Thứ Hai, 1 tháng 12, 2025

Thơ Của Đỗ Phủ - Bài 106 Và 107

 


THƠ CỦA ĐỖ PHỦ - BÀI 106 VÀ 107
Thầy Dương Anh Sơn

THƠ CỦA ĐỖ PHỦ

Bài 106

QUY NHẠN                                                                               歸雁

Văn đạo kim xuân nhạn,                                                            聞道今春雁,
Nam quy tự Quảng Châu.                                                          南歸自廣州。
Kiến hoa từ Trướng Hải,                                                            見花辭漲海,
Tỵ tuyết đáo La Phù.                                                                  避雪到羅浮。
Thị vật quan binh khí,                                                                是物關兵氣,
Hà thì miễn khách sầu.                                                               何時免客愁。
Niên niên sương lộ cách,                                                            年年霜露隔,
Bất quá Ngũ Hồ thu.                                                                  不過五湖秋。
(năm 768)

Dịch nghĩa:

Nghe nói chim nhạn của mùa xuân năm nay, - Từ Quảng Châu quay về phía phương nam. – Khi thấy hoa nở, rời qua Trướng Hải, - Đến núi La Phù tránh tuyết. (c.1-4)
Loài vật (như chim nhạn) chẳng vướng chuyện binh đao, - Biết bao giờ khách (đi xa) mới thoát khỏi nỗi sầu? – Năm này đến năm kia, gió sương làm cách trở! – Chỉ còn mùa thu nơi Ngũ Hồ thôi. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

CHIM NHẠN QUAY VỀ .

Nghe rằng chim nhạn xuân này,
Quảng Châu từ đó quay về nam thôi.
Thấy hoa, Trướng Hải di dời,
La Phù mùa tuyết sắp rơi, tránh nào!
Vật kia chẳng vướng binh đao,
Bao giờ khách sẽ thoát sầu vương vương.
Bao năm cách trở gió sương,
Ngũ Hồ chỉ có thu còn đây thôi!

Chú thích:

- Quảng Châu 廣州: nằm ở miền nam Trung Hoa ,nay thuộc Quảng Đông gần cửa sông Châu Giang. Phía bắc giáp Quảng Tây.phía đông giáp Phúc Kiến, phía nam nhìn ra Biển Đông. Quảng Châu hay Quảng Đông, Quảng Tây và Phúc Kiến. Theo sách sử Trung Hoa, vùng này chính là nơi sinh sống của người Bách Việt 百越 gồm hai nhóm chính là Nam Việt 南越 và Âu Việt 瓯越.
Về sau tộc Việt bị Hán tộc xâm lấn, đẩy xuống về phía nam và phải sinh sống ở châu thổ Hồng Hà (Bắc Bộ)... vv...
- Trướng Hải 漲海: cách gọi phiếm chỉ, không cụ thể là địa danh ở vị trí nào trong thư tịch cổ xưa của Trung Hoa khi nói vùng biển phía nam Trung Hoa...
- La Phù 羅浮: một dãy núi nổi tiếng từ tỉnh Quảng Đông kéo dài qua Quảng Châu và Huệ Châu....
- thị vật quan binh khí 是物關兵氣: cách nói tổng quát: loài vật này (chim nhạn) không liên quan hay vướng mắc vào chuyện binh đao, chiến tranh....
- miễn 免: bỏ, thoát khỏi, tránh khỏi, khỏi phải... v.v...
- niên niên 年年: năm này qua năm khác, bao năm qua...
- sương lộ cách 霜露隔: cách ngăn bởi sương gió (lộ: sương móc, ngủ ngoàiđồng với sương gió...)
- bất quá 不過: chỉ cần, chỉ có, chỉ còn, chỉ, không vượt qua, hết sức, nhưng mà....
- Ngũ Hồ 五湖: Ngũ Hồ là 5 hồ lớn và nổi tiếng bên Trung Hoa nằm ở vùng Giang Nam và trung hạ du của Trường Giang gồm Thái Hồ 太湖 (Giang Tây), Động Định Hồ 洞庭湖 (Hồ Nam), Bà Dương Hồ 鄱阳湖 (Giang Tây), Hồng Trạch Hồ 洪泽湖 (Giang Tô) và Sào Hồ 巢湖(An Huy)

Bài 107

THẬP LỤC DẠ NGOẠN NGUYỆT                                         十六夜翫月

Cựu ấp kim ba sảng,                                                                   舊挹金波爽,
Giai truyền ngọc lộ thu.                                                             皆傳玉露秋。
Quan sơn tuỳ địa khoát,                                                             關山隨地闊,
Hà Hán cận nhân lưu.                                                                 河漢近人流。
Cốc khẩu tiều quy xướng,                                                          谷口樵歸唱,
Cô thành địch khởi sầu.                                                              孤城笛起愁。
Ba Đồng hồn bất tẩm,                                                                巴童渾不寢,
Bán dạ hữu hành chu.                                                                 半夜有行舟。

Dịch nghĩa:

Xưa sóng vàng dồn cao vọt lên, - Hạt móc ngọc mùa thu truyền khắp nơi nơi. – Vùng cửa ải hay núi non theo thế đất trải rộng ra, - Dãi Ngân Hà như chảy xuôi bên cạnh con người. (c.1-4)
Từ khe núi, ông tiều trở về ca hát vang lừng! – Thành trì lẻ loi tiếng địch nổi lên buồn bã! – Chốn Ba Đồng đều không ngủ được ! – Nửa đêm có thuyền ra đi.(c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

THƯỞNG TRĂNG ĐÊM MƯỜI SÁU

Sóng vàng cao vọt xưa dồn,
Mùa thu móc ngọc lan truyền nơi nơi!
Ải non theo đất rộng vời,
Chảy xuôi ở kế bên người: sông Ngân.
Tiều về khe núi hát rần,
Địch vang thành lẻ, sầu dâng thấm lòng.
Ngủ không hề được Ba Đồng,
Nửa đêm có chiếc thuyền dong đi rồi!

Chú thích:

- ấp 挹: dồn lại, chắc lọc, múc, dẫn dắt, nhường, tôn kính...
- sảng 爽: cao vọt lên, sáng suốt, sảng khoái, cao ráo, tỉnh táo, nhanh nhẹn....
- giai truyền 皆傳: truyền lan khắp nơi, truyền đều mọi nơi....
- khoát 闊: rộng rãi, xa vắng, thưa thớt, sơ sài, giàu có....
- Hà Hán 河漢: chỉ dòng Ngân Hà 銀河 gồm một chuỗi ngôi sao trên trời. Còn được gọi là Ngân Hán 銀漢 hay Thiên Hán 天漢...
- cốc khẩu 谷口: cửa hang núi, khe núi; lũng suối chảy ra hai bên vách núi gọi là cốc, đường cùng...
- xướng 唱: ca hát vang, kêu lớn...
- địch 笛: thường làm bằng tre hay trúc. Còn gọi là tiêu hay sáo. Cầm thổi ngang là địch hay sáo ,thổi dọc là tiêu...
- Ba Đồng 巴童: trong thơ cổ trung Hoa, Ba Đồng để chỉ trẻ con vùng đất Ba Thục thuộc Tứ Xuyên bên Trung Hoa chèo thuyền hay chơi trên núi... v.v.... Câu thơ này, Đỗ Phủ có quê vùng Ba Thục đã hồi tưởng mình như đứa trẻ rong chơi sông núi thở nào chốn quê nhà....

(Lần đến: THƠ CỦA ĐỖ PHỦ - Bài 108 và 109)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét