói có anh tên Long bị mìn. Chồng tôi tên là Đào ngọc Long. Cán bộ hỏi lại dùm có phải đúng tên họ là Đào ngọc Long không?


Tên cán bộ mở to mắt nhìn tôi đăm đăm. Không còn gì để sợ, để mất nữa, tôi lên giọng và nhìn thẳng vào mắt hắn:


- Tôi đã sẵn sàng đi theo cán bộ nhưng trước khi đi, xin cán bộ xác nhận rõ lần nữa, tên họ người bị mìn có phải là Đào ngọc Long không?


Thấy mắt tôi còn đỏ hoe, giọng nói cương quyết và dứt khoát, hắn nghĩ một lúc rồi quay sang gọi một anh tù gần đó, nói nhỏ một cái gì đó.


Một lát sau, anh tù trở lại.


Hắn xởi lởi:


- “Lày”, cái chị vừa “lói” tên chồng chị “nà” Đào ngọc “Nong” hả?

Thế thì không phải rồi!


May cho chị nhé. Tên anh bị mìn “nà” “Nê văn Nong”. Chị về nhắn vợ anh “Nê văn Nong” “nên” gặp tôi ngay.


Tôi không chờ đâu nhé. Muộn rồi.

Vừa nghe xong, tôi nghĩ ngay đến chị Thư. Lê văn Long đúng là tên chồng chị, người phụ nữ tôi quý mến, kính trọng và mang ơn. 


Cái may của tôi bây giờ là cái rủi của chị. Hạnh phúc của tôi bây giờ là sự bất hạnh của chị. Niềm vui của tôi bây giờ là nỗi đau khổ của chị. Tôi biết phải nói thế nào với chị ?


Chỉ trong mười phút đồng hồ, chúng tôi cùng nếm chung với nhau hương vị của hạnh phúc và đau khổ, của niềm vui và nỗi buồn, của cái có và cái không, của cái còn và cái mất, của cái sống và cái chết, cùng trải nghiệm chung hai mặt của cuộc đời nhiều éo le và nghiệt ngã. Thân phận những người đàn bà chịu nhiều nỗi “truân chuyên” trong “cơn gió bụi”, của cái gọi là “dòng thác cách mạng” tại xứ sở này là “vì ai” ?


“Vì ai gây dựng cho nên nổi này?”


Tên cán bộ hồ đồ giao cho tôi công việc nhắn chị đi gặp hắn ngay. Thời gian đâu còn nữa. Vừa lúc đó chị Thư cũng chạy đi tìm và gặp tôi ở phòng cán bộ.Giác quan thứ sáu của người phụ nữ thông minh, dày dạn kinh nghiệm sống này giúp chị hiểu tất cả.


Tôi nghẹn lời:


- Chị ơi, tên cán bộ nói anh Lê văn Long bị mìn. Em có thể làm gì giúp chị? Nếu chị ở lại đây lo cho anh Long, em đưa bác về Sài gòn Chị giữ lại số tiền này. Chị có nhắn gì Phú không? Chị có cần ngày mai em và Phú đi Hàm Tân phụ chị lo cho anh Long không?


Nói xong, tôi ôm chị khóc nức nở. Tôi khóc thương cho chị, cho tôi,

cho những người đàn bà đi thăm nuôi chồng hôm nay, cho các anh đã nằm xuống hay đang lao động ngoài vườn rau kia hay cho tất cả…?


Chị đứng lặng yên một lúc lâu, vỗ nhẹ vào vai tôi:


- Em phải về. Con còn nhỏ, còn bận đi làm. Định mệnh đã sắp đặt cả rồi. Em nhắn Phú sáng mai đi Hàm Tân sớm đem tiền cho chị. Em đưa má chị về nhà dùm. Đừng khóc nữa em. Nước mắt không giúp được gì trong lúc này.


Chị ôm bà má, lau nước mắt cho bà và dặn dò bà đôi điều.


Chị gửi bao tải đựng thức ăn khô cho cán bộ cất dùm trong góc nhà khách và theo tên cán bộ và vài anh tù vào rừng cùng với ba cái cáng.

Hai quả mìn làm chết hai người dân vô tội.


Anh Long lao động gần đó may mắn chỉ bị thương ở chân nhưng vết thương khá nặng, máu ra nhiều, bắt buộc cán bộ trại phải chở anh vào bệnh viện Phan Thiết chữa trị. Tin anh bị thương đến cùng lúc với tin vui, hai đứa con anh đã vượt biên đến Thái Lan an toàn.


Chị Thư nói với tôi:


- Luật bù trừ đó em, Anh Long ảnh gánh cho hai đứa con ảnh.


Lúc đầu, ban quản giáo trại cử hai tên cán bộ canh gác anh trong bệnh viện đề phòng tù nhân trốn thoát.


Vài ngày sau chỉ còn một cán bộ miền Nam tập kết rất trẻ tên Năm Ròng. Hắn đi ra đi vào, buồn chán, tánh ham vui nên thờ ơ, thỉnh thoảng có mặt để nhắc nhở, hăm he cho có lệ rồi phóng xe Honda của chị Thư cho mượn đi chơi cả ngày.


Chị Thư kể xăng lúc nào cũng đổ đầy bình cho xe chạy thả giàn.

Chị điếu đóm, chiều chuộng tên Ròng không còn thiếu thứ gì từ cái “đài”, cái “đổng” thuốc hút, thuốc bệnh, nhiều nhất là tiền để hắn dễ dãi cho anh chút tự do.


Lâu dần, Năm Ròng tin chị. Hắn mê cái xe Honda. Cái xe Honda của chị đang trong tay hắn.


Hơn một tháng nằm bệnh viện Phan Thiết, Anh Long bình phục dần, được đi lại dễ dàng thoải mái trong bệnh viện Mối quan hệ giữa vợ chồng chị Thư và Năm Ròng càng ngày càng thân tình đến mức một hôm, Ròng tâm sự với chị Thư một tin bí mật trong nội bộ là một tuần nữa, anh Long có lệnh phải trở về trại Z30 C.


Vừa biết tin xong, ba ngày sau, chị Thư và Phú, người chân trong, kẻ chân ngoài, Phú lái xe La Dalat chở anh Long trốn bệnh viện về Saigon từ sáng sớm.


Chuyện anh Long trốn khỏi bệnh viện cũng ly kỳ không kém chuyện chị vô rừng tìm chồng. Mãi đến sáng hôm sau bệnh viện mới phát giác.


Cô Mai, y tá bệnh viện sau này về Saigon gặp chị kể lại chuyện trốn khỏi bệnh viện của anh Long làm chấn động cả bệnh viện và tù cải tạo. Trong vụ này, người bị “sốc” nhất có lẽ là Năm Ròng, kế đó là ban quản giáo.


Bệnh viện Hàm Tân, trừ các cán bộ cộng sản, ai cũng mừng thầm cho anh Long thoát nạn.


Năm Ròng không hay biết gì cho đến khi sáng hôm sau khi bệnh viện thông báo, hắn còn không tin vì đinh ninh xe Honda còn đây thì người còn đó. Có ngờ đâu “của đi thay người”.


Chị Thư hy sinh cái xe Honda để đổi lấy sinh mạng cho anh Long trốn về Sài gòn tìm đường vượt biên.


Một tháng sau, chị nhận tin vui. Anh Long và Phú đến Thái Lan an toàn. Còn chị? Chị phải ở lại.


Chị là chuyến tàu chót để gánh chịu và đối phó với những bất trắc xảy ra cho gia đình trong các chuyến vượt biên.


Bà má chị dọn về ở với cô em gái. Chồng con chị được đi định cư ở Canada. Căn nhà đã bán. Anh Long đi thoát.

Từ đó, tôi ít liên lạc với chị và sau này không biết tin tức gì về chị nữa.


Chúng tôi qua Mỹ năm 1991, gặp lại người bạn cũ có quen một giáo viên trường LVD, nơi anh Long dạy trước 75.


Tôi nhờ người bạn tìm tòi, hỏi han số phone. Anh Long đang định cư ở Canada.


Tôi hồi hộp, cầu may gọi cho anh và mừng quá khi nhận ra giọng nói ngày xưa của anh sau bao nhiêu năm xa cách.


Hai con anh, cháu Tí và Nu đã có gia đình. Anh đã có cháu nội và ngoại. Đến khi nhắc đến chị Thư, giọng anh nghẹn ngào.


Anh kể chị Thư vượt biên sau anh vài tháng. Cũng là đường giây tổ chức cho anh và hai cháu vượt biên tới Thái Lan trước đây nhưng chuyến đi của chị hơn ba mươi năm rồi, cho đến bây giờ vẫn không có tin tức.


Cuộc đời ly kỳ của người phụ nữ ấy đã khép lại. Trong chuyến tàu sinh tử cuối cùng, chị đã ra đi mãi mãi.


Người phụ nữ làm những chuyện phi thường đã không để lại một dấu vết gì. Có chăng là tấm lòng bao dung, rộng mở tràn đầy tình thương và sự hy sinh cho chồng, cho con, cho gia đình,bạn bè, những người thân và những ai cần đến chị.


Suốt đời, chị sống quên mình để dâng hiến cho người, cho đời những đóa hoa thơm ngạt ngào hương sắc.


Đọc lại bốn câu thơ mở đầu của một tác phẩm văn học lớn viết về thân phận người phụ nữ vào những ngày cuối tháng tư để ngậm ngùi nhớ đến chị.....


Phùng Annie Kim


Duyên Phận


DUYÊN PHẬN 
Thanh Minh


Tôi sanh năm 1929 tại huyện Bãi Xàu, tỉnh Sóc Trăng, Miền Nam Việt Nam.


Ba tôi làm công chức tại Ty Bưu Điện của huyện lỵ Bãi Xàu. Thuở đó, dân ta quen gọi chức vụ của ba tôi là “thầy thông Nhà dây thép”.


Ba má tôi sanh được sáu đứa con. Tôi là gái thứ hai, nhưng dân Miền nam quen gọi là “thứ ba”. Tôi theo học Trường Sơ học Bãi Xàu. Thời kì đó, nước Việt Nam còn là thuộc địa của Pháp và hầu hết các môn học đều giảng dạy bằng tiếng Pháp.


Năm 1941, sau khi đậu bằng Sơ học (Certificat d’études primaires), tôi đi Sài Gòn dự thi vào “Collège des jeunes filles indigènes”. Về sau trường nầy được đổi tên là Trường Trung Học Gia Long. Thời may, tôi thi đậu. Thêm một điều may nữa là sau đó ba tôi được điều động lên làm việc tại Sở Bưu điện Sài Gòn. Thế là, cả gia đình chúng tôi dọn lên cư trú tại thành phố Sài Gòn.


Lúc tôi 16 tuổi, một bước ngoặt đau buồn ập đến cuộc đời của tôi. Ba tôi qua đời vì bịnh lao phổi. Trước khi nhắm mắt, ba tôi xin người chị ruột của ba tôi, mà tôi gọi là cô Sáu, đem tôi về nuôi, để có thể tiếp tục việc học hành, lý do là gia đình chúng tôi rất nghèo. Số là, cô tôi có một người con trai duy nhứt, lúc đó là chủ một hãng kem đánh răng lớn ở Sài Gòn. Đó là Hãng kem Perlon, đối diện chợ An Đông, đường An Dương Vương, quận 5, Sài Gòn. Ông Huỳnh Văn Xin, Tổng Giám đốc hãng, chính là anh họ của tôi. Người Miền Nam gọi là “anh cô cậu”, tức là tôi gọi má của anh Xin là “cô”, và anh Xin gọi ba tôi là “cậu”.


Tôi xin nghỉ học và vô làm việc trong văn phòng hãng Perlon. Tôi vừa là nhân viên của hãng, vừa là thân quyến của chủ hãng, cho nên được mọi công nhân trong hãng nể vì. Tôi phụ trách giữ sổ sách xuất nhập kho nguyên liệu và sản phẩm hoàn thành.


Một thời gian sau, hãng tuyển một nhân viên mới với nhiệm vụ là kế toán trưởng (chef comptable). Anh nầy tên là Thạch, 21 tuổi, lớn hơn tôi 5 tuổi, có dáng dấp như một thư sinh, tánh tình hiền lành, khép kín. Chúng tôi làm chung gần ba năm. Sau đó, chúng tôi đã kết hôn, với sự đồng ý của hai bên gia đình đàng trai và đàng gái.


Theo quan niệm duy tâm, qua câu nói: “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”, có phải chăng, anh Thạch và tôi đã có duyên nợ từ kiếp trước? Tôi chỉ biết là, trước kia tôi vốn là một cô gái đồng quê, ở một tỉnh lẻ hẻo lánh, khỉ ho cò gáy. Nếu tôi không có “số” di cư lên Sài Gòn hoa lệ, thì làm sao mà tôi gặp được anh Thạch, một cư dân của Sài Gòn, chưa hề bước chân đến tỉnh lẻ, quê hương của tôi?


Sau ngày kết hôn, tôi về làm dâu nhà anh Thạch, ở Tân Định, quận 1, Sài Gòn. Một thời gian sau, chúng tôi ra riêng, thuê lại một tiệm tạp hóa có hiệu là “Vũ Lai”, đường Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng) đối diện chợ Tân Định, thành phố Sài Gòn. Nhờ thuận vợ thuận chồng và chí thú làm ăn, đầu năm 1952, chúng tôi tậu được một căn phố tại đường Lê Quang Định, gần chợ Bà Chiểu, Gia Định. Nhờ có điều kiện thuận lợi, tôi đem hai đứa em của tôi, một gái và một trai, về ở chung, nuôi chúng nó ăn học. Lúc đó, ba chị em chúng tôi đều mồ côi, cả cha lẫn mẹ.


Lúc đầu chúng tôi buôn bán nhỏ, chỉ mong kiếm sống, độ nhựt qua ngày. Về sau nhờ tích lũy vốn liếng và phát triển cơ sở, chúng tôi nhập cảng dây đàn Argentine từ nước Pháp, phân phối độc quyền trên lãnh thổ Đông Pháp (Indochine Francaise), gồm cả ba nước Việt Nam, Cao Miên và Lào.


Đang làm ăn trôi chảy, tháng 12 năm 1952, chồng tôi được lịnh động viên vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, khóa 2. Chúng tôi đành phải chấm dứt việc kinh doanh, đóng cửa tiệm tạp hóa và ngưng nhập cảng dây đàn. Sau 22 năm phục vụ trong quân đội, năm 1974 đến tuổi hưu, chồng tôi được giải ngũ, với cấp bực “Trung Tá Trừ Bị”. Theo qui chế của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thời đó, nếu là trung tá, tuổi trên 49, mà chưa thăng cấp đại tá, đương nhiên phải giải ngũ. Tiện dịp, hãng kem Perlon của anh tôi đang cần nhân viên, chồng tôi trở lại làm việc tại hãng này. Làm được khoảng một năm thì xảy ra biến cố 30-4-1975.


2. LÀM ĐƠN XIN ở TÙ:


Lúc ấy, tuy chồng tôi là thường dân 100%, nhưng gốc là nhà binh chánh hiệu. Cho nên chồng tôi rất lo âu. Cuối tháng 5 năm 1975, Việt Cộng ra thông cáo kêu gọi “sĩ quan ngụy” phải đi “trình diện đăng ký”. Ngày 11-6-1975, báo “Sài Gòn Giải Phóng” số 31 đăng thông cáo, qui định tất cả “sĩ quan ngụy” phải trình diện đi “học tập cải tạo”. Bảng “Hướng dẫn cho sĩ quan đi học tập trung” đăng trên báo, nguyên văn như sau:


“Mỗi người đến địa điểm học tập cải tạo phải mang theo:


- 1 tháng ăn bằng tiền, mỗi ngày: 300đ x 30ngày = 9.000 đồng.

- 1 ngày 0,7kg gạo, mỗi kí lô bằng: 220đ x 21 kí = 4.600 đồng.

Tổng cộng bằng = 13,610 đồng.


- Ngày tập trung đầu tiên, từng người phải mang theo thực phẩm khô để ăn ngày hôm đó, ngày thứ hai nhà thầu phục vụ cơm nước.”


Hầu hết mọi người đều tin là chỉ phải đi “học” 30 ngày mà thôi và đinh ninh, khi “mãn khóa” sẽ được trở về làm ăn với tư cách là một “công dân chân chính”, theo lời hứa của tập đoàn Việt Cộng gian xảo và tráo trở.


Chồng tôi đưa đơn lên Ban giám đốc Hãng kem Perlon, xin tạm nghỉ việc một tháng, để đi “học tập cải tạo” theo lịnh của Cộng Sản Việt Nam.

Kết quả thảm thương là phần đông sĩ quan quân đội Miền Nam đều bị sập vào cái bẩy do bọn mafia Việt Cộng đã dụng ý ngụy trang với lời lẽ đường mật, gọi là “chính sách khoan hồng”, để tóm gọn những người mà trong thâm tâm họ xem như là kẻ thù không đội trời chung của chúng.


3. GIảI NGŨ RỒI VẪN BỊ ĐI TÙ


Sau ngày chồng tôi đi trình diện “đi học” tại trường Trung Học Don Bosco, quận Gò Vấp, Gia Định được khoảng hai tuần thì nhựt báo “Sài Gòn Giải Phóng” đăng thông cáo bổ túc, cho biết những sĩ quan chế độ cũ, nếu đã giải ngũ trước ngày 30-4-1975 thì được miễn trình diện đi “học tập cải tạo” mà chỉ đi “học tập tại chỗ” trong vòng một tuần (?) mà thôi.


Tôi mừng quá, đến trường Don Bosco, Gò Vấp, xin gặp chồng tôi, nói anh ấy cầm tờ báo, đến văn phòng thủ trưởng, xin được trở về nhà, để theo khóa học tại địa phương. Tôi có đem theo tờ “chứng chỉ giải ngũ” của chồng tôi để làm bằng chứng là chồng tôi đã giải ngũ ngày 31-3-1974, tức là trước ngày 30-4-1975 trên 1 năm.


Tên cán bộ cầm tờ báo vào trình thủ trưởng của y. Một chập sau, anh ta trở ra, phán một câu “xanh dờn”: “Lãnh đạo nói, trình diện học tập là tốt, lỡ đi rồi thì nên đi luôn, cho thông suốt chính sách nhà nước. Trước sau gì cũng sẽ được ra trại mà.” Tôi nghe nói, bủn rủn tay chân. Hy vọng chồng được tha cho về nhà bổng chốc tan tành như mây khói”.


4. KHÔNG MẤT NHÀ NHỜ TẤM LÒNG NHÂN ÁI


Trong thời gian chồng tôi ở tù, ở nhà hai mẹ con tôi sống thui thủi. Con của chúng tôi lúc đó được 11 tuổi. Nhà ba từng lầu, rộng thênh thang khiến tôi cảm thấy cô đơn và lo sợ đủ chuyện.


Đứa em trai kế của tôi, tên Huỳnh Tương Đương, đại úy binh chủng Thiết Giáp cũng đã đi tù “cải tạo” như chồng tôi. Gia đình cậu em nầy gồm hai vợ chồng và tám đứa con, trong suốt thời gian tại ngũ, vì chưa có tiền tậu nhà riêng, nên phải cư trú tại các trại gia binh. Sau ngày 30-4-1975, họa vô đơn chí, vợ của Đương bị bạo bịnh và qua đời. Vì không có nhà cửa cố định, nên tám đứa con sống lây lất tại một gian nhà cất dựng tạm bợ trên lề đường tại Đồng Ông cộ, quận Bình Thạnh, Gia Định.


Nghĩ tình ruột thịt, tôi đem tám đứa cháu, gọi tôi bằng cô, mồ côi mẹ trong lúc cha thì đi tù, về cho tá túc tại nhà tôi. Tôi nào có biết trước được là, về sau tôi gặp một điều may hiếm có trên đời. Điều may đó là: Trong chiến dịch Việt Cộng “cướp” nhà của những nhà tư sản Miền Nam, tôi đã thoát nạn trong đường tơ kẻ tóc. Bọn cán bộ địa phương đến đo diện tích tất cả nhà tư nhân “ngụy” trong phường khóm. Luật lệ của chúng là: Nếu diện tích lớn hơn tiêu chuẩn ấn định so với số người trong “hộ khẩu” (tờ khai gia đình) thì Việt Cộng sẽ áp dụng hai biện pháp như sau: Một là Việt Cộng sẽ ghép cho cán bộ Cộng Sản vào ở chung nhà với mình. Hai là, chúng sẽ tịch thu nhà của mình và cấp cho một căn nhà khác nhỏ hơn. Hú hồn! Nhờ số người trong nhà tôi tăng từ hai lên mười người, cho nên nhà tôi không bị Việt Cộng tịch thu.


5. KHÔNG MẤT NHÀ NHỜ KHÔNG PHảI LÀ TƯ SảN


Nhà tôi ở mặt tiền đường Lê Quang Định, Gia Định. Vào thời điểm 30-4-1975, chúng tôi đang khai thác một tiệm tạp hóa ngay tại nhà. Sau ngày Miền Nam lọt vào tay Cộng Sản, thị trường thương mãi tại Sài Gòn bị tê liệt. Sài Gòn có một bộ mặt tiêu điều, quang cảnh gây cảm giác hoang tàn, trông giống như một thành phố “chết”. Các cơ sở thương mãi của tư doanh (nhà xuất nhập cảng, ngân hàng, nhà hàng, khách sạn, rạp hát, tiệm buôn...) đóng cửa im lìm. Vì ảnh hưởng dây chuyền, các tiểu thương như chúng tôi cũng bị vạ lây. Hàng mua vô không có, lấy gì để bán? Mỗi ngày mở cửa hàng suốt ngày ngồi “ngáp ruồi” sao?


Tôi đến phường xin trả môn bài, để đóng cửa tiệm một cách chánh thức, hợp lệ và hợp pháp. Phường không chấp thuận nhưng không nêu lý do và bảo phải tiếp tục mở cửa tiệm buôn bán bình thường. Sao kỳ vậy? Quyết định vô lý nầy khiến tôi thắc mắc, không hiểu nổi thâm ý của Cộng Sản. Tôi nghĩ, thông thường, việc xin môn bài buôn bán là chuyện khó, vì phải có một số điều kiện. Trái lại, việc nghỉ bán, đóng cửa tiệm là quyền của thương gia.


Tuy cán bộ phường không chấp nhận trả môn bài, tôi nhứt quyết dẹp tiệm. Qua ngày hôm sau, tôi đóng cửa tiệm. Về hàng hóa còn tồn động, tôi dự trử để xài lần hồi. Cả tủ kệ dùng để chưng hàng hóa, một phần đem cho bà con lối xóm, một phần đem vô nhà kho cho khuất mắt bọn cán bộ phường. Phía trước thì trang trí lại, có xa lông tiếp khách, có bàn ăn. Độ một tháng sau, Cộng sản phát động chiến dịch “đánh tư sản”. Các tiệm buôn lớn nhỏ đều bị liệt kê vào danh sách “tư sản mại bản”. Chủ nhân và cả gia đình được lịnh phải ra đi và nạp nhà lại cho phường “quản lý”. Ai không chấp hành lịnh sẽ bị bắt giam như kẻ tù tội. Trong lúc đó, nhà của chúng tôi được xem như nhà ở, không thuộc diện tự sản, nên không hề hấn gì.


Cũng cần nói thêm, dưới chế độ cộng sản, tất cả các hình thức hoạt động kinh tế và thương mãi đều do Nhà nước điều khiển và quản trị. Đó là chánh sách “kinh tế chỉ huy” của cộng sản. Nói cách khác, các nhà tư sản hoạt động trong nền “kinh tế thị trường” (tức là thị trường tự do của các nước tư bản) là kẻ thù mà cộng sản phải tiêu diệt.


Tại khu phố chúng tôi gần chợ Bà Chiểu, vài đại thương gia có tiếng tăm là nạn nhân của chiến dịch “đánh tư sản”. Toàn bộ gia đình của những nhà tư sản đều bị trục xuất ra khỏi nhà:


1/ Ông Tám Yến, chủ nhân một tiệm cầm đồ (vàng, nữ trang).

2/ Ông Lê Văn năm, chủ tiệm Mỹ Hương, bán loại thực phẩm cao cấp.

3/ Ông bà chủ tiệm MIMI, hành nghề uốn tóc.


Tại thành phố Sài Gòn, hầu hết các nhà tỉ phú đều bị “cướp” tài sản và họ phải bỏ chạy ra hải ngoại. Xin kể vài vị tiểu biểu:


1/ Ông Huỳnh Văn Xin, giám đốc hãng kem Perlon.

2/ Ông Nguyễn Tấn Đời, giám đốc Tín Nghĩa Ngân Hàng.

3/ Ông Nguyễn Hùng Trương, chủ nhà sách và nhà xuất bản Khai Trí.


Lúc đó, tôi mới vỡ lẽ, hiểu rõ lý do mà trước kia đơn xin trả môn bài của tôi không được cộng sản chấp thuận.


6. BÁN ĐỒ GIA DỤNG ĐỂ SANH TỒN


Lúc còn trẻ, tôi thường nghe ông bà khuyên bảo: “ở không hoài, ăn mãi thì núi cũng lỡ”. Từ ngày Việt Cộng cướp Miền Nam, tôi thấp thỏm lo âu. Chồng tôi đã đi tù còn tôi thì không có nghề ngỗng gì hết. Buôn bán thì bị cấm đoán, bây giờ phải làm gì để sống đây? Cũng như hầu hết bà con lối xóm, tôi đành bóp bụng, đem đồ đạc trong nhà, thứ gì bán được, lần hồi bán đi, để kiếm chén cơm. Chén bát, son chảo, lò ga, tủ lạnh, đồng hồ đeo tay, đồ nữ trang... từ từ đội nón ra đi. Vừa bán vừa cảm thấy xót xa, đau đớn, thương tiếc mấy thứ tư trang mà trước kia mình đã nưng niu, giữ gìn với một tình cảm yêu quí.


7. LUẬT RỪNG


Năm 1955, lúc làm ăn buôn bán, chúng tôi có sắm một chiếc xe hơi cũ, kiểu du lịch (từ ngữ Miền Bắc gọi là xe con) hiệu volkswagen, để làm phương tiện đi chuyển và chở hàng hóa. Nhờ nhà rộng rãi, gồm ba căn phố, chúng tôi dành riêng phần diện tích phía trước của một căn, làm ga-ra, cất chiếc xe vào nhà.


Thời kì đó, nước ta còn nghèo, rất ít người sắm xe hơi, cho nên những ông chủ địa ốc, xây cất nhà cho thuê, không hề dự trù diện tích riêng cho xe hơi (parking).


Sau ngày 30-4-1975, công an khu vực của phường đi kiểm tra từng nhà để làm hộ khẩu (sổ gia đình), thấy vài ba người ở xóm tôi có để xe hơi trong nhà. Bọn chúng phán ngay một chỉ thị trong “bộ luật rừng” của chúng: “Nhân dân hiện nay, nhiều người không có nhà ở, thế mà “chị” lại để xe trong nhà. Tất cả xe ô-tô của tư nhân phải đem lên phường giao lại cho nhà nước quản lý. Kỳ hạn vài hôm, cá nhân nào không thi hành, phường sẽ cho người đến tịch thu”.


Bà con lối xóm có xe hơi phản ứng mỗi người một cách để đối phó với “luật rừng” của cộng sản. Có hai vị chủ xe tình nguyện xin vào làm việc tại phường với nhiệm vụ là tài xế cho hợp tác xã và cho phường mượn luôn chiếc xe của mình. Phường thấy có lợi nên ưng thuận. Một vị khác đem xe gời thân quyến đã đi theo “cách mạng” (tức cộng sản) giữ giùm. Một vị có sáng kiến rất độc đáo. Ông ấy đội xe lên, tháo gỡ bốn bánh xe và luôn cả bình điện, đem đi gởi nhà bà con ở nơi khác. Cán Bộ đến khám nhà, thấy xe không sử dụng được, đành phải bỏ đi. Riêng tôi, phận đàn bà thua kém, không biết ứng phó cách nào cho thích đáng, đành phải nhờ người giới thiệu, đem bán rẻ cho một anh cán bộ. Thà không có xe đi mà có một ít tiền xài, chớ dại gì đem giao cho phường quản lý, kể như mất toi luôn.


8. ĐAN MÂY TRE TẠI NHÀ


Trong chánh sách cai trị của Việt Cộng, họ luôn luôn chủ trương thể thức sản xuất tập thể. Tất cả người dân làm bất cứ ngành nghề lớn nhỏ gì cũng phải vào nghiệp đoàn. Mục tiêu của họ là kiểm soát lợi tức (từ cộng sản gọi là thu nhập) của từng người dân. ở nông thôn, làm vườn, làm ruộng phải vào tập thể. ở thành thị, làm nghề hớt tóc, chạy xe ôm cũng phải vào nghiệp đoàn. Cộng sản muốn nắm hầu bao của mọi người. Nói nôm na là, cộng sản không muốn cho người dân giàu lên để trở thành nhà tư bản. Đây là chánh sách bần cùng hóa nhân dân của cộng sản Việt Nam. Dân càng nghèo thì cộng sản càng dễ dàng xỏ mũi và sai khiến.


Với chủ trương sản xuất tập thể nói trên, phường tại địa phương tôi thành lập một “tổ hợp sản xuất mây tre” và bắt buộc tất cả vợ của sĩ quan bị bắt đi tù phải gia nhập vào tổ hợp nầy. Trong xóm, tôi là người tương đối khá giả, có nhà rộng rãi mà ít người ở, cho nên phường cho cán bộ đến gặp tôi, nói là “tạm mượn mặt bằng” để cho chị em người dân thấp cổ bé miệng, khó mà từ chối. Với lại, mình giúp cho phường mượn địa điểm, biết đâu chừng sau nầy, mình có cần việc gì, họ có thể dễ dãi với mình chăng. Do đó, bất đắc dĩ, tôi phải ưng thuận.


Sau đó, phường lo tất cả mọi việc, cho người đi mua mây tre tại các vùng quê như là Bà Điểm, Hóc Môn, đem về dự trử tại nhà tôi, cho cán bộ chuyên nghiệp đến huấn luyện chị em trong tổ hợp cách thức đan giỏ. Phường cũng tự lo đem đi bán hàng hóa sản xuất được. Cuối cùng, họ đem tiền phân phát trả công cho chị em, tùy theo số lượng sản xuất của từng người. Họ ban phát bao nhiêu thì nhận bấy nhiêu, chứ không ai dám hỏi tình hình chi thu ra sao. Tôi nghĩ, đây là một sự bốc lột sức lao động tinh vi của chế độ cộng sản.


9. ÁP LỰC ĐI VÙNG KINH TẾ MỚI


Một thời gian sau, có lịnh bắt buộc “dân ngụy” đi các “vùng kinh tế mới”. Tức là đi khai phá các vùng đất hoang vu trở thành đất đai sử dụng được vào sản xuất để phát triển đất nước. Đây là một mánh khóe của Việt Cộng để diệt tư sản. Một mũi tên nhắm vào hai mục tiêu. Một là đuổi “ngụy” ra khỏi thành phố để tịch thu nhà cửa, hai là để đày đọa và bần cùng hóa dân Miền Nam, mà Việt Cộng cho là kẻ thù truyền kiếp của bọn chúng.


Công an khu vực đến từng nhà khuyến dụ: “Vợ sĩ quan nào có chồng đã đi “cải tạo” nay nếu tự nguyện đi “kinh tế mới” thì “cách mạng” sẽ thả chồng về. Tôi liều mạng trả lời: “Thả chồng tôi về thì tôi sẽ đi liền. Tôi ốm yếu như vầy, đang ở với thằng con 11 tuổi, nay đi “kinh tế mới” làm được việc gì để sống đây?” Kết quả là số đông trong phường không hưởng ứng lời kêu gọi của cán bộ. Thấy sự việc rỉ tai khó thuyết phục, phường ra thông báo, bắt buộc tất cả vợ sĩ quan “ngụy” phải lên phường họp để “đăng ký” đi vùng kinh tế mới. Vợ sĩ quan, ai cũng ngán và sợ cộng sản, nên tất cả đều đi họp rồi tùy cơ ứng biến, chớ không ai dám ở nhà.


Tại phòng họp, tên đại úy công an chủ tọa trình bài mục đích “tốt đẹp” của vùng kinh tế mới và yêu cầu, gần như bắt buộc, mọi người phải lên bàn chủ tọa, ký tên vào mẫu giấy để sẵn trên bàn là đồng ý đi “kinh tế mới” thì nhà nước sẽ cứu xét thả chồng về ngay. Tên công an nhấn mạnh thêm: “Nhà nước nói gì, nhân dân phải thi hành, không được trả giá”. Ý muốn nói là nhân dân không được đặt điều kiện. Một số vợ sĩ quan nghe nói ngọt, cả tin vào lời đường mật của Việt Cộng, lần lượt đi lên bàn của tên chủ tọa, ký tên đồng ý đi.


Riêng tôi, không hiểu sao tôi dám liều lĩnh, rủ vài chị bạn cùng xóm, chẳng những không lên ký tên mà còn lặng lẽ bỏ ra về. Mấy tên công an, gác cửa phòng họp, chận lại và hỏi: “Mấy chị ký tên chưa mà ra về vậy?


“ Tôi dứt khoát trả lời: “Thả chồng tôi về tới nhà thì tôi sẽ đi ngay”. Tôi vừa nói vừa kéo tay mấy chị bạn rảo bước đi nhanh. Bọn công an giữ trật tự nhìn chúng tôi, không phản ứng. Tôi nghĩ bụng, nếu mình cứng cỏi thì họ để yên, bằng không nếu mình yếu thế thì họ sẽ lấn tới.

Kết cuộc, một số đông gia đình đi kinh tế mới, sống lầm than nhiều năm tháng mà người chồng gia trưởng vẫn biệt tăm biệt tích. Trong lúc đó, nhà của mình bị Việt Cộng tịch thu và cấp cho cán bộ đến cư trú. Đây là một cú lừa ngoạn mục mà Việt Cộng đã thành công “vượt chỉ tiêu”, sau khi đã tóm gọn hầu hết sĩ quan “ngụy” vào cái rọ cải tạo.


10. EM TÔI ở PHÁP


Khi mới đi tù, chồng tôi bị giam tại trại Long Giao, tỉnh Long Khánh. Nửa năm sau, được chuyển về trại Tân Hiệp (cũng gọi là Suối Máu), tỉnh Biên Hòa. Sau đó, được chuyển ra Bắc Việt, lần lượt giam tại hai trại Hoàng Liên Sơn và Vĩnh Phú.


Ngày vô tù thì có, trái lại ngày mãn tù thì mù tịt. Trong những tháng năm chồng tôi ở tù, tinh thần tôi suy sụp trầm trọng, ngày đêm chỉ biết vái van, cầu Trời, khẩn Phật cho chồng tôi sớm được ra tù.


Trong lúc tinh thần sa sút, tôi được thơ của cậu em trai, Huỳnh Sĩ Nguyên, định cư tại Pháp từ năm 1976, đang giữ chức vụ Chánh văn phòng của Tổng trưởng Thông tin trong chánh phủ Pháp. Em tôi khuyên tôi nên gởi giấy tờ hộ tịch của tôi và đứa con, để làm thủ tục bảo lãnh qua Pháp. Cậu em lý luận: “Anh Ba (tức chồng tôi) ở tù cộng sản, mình đâu có biết ngày nào được thả, với lại chị làm sao sống nổi với tụi cộng sản được! Tụi nó toàn xài luật rừng” Tôi viết thơ hồi âm, từ chối ngay, không chút lưỡng lự. Tôi nghĩ, chồng mình đang bị hoạn nạn, mình nỡ lòng nào mưu tìm sự sung sướng cho riêng mình.


11. MỘT MỐI TÌNH ĐƠN PHƯƠNG


Năm 1979, lúc chồng tôi ở tù được bốn năm, một hôm, anh Thành, một người bạn học ngày xưa cùng trường tiểu học ở Sóc Trăng, đến nhà tôi cho biết một tin, làm tôi hết sức sững sờ. Số là, hồi tôi còn ở tuổi học trò ở quê nhà, có anh bạn học cùng lớp, tên Nhẫn, đã thầm yêu tôi nhưng chỉ giữ kín trong lòng. Sau biến cố năm 1945, Nhẫn đi theo kháng chiến chống Pháp, nay mang quân hàm Thiếu tá Việt Cộng và đang phục vụ tại Sóc Trăng. Nay, sau trên 30 năm mất liên lạc, Nhẫn đã nhờ Thành, đang cư trú tại Sài Gòn, thăm dò xem tình trạng gia cảnh của tôi để thực hiện mối tình đơn phương năm xưa mà Nhẫn vẫn còn ôm ấp trong lòng.


Hôm đó, sau khi nghe Thành trình bày mục đích của cuộc gặp gỡ, không chút lưỡng lự, tôi trả lời ngay: “Thành về nói lại với Nhẫn là anh ấy nên kiếm vợ, làm ăn với người ta. Còn tôi thì nay đã có chồng con. Chồng tôi đang ngồi tù tận ngoài Bắc và tôi đang chuẩn bị đi thăm nuôi đây. Tối với Nhẫn chẳng có duyên nợ gì hết, xin đừng trông mong hảo huyền nữa”.


Trong thâm tâm, tôi đã có một ý nghĩ dứt khoát. Vợ chồng tôi đã ăn ở với nhau ba chục năm nay, tình nghĩa thắm thiết. Vừa rồi, em ruột tôi tự nguyện bảo lãnh tôi đi Pháp, tôi đã từ chối. Nay, làm sao tôi có thể chia tay với một người chồng đã từng sóng chung rất đầm ấm để đi lấy chồng khác. Theo truyền thống gia giáo từ ngàn xưa, con gái Việt phải chính chuyên, một lòng chung thủy, một chồng một vợ mà thôi.


12. SUÝT BỊ LƯỜNG GẠT


Sau khi chồng tôi được chuyển ra các trại giam ở Bắc Việt khoảng bốn năm, một hôm có một phụ nữ Miền Bắc đến nhà tôi, tự giới thiệu y là một cán bộ đang phục vụ tại trại cải tạo Vĩnh Phú, nơi chồng tôi đang “học tập”. Y nói tiếp là, chồng tôi nhờ y thị, nếu có đi công tác vào thành phố Hồ Chí Minh thì giúp giùm đến nhà tôi, bảo tôi gởi ra anh ấy một cái đồng hồ đeo tay, một vài bộ quần áo ấm, và chút ít tiền, tùy theo khả năng. Y nói thêm, nếu có sẵn thì tốt, bằng không thì cho biết hôm nào có, cô ta sẽ trở lại nhận để đem ra Bắc giao lại cho chồng tôi.


Tôi nghĩ, đúng cô ta là cán bộ phục vụ tại trại mà chồng tôi đang bị giam cho nên mới biết rõ tên họ và địa chỉ của chồng tôi ở Sài Gòn. Tuy nhiên, tôi vẫn bán tín bán nghi. Có thật chồng tôi có nhờ vả cô ta điều mà cô trình bày không? Điểm nầy đáng nghi ngờ. Rất may, tôi chợt nhớ lại, xưa kia, trong thời gian chồng tôi vào quân đội, phục vụ ở xa nhà, chồng tôi thường dặn dò: “Nếu anh có cần gì thì anh viết thơ đàng hoàng. Em phải cẩn thận, xem tuồng chữ và chữ ký. Để đề phòng những người lạm dụng lòng tin, làm những việc không tốt”. Nhờ vậy, tôi từ chối khéo: “Chồng tôi có viết cho tôi một lá thơ nào không?” Cô cán bộ sừng sộ, nói như gây gổ: “Chị không tin tôi là cán bộ tại trại mà anh ấy đang học tập sao?” Tôi điềm đạm đáp: “Tôi tin cô, nhưng tôi cần có vài giòng chữ của chồng tôi để làm bằng cớ”.


Cô cán bộ phân bua om sòm, lối xóm ra xem rất đông. Tôi vẫn giữ lập trường, im lặng, không trả lời. Một chập sau, cô ta bẻn lẻn bỏ đi.

Về sau, được biết lối xóm ở phường tôi, có vài người, có con đi “cải tạo” ở Bắc, đã bị cán bộ đến nhà lừa đảo, tương tợ như cô cán bộ đến gặp tôi.


13. ĐI THĂM NUÔI


Cuối năm 1979, trong lúc chồng tôi đang bị giam tại trại Vĩnh Phú, Bắc Việt, tôi “được phép làm đơn” xin thăm nuôi. Làm đơn xin thăm nuôi, phải chờ có thông báo, không phải lúc nào muốn nộp đơn là được chấp nhận. Ngày nhận được giấy phép cho đi thăm nuôi, tôi quá đổi vui mừng. Nhưng vừa mừng lại vừa lo. Lúc đó, trong nhà đâu còn tiền. Mấy năm vừa qua, tôi đã bán sạch bách tất cả của nổi, tức là đồ đạc và tư trang trong nhà để sống tới nay. May quá, chúng tôi một ít của chìm. tức là chúng tôi đang là sở hữu chủ ba căn phố. Tôi đành bấm vụng, bán bớt một căn cho người hàng xóm, để có tiền đi thăm nuôi.


Tôi đi với đứa con trai và rủ hai chị bạn lối xóm cùng đi. Hai chị nầy có chồng ở tù cùng một trại với chồng tôi. Đi xe lửa xuyên Việt từ Sài Gòn ra Hà Nội mất hết ba ngày hai đêm. Xe lửa chật như nêm, tôi phải ngủ ngồi trên chiếc băng gổ, còn thằng con thì trải bạ, nằm ngủ trên sàn xe. Con tôi, năm đó 15 tuổi, mua vé loại giảm giá cho trẻ em. Khi lên xe, tên công an giữ an ninh, thấy vóc dáng con tôi cao lớn, hỏi con tôi mấy tuổi. Tôi nói, nó 15 tuổi. Tên nầy nghĩ rằng, tôi khai gian tuổi để mua vé giá rẻ dành cho trẻ em. Anh ta sừng sộ, bảo trình “chứng minh nhân dân” để kiểm chứng.


Đến Hà Nội lúc chiều tối, chúng tôi thuê phòng trọ, ngủ một đêm. Sáng hôm sau, tôi đi chợ mua bánh chưng và trái cây tươi, để phụ thêm thực phẩm đem từ Sài Gòn như sữa hộp, cá chà bông, mấm ruốc xào, muối đậu phộng...


Lạ nước lạ cái, không biết chợ búa ở đâu, chúng tôi gọi xe xích lô chở đi. Chú xa phu chở tôi và đứa con, nói một hơi, làm cho tôi ngạc nhiên. Anh ấy nói: “Tôi thấy mấy bà, biết ngay là người Sài Gòn ra đây để thăm mấy ông đi “cải tạo”. ở trong đó, sao mấy ông dở quá? Tụi nầy ở Bắc trông mong mấy ông ấy ra giải phóng Bắc Việt. Thế mà nay có chuyện ngược đời. Thương hại cho mấy ông ấy!” Tôi làm thinh, không biết trả lời thế nào đây.


Chồng tôi bị giam ở trại Vĩnh Phú/K5, ở mạn Bắc Hà Nội. Nghe nói, đi bộ từ Hà Nội đến trại phải mất một ngày trời. Năm đó, tôi 50 tuổi, già yếu nhưng luôn tâm niệm là phải cố gắng. Tôi thuê xe ba gác, chở cái rương sắt đựng thức ăn, quần áo, thuốc men. Anh phu xe đi trước, tôi và thằng con lẻo đẻo theo sau. Đến trại thì trời đã xế chiều. Chúng tôi được phép ngủ đêm lại tại một gian nhà tranh dành riêng cho khách thăm nuôi.


Sáng hôm sau, chúng tôi được hướng dẫn đến phòng thăm nuôi. Tôi trình giấy phép. Cán bộ cầm giấy tờ lên văn phòng. Một chập sau trở lại, cho biết là, chồng tôi đã chuyển đi K1 gần một tháng rồi. Lúc tôi làm đơn xin đi thăm thì chồng tôi còn ở K5. Tôi bàng hoàng, choáng váng, đứng không vững, như muốn té quÿ xuống đất. Cán bộ cho biết, trại K1, nơi chồng tôi đang bị giam, ở cách trại K5 khoảng 10 cây số.


Tôi lại phải thuê xe ba gác, cùng với thàng con lội bộ thêm nửa ngày, đến xế chiều mới tới K1. Lại ngủ thêm một đêm thứ hai tại nhà khách lạnh lẽo. Sáng hôm sau, chúng tôi được hướng dẫn đến phòng thăm nuôi. Tại đây đã có mặt vài anh cán bộ. Nhờ chiều hôm trước, khi vừa đến trại, tôi đã có trình giấy phép thăm nuôi, nên sáng hôm đó, chồng tôi được miễn xuất trại đi lao động và được hướng dẫn đến phòng thăm nuôi để gặp chúng tôi.


Trong phòng, có một bàn gỗ dài cỡ ba thước và 2 cái băng dài. Anh cán bộ ra dấu, bảo tôi và đứa con ngồi một bên và chồng tôi ngồi đối diện. Có nghĩa là hai vợ chồng không được ngồi cạnh nhau. Còn anh cán bộ thì ngồi bên phía chồng tôi để theo dõi cuộc nói chuyện.


Chúng tôi biết ý, chỉ hỏi thăm về sức khỏe, chỉ nói chuyện liên quan đến gia đình mà thôi. Đâu dám nói chuyện gì khác, rủi bị cán bộ đuổi về sớm thì mang họa. Tôi giao cho chồng tôi cái rương sắt nhỏ, đựng đủ thứ thức ăn và đồ dùng. Tôi dặn chồng tôi, có cần gì thì viết thơ cho biết.


Sau gần năm năm đi tù, chồng tôi thay đổi quá nhiều. Thân hình ốm nhom, nước da đen đúa, mặt mày bơ thờ. Trông tội nghiệp quá. Tự nhiên nước mắt tôi trào ra, tôi vội lấy khăn lau. Tôi cố cắn răng, cầm cho khỏi hóc nấc lên. Trời ơi! Sao tôi bị đày đọa, bị bắt phải chịu cảnh sống khốn khổ quá vậy?


Nói chuyện sơ sơ, khoảng nửa giờ thì tên cán bộ nói đã hết giờ qui định rồi. Tôi nói lới chia tay mà nước mắt ràn rụa. Tôi cảm thấy đau nhói trong tim, muốn la lên kêu Trời cho đỡ đau khổ.


Trên đường về Hà Nội, chúng tôi sử dụng nhiều phương tiện di chuyển: đi bộ, đi thuyền và đi xe lửa. Đến Hà Nội, chúng tôi thuê phòng trọ ngủ đêm. Sáng hôm sau, đi xe lửa xuyên Việt về Sài Gòn.


14. SUÝT BỊ LƯỜNG GẠT LẦN THỨ HAI


Thăm chồng về được vài tháng, một hôm có một thanh niên đến nhà tôi, cũng tự xưng là cán bộ tại trại Vĩnh Phú. Cũng giống như cô cán bộ đến nhà tôi lần trước, anh ta nói, chồng tôi nhờ anh ấy, trong dịp đi công tác vào Nam, đến nhắn bảo tôi tiếp tế thực phẩm, quần áo và tiền bạc.


Tôi biết ngay là anh cán bộ này nói dối. Là vì, trong chuyến thăm chồng tôi vừa rồi, tôi đã tiếp tế đầy đủ những thứ mà anh ta vừa mới nói. Tuy nhiên, với bản chất ôn hòa, tôi không muốn tranh cãi với người dưng nước lã làm chi. Có thể, cả đời mình, chỉ gặp họ một lần mà thôi. Tôi từ chối khéo: “Cám ơn anh rất nhiều, đã chịu khó đến nhà tôi. Nhưng tôi sắp sửa đi thăm nuôi chồng tôi cho nên không dám làm phiền anh”. Thế là tôi đã thoát nạn lần thứ nhì. Nếu dễ tin thì đã bị lường gạt.


15. NGÀY TRở VỀ


Buổi tối, ngày 30-4-1980, tôi và đứa con đang ngồi ăn cơm, thì chồng tôi bước vô nhà. Trông chồng tôi gầy ốm, đen đúa, quần áo lếch thếch, lưng đeo ba lô. Đâu còn phong độ của thời huy hoàng ngày xưa. Tôi sững sờ, đánh rơi đủa chén, líu lưỡi, không nói nên lời.


Chồng tôi cho biết, anh ấy đã được trả tự do vài ngày trước đây. Ra trại Vĩnh Phú, anh ấy về Hà Nội, ngủ ngoài trời một đêm tại sân ga xe lửa. Ngay khi tới Hà Nội, anh ấy đã đến bưu điện, gởi điện tín báo tin mừng, một ngày trước lên xe lửa về Na. Xe chạy từ Hà Nội vô Sài Gòn mất thêm hai ngày nữa. Thế mà, điện tín lại đi chậm hơn xe lửa. Do đó, sự xuất hiện của chồng tôi đã đem lại cho tôi một sự mừng rỡ, một hạnh phúc bất ngờ, tưởng chỉ có trong giấc mơ mà thôi.


Tôi đề nghị hai đứa ra phố ăn cơm tiệm để mừng ngày thoát cảnh tù đày. Chồng tôi nói: “Thôi! Ăn cơm tù nhiều năm quen rồi, bây giờ có ăn cơm nguội cũng sướng như tiên rồi”. Đúng là bị méo mó nghề nghiệp ở tù.


Lúc ấy, tiếng nhạc cát-xết nhà bên cạnh vọng sang văng vẳng:


Em vẫn chờ khi nào anh về,

Dù cho bao năm bao tháng lê thê.

Xuân tới, hè sang rồi thu lạnh lùng

Vẫn bền lòng một nỗi nhớ nhung.


Thanh Minh



Kính mời quý vị thưởng thức