Tuy Hòa, nơi Nguyễn ở cách nay gần sáu chục năm, là
một thành phố nhỏ hiền hòa nằm sát bờ biển, giống như nàng “Mỹ Nhân Ngư” phơi tấm
thân kiều diễm trên bãi cát trắng tinh. Nàng dựa đầu trên núi Chóp Chài, đôi mắt
mơ màng nhìn ra biển Đông, nghe gió thổi vi vu qua những bãi thùy dương dày đặc
trên bãi biển Đại Lãnh, đầu đội vương miện hình Tháp.
Ai từng đi qua Tuy Hòa, nhìn lên Tháp Nhạn đứng hiên ngang trên đỉnh núi, soi mình bên dòng Đà Giang lững lờ trôi, đều ngậm ngùi cho nền văn minh một thời rất huy hoàng của nước Chiêm Thành. Cả một vương quốc đã mất hẳn dấu tích, chỉ còn lại vài cái tháp đứng trơ gan cùng tuế nguyệt!
Xa kia về phía nam là ngọn Thạch Bi Sơn (Núi Đá Bia) cao ngất quanh năm mây phủ, đánh dấu chiến công hiển hách của vua Lê Thánh Tôn một thời đại phá quân Chiêm Thành. Đó cũng là biên giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành thời Hậu Lê.
Nguyễn là một trong nhóm người Bắc di cư nhỏ nhoi, được may mắn định cư và lớn lên trên vùng đất tự do, ấm cúng Tuy Hòa nơi mà người dân có tiếng là chất phác, đôn hậu và nhiệt tình.
Ai từng đi qua Tuy Hòa, nhìn lên Tháp Nhạn đứng hiên ngang trên đỉnh núi, soi mình bên dòng Đà Giang lững lờ trôi, đều ngậm ngùi cho nền văn minh một thời rất huy hoàng của nước Chiêm Thành. Cả một vương quốc đã mất hẳn dấu tích, chỉ còn lại vài cái tháp đứng trơ gan cùng tuế nguyệt!
Xa kia về phía nam là ngọn Thạch Bi Sơn (Núi Đá Bia) cao ngất quanh năm mây phủ, đánh dấu chiến công hiển hách của vua Lê Thánh Tôn một thời đại phá quân Chiêm Thành. Đó cũng là biên giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành thời Hậu Lê.
Nguyễn là một trong nhóm người Bắc di cư nhỏ nhoi, được may mắn định cư và lớn lên trên vùng đất tự do, ấm cúng Tuy Hòa nơi mà người dân có tiếng là chất phác, đôn hậu và nhiệt tình.
Thời 54, chính quyền cho cất một xóm độ vài chục căn
nhà tranh vách đất vây quanh cái giếng nước trên một mảnh đất khá rộng, để đón
dân Bắc Kỳ di cư. Tất cả sinh hoạt của trại đều xảy ra ở đó, từ tắm rửa, giặt
quần áo, xách nước về nhà để nấu ăn, chuyện gẫu, trai gái gặp gỡ làm quen. Đó
đúng là một tụ điểm hội họp, giống như sân đập lúa ở một làng quê, bởi vì chẳng
có một thứ giải trí nào khác.
Đời sống trong trại di cư khác thật xa với các trại của vùng kinh tế mới sau này. Đó là một đời sống tạm đầy đủ, êm đềm, tự do và tự tin cho tương lai của gia đình và đất nước. Trẻ con đều được đi học mà không phải trả bất cứ một khoản học phí nào. Nguyễn có những bạn cùng lớp đạp xe đi học từ những vùng thôn quê xa xôi. Bệnh viện đều miễn phí, rộng rãi và hợp vệ sinh. Xã hội có tôn ti trật tự và lễ nghĩa: kính trên nhường dưới. Cửa nhà không cần khóa hai ba lớp. Chẳng phải thời Nghiêu Thuấn, nhưng tương đối hạnh phúc yên bình cho tới khi những tai họa từ trên núi đổ xuống: ám sát, chặn đường, gài mìn, pháo kích, súng nổ khắp nơi.
Ba Nguyễn dạy học mãi ngoài Hội An, nên Nguyễn ở lại Tuy Hoà với Ông Nội và hai bà cô để tiện bề học hành và hầu hạ Ông. Nguyễn coi Ông giống như Cha, nhưng đôi khi cũng rất cô đơn, buồn và tủi thân. Bởi vì Ông già hơn Cha nhiều và khó gần gũi. Những lúc như vậy, hầu như Nguyễn chỉ có bé Uyên là người thân thích nhất.
Uyên là “cô bé lọ lem” nhà hàng xóm, nhỏ hơn Nguyễn sáu, bảy tuổi gì đó. Ba Uyên là quân nhân, luôn vắng nhà. Mẹ Uyên thương Nguyễn như con bà vậy. Nguyễn chỉ biết ai cũng gọi bà là “Cô Ba Nam kỳ”. Lúc rảnh rỗi Nguyễn hay lại nhà em chơi.
Bé Uyên thường theo Nguyễn đi nhà thờ. Đó là ngôi thánh đường rất nhỏ, gần một dòng sông, có những hàng cây keo cao ngất mọc bên bờ, đầy gai và hoa trắng nõn, dày cơm, ngọt lịm. Bé Uyên và Nguyễn hái hoa keo ăn chán chê, rồi ngồi trên bờ cát nhìn xuống dòng sông nhỏ bé lững lờ trôi, ngắm bày chim chiền chiện đuổi nhau trên đám cỏ lau kêu ríu rít, quên cả vô nhà thờ cầu nguyện.
Đời sống trong trại di cư khác thật xa với các trại của vùng kinh tế mới sau này. Đó là một đời sống tạm đầy đủ, êm đềm, tự do và tự tin cho tương lai của gia đình và đất nước. Trẻ con đều được đi học mà không phải trả bất cứ một khoản học phí nào. Nguyễn có những bạn cùng lớp đạp xe đi học từ những vùng thôn quê xa xôi. Bệnh viện đều miễn phí, rộng rãi và hợp vệ sinh. Xã hội có tôn ti trật tự và lễ nghĩa: kính trên nhường dưới. Cửa nhà không cần khóa hai ba lớp. Chẳng phải thời Nghiêu Thuấn, nhưng tương đối hạnh phúc yên bình cho tới khi những tai họa từ trên núi đổ xuống: ám sát, chặn đường, gài mìn, pháo kích, súng nổ khắp nơi.
Ba Nguyễn dạy học mãi ngoài Hội An, nên Nguyễn ở lại Tuy Hoà với Ông Nội và hai bà cô để tiện bề học hành và hầu hạ Ông. Nguyễn coi Ông giống như Cha, nhưng đôi khi cũng rất cô đơn, buồn và tủi thân. Bởi vì Ông già hơn Cha nhiều và khó gần gũi. Những lúc như vậy, hầu như Nguyễn chỉ có bé Uyên là người thân thích nhất.
Uyên là “cô bé lọ lem” nhà hàng xóm, nhỏ hơn Nguyễn sáu, bảy tuổi gì đó. Ba Uyên là quân nhân, luôn vắng nhà. Mẹ Uyên thương Nguyễn như con bà vậy. Nguyễn chỉ biết ai cũng gọi bà là “Cô Ba Nam kỳ”. Lúc rảnh rỗi Nguyễn hay lại nhà em chơi.
Bé Uyên thường theo Nguyễn đi nhà thờ. Đó là ngôi thánh đường rất nhỏ, gần một dòng sông, có những hàng cây keo cao ngất mọc bên bờ, đầy gai và hoa trắng nõn, dày cơm, ngọt lịm. Bé Uyên và Nguyễn hái hoa keo ăn chán chê, rồi ngồi trên bờ cát nhìn xuống dòng sông nhỏ bé lững lờ trôi, ngắm bày chim chiền chiện đuổi nhau trên đám cỏ lau kêu ríu rít, quên cả vô nhà thờ cầu nguyện.
Hai đứa sống bên nhau như hai trẻ mồ côi lạc loài. Tất
cả tình thương Nguyễn đều dành cho Uyên, chiều chuộng em như chính em ruột của
mình. Uyên cũng cảm nhận được điều đó nên luôn mè nheo Nguyễn.
- Anh Hai, mấy con chim đó tên là gì dzậy?
- Anh Hai, mấy con chim đó tên là gì dzậy?
- Người ta gọi là chim chiền chiện.
- Ai đặt tên cho nó dzậy?
- Anh hổng biết.
- Chắc má nó đặt tên cho nó phải hông?
- Chắc Ba nó đặt đó, giống như Ba đặt tên cho em dzậy.
- Ừ há.
- Bắt nó cho em đi, anh Hai.
- Nó chạy nhanh lắm, làm sao anh bắt được.
- Cẳng anh dài hơn cẳng nó mà.
- Nhưng nó có cánh.
- Ai đặt tên cho nó dzậy?
- Anh hổng biết.
- Chắc má nó đặt tên cho nó phải hông?
- Chắc Ba nó đặt đó, giống như Ba đặt tên cho em dzậy.
- Ừ há.
- Bắt nó cho em đi, anh Hai.
- Nó chạy nhanh lắm, làm sao anh bắt được.
- Cẳng anh dài hơn cẳng nó mà.
- Nhưng nó có cánh.
- Thôi em hổng chơi dzí anh nữa đâu, anh lớn như dzầy mà hổng bắt được con chim
nhỏ xíu đó.
- Để nó sống với ba má, bắt nó làm chi tội nghiệp, lỡ nó nhớ ba, buồn rồi bịnh
chết mất sao.
- Anh Hai ơi, em nhớ Ba quá hà, bữa nào Ba dzìa, em nói Ba dẫn anh em mình đi
ăn cơm gà siu siu nghe.
- Ừ phải đấy.
Nguyễn thấy mắt em đỏ hoe và quên mất chuyện đòi bắt chim chiền chiện. Nguyễn ôm em thật chặt, và hôn lên tóc em. Nguyễn thương em và thương mình quá đỗi.
- Ngoan đi, anh còn một đồng đây, anh mua bánh rán cho em ăn nghe?
- Hổng chịu đâu.- Ừ phải đấy.
Nguyễn thấy mắt em đỏ hoe và quên mất chuyện đòi bắt chim chiền chiện. Nguyễn ôm em thật chặt, và hôn lên tóc em. Nguyễn thương em và thương mình quá đỗi.
- Ngoan đi, anh còn một đồng đây, anh mua bánh rán cho em ăn nghe?
- Chè đậu dzán dzậy?
- Hổng chịu.
- Kẹo kéo nhá, quay số trúng, chịu hông?
Nghe quay số mắt em sáng lên nhưng phụng phịu:
- Em chỉ muốn ăn kẹo bột thôi.
- Kẹo bột là kẹo gì dzậy trời?
- Kẹo đường đen rắc bột trắng đó.
- Trời đất, kẹo đường cứt trâu đó hả?
Em mở to mắt tròn xoe như hai viên bi thủy tinh và gật đầu lia lịa.
- Mở miệng ra coi, còn mấy cái răng mà đòi ăn kẹo bột. Em có biết là ăn nhiều đường sẽ bị sún răng không? Con gái mà sún răng trông xấu lắm mà còn bị bạn “lêu lêu” nữa đó.
- Em chỉ muốn ăn kẹo bột thôi.
- Kẹo bột là kẹo gì dzậy trời?
- Kẹo đường đen rắc bột trắng đó.
- Trời đất, kẹo đường cứt trâu đó hả?
Em mở to mắt tròn xoe như hai viên bi thủy tinh và gật đầu lia lịa.
- Mở miệng ra coi, còn mấy cái răng mà đòi ăn kẹo bột. Em có biết là ăn nhiều đường sẽ bị sún răng không? Con gái mà sún răng trông xấu lắm mà còn bị bạn “lêu lêu” nữa đó.
- Thiệt hông? Anh xạo, em mét má cho coi.
- Sao hổng thiệt, em sờ dzô thì biết, coi chừng răng sún cắt đứt tay đó nghen.
Con bé có vẻ sợ thiệt, rơm rớm nước mắt. Nguyễn phải ôm Uyên dỗ dành. Có lẽ Nguyễn thương em nhất trên đời. Em ở ngay bên Nguyễn, an ủi Nguyễn, cần Nguyễn che chở, dẫn dắt, tất cả mọi thứ khác đều quá xa vời.
- Em thấy anh Hai khóc nè!
- Sao hổng thiệt, em sờ dzô thì biết, coi chừng răng sún cắt đứt tay đó nghen.
Con bé có vẻ sợ thiệt, rơm rớm nước mắt. Nguyễn phải ôm Uyên dỗ dành. Có lẽ Nguyễn thương em nhất trên đời. Em ở ngay bên Nguyễn, an ủi Nguyễn, cần Nguyễn che chở, dẫn dắt, tất cả mọi thứ khác đều quá xa vời.
- Em thấy anh Hai khóc nè!
- Đâu có, cát bay dzô mắt anh đó.
- Anh Hai xạo quá, rõ ràng em thấy tóc em ướt mà.
- Chắc con chim chiền chiện bay ngang nó tè trên đầu em, vì em đòi bắt nó đó.
- Chắc con chim chiền chiện bay ngang nó tè trên đầu em, vì em đòi bắt nó đó.
Tháp Nhạn
Em cười rũ rợi, và đấm trên ngực Nguyễn liên hồi. Hai đứa quên hết muộn phiền.
Muốn đến nhà thờ phải lội bộ ngang ga xe lửa rồi băng qua nhiều đồi cát, Nguyễn vừa đi vừa kể chuyện cho Uyên nghe, đó là những chuyện Nguyễn đọc được trong các trang báo thiếu nhi, hay những truyện nhi đồng như Bạch Tuyết Và Bẩy Chú Lùn, Cô Bé Lọ Lem, Cô Bé Quàng Khăn Đỏ, Thằng Người Gỗ... Nhiều khi vừa cõng em vừa kể chuyện, tới lúc cô bé đã ngủ gục trên vai Nguyễn lúc nào không biết. Mỗi lần đi ngang ga xe lửa, mùi cơm gà siu siu từ gánh hàng rong của chú Ba lại làm bụng hai đứa Nguyễn cồn cào, nước miếng thi nhau chảy ra như mưa rào. Ôi những miếng thịt gà vàng ngậy, bóng lưỡng nằm trên đĩa cơm nấu bằng nước gà luộc rồi chiên với mỡ gà.Lần nào đi ngang qua hàng cơm gà Uyên cũng dán mắt vào đó, chân bước đi không nổi.Nguyễn chỉ có mỗi ước mơ nhỏ bé, một ngày nào đó sẽ mua cho Uyên một dĩa cơm gà siu siu!
Có lần cô Ba mắc đi sanh em bé, Cô xin phép Nội cho Nguyễn qua ngủ trông nhà và Uyên cho Cô. Cô phải vào nhà hộ sanh sớm, kẻo tối có chuyện gì đi không kịp.Tỉnh nhỏ làm gì có phương tiện chuyên chở như bây giờ, đêm hôm chỉ có nước lội bộ thôi.
Muốn đến nhà thờ phải lội bộ ngang ga xe lửa rồi băng qua nhiều đồi cát, Nguyễn vừa đi vừa kể chuyện cho Uyên nghe, đó là những chuyện Nguyễn đọc được trong các trang báo thiếu nhi, hay những truyện nhi đồng như Bạch Tuyết Và Bẩy Chú Lùn, Cô Bé Lọ Lem, Cô Bé Quàng Khăn Đỏ, Thằng Người Gỗ... Nhiều khi vừa cõng em vừa kể chuyện, tới lúc cô bé đã ngủ gục trên vai Nguyễn lúc nào không biết. Mỗi lần đi ngang ga xe lửa, mùi cơm gà siu siu từ gánh hàng rong của chú Ba lại làm bụng hai đứa Nguyễn cồn cào, nước miếng thi nhau chảy ra như mưa rào. Ôi những miếng thịt gà vàng ngậy, bóng lưỡng nằm trên đĩa cơm nấu bằng nước gà luộc rồi chiên với mỡ gà.Lần nào đi ngang qua hàng cơm gà Uyên cũng dán mắt vào đó, chân bước đi không nổi.Nguyễn chỉ có mỗi ước mơ nhỏ bé, một ngày nào đó sẽ mua cho Uyên một dĩa cơm gà siu siu!
Có lần cô Ba mắc đi sanh em bé, Cô xin phép Nội cho Nguyễn qua ngủ trông nhà và Uyên cho Cô. Cô phải vào nhà hộ sanh sớm, kẻo tối có chuyện gì đi không kịp.Tỉnh nhỏ làm gì có phương tiện chuyên chở như bây giờ, đêm hôm chỉ có nước lội bộ thôi.
Nguyễn dắt Uyên về Nội ăn cơm rồi hai đứa về nhà em
ngủ.Dạo đó, Nguyễn đang học đệ lục (ngang lớp 7 bây giờ), kể cũng đã lớn rồi.Uyên
còn nhỏ lắm.Buổi tối em nhất định đòi Nguyễn ngủ chung giường, Uyên nói:
- Em ngủ một mình sợ lắm, em vẫn ngủ chung với Má.
- Em ngủ một mình sợ lắm, em vẫn ngủ chung với Má.
- Nhưng anh là con trai, em là con gái không ngủ chung được.
- Thế Ba với Má vẫn ngủ chung đó sao.
- Ba với Má thì khác, lớn lên em sẽ hiểu.
- Em thấy khác gì đâu, em hổng chịu đâu.
Giọng Nam Kỳ nhõng nhẽo, mếu máo, khiến Nguyễn không thể làm phật ý em được. Đợi khi em ngủ say, Nguyễn gỡ tay ra, trải chiếu, ngủ trên thềm nhà. Buổi sáng khi vừa mở mắt ra, đã thấy em nằm ngủ say sưa bên cạnh. Uyên ngây thơ và vô tư như thiên thần.
Từ ngày có em bé, Uyên không còn được Mẹ chăm sóc như xưa, em quanh quẩn bên Nguyễn nhiều hơn, buổi tối thường ăn cơm chung với Nguyễn và đòi chỉ em làm bài tập.
Năm cuối cùng trung học đệ nhất cấp, Nguyễn chuẩn bị đi Saigon học tiếp. Sẵn có tiền Nội cho, Nguyễn dẫn Uyên đi ăn cơm gà siu siu, đó là bữa ăn ngon nhất trên đời Nguyễn và em được ăn. Dù sau này đi khắp năm châu bốn bể, Nguyễn cũng không thấy bữa ăn nào ngon như thế.
- Thế Ba với Má vẫn ngủ chung đó sao.
- Ba với Má thì khác, lớn lên em sẽ hiểu.
- Em thấy khác gì đâu, em hổng chịu đâu.
Giọng Nam Kỳ nhõng nhẽo, mếu máo, khiến Nguyễn không thể làm phật ý em được. Đợi khi em ngủ say, Nguyễn gỡ tay ra, trải chiếu, ngủ trên thềm nhà. Buổi sáng khi vừa mở mắt ra, đã thấy em nằm ngủ say sưa bên cạnh. Uyên ngây thơ và vô tư như thiên thần.
Từ ngày có em bé, Uyên không còn được Mẹ chăm sóc như xưa, em quanh quẩn bên Nguyễn nhiều hơn, buổi tối thường ăn cơm chung với Nguyễn và đòi chỉ em làm bài tập.
Năm cuối cùng trung học đệ nhất cấp, Nguyễn chuẩn bị đi Saigon học tiếp. Sẵn có tiền Nội cho, Nguyễn dẫn Uyên đi ăn cơm gà siu siu, đó là bữa ăn ngon nhất trên đời Nguyễn và em được ăn. Dù sau này đi khắp năm châu bốn bể, Nguyễn cũng không thấy bữa ăn nào ngon như thế.
Lúc Nguyễn lên đại học thì Uyên vừa vào trung học. Mỗi
năm cứ vào dịp hè Nguyễn lại đáp xe lửa về Tuy Hòa thăm Nội và Uyên. Nguyễn hay
dẫn em leo núi Nhạn hái trái sim màu tím thẫm ngọt lịm hay trái dú dẻ màu vàng
tươi, thơm ngát. Đó là những ngày hè vui nhất trong đời. Uyên càng lớn càng
xinh đẹp hơn, không còn là cô bé lọ lem ngày nào. Uyên và Nguyễn vẫn leo lên mấy
đồi cát đi về phía nhà thờ bên dòng sông thời thơ ấu, nhưng em không còn bắt Nguyễn
cõng và cũng không còn đòi ăn kẹo bột nữa.
Đôi khi Uyên và Nguyễn ra ngồi ngoài bãi biển yên lặng nhìn mông lung về phía chân trời, mắt dõi theo những chiếc thuyền lững lờ trôi về nơi xa xăm. Sự tin yêu và thông cảm đã khiến hai người hiểu lòng nhau mà không cần phải nói thành lời.
Chiến cuộc ngày càng khốc liệt hơn, đời Nguyễn rồi cũng sẽ như những chiếc thuyền vô định trên biển cả mênh mông kia.
Những năm đại học thật vất vả, Nguyễn vừa phải lo kiếm sống vừa phải vùi đầu vào đống sách vở cao ngất ngưởng.
Rồi vụ thảm sát Tết Mậu Thân xảy ra, thời hạn hoãn dịch vì học vấn không còn hiệu lực nữa. Nguyễn cầm Lệnh Gọi Nhập Ngũ mà lòng bâng khuâng khôn tả. Những ngày tháng mơ mộng của tuổi cắp sách đến trường đã chấm dứt. Cuộc đời Nguyễn đi vào một ngõ rẽ, đầy chông gai, và tương lai thì rất mịt mờ.
Nguyễn đã 23 tuổi và có đúng một tháng để gói ghém tuổi học trò cất vào ngăn tủ khóa lại kỹ càng trước khi bước vào quân ngũ.
Nguyễn trở lại Tuy Hòa thăm Nội và từ giã Uyên. Em vừa xong trung học đệ nhất cấp, chuẩn bị lên đệ tam (lớp 10). Uyên đã biết e lệ khi đi bên Nguyễn, con mắt to đen láy có bóng Nguyễn trong đó. Con đường đi lên đồi cát dẫn đến dòng sông tuổi nhỏ, Uyên và Nguyễn đã đi qua biết bao nhiêu lần, nhưng lần này thật mới, xa lạ, ngập ngừng, e thẹn. Nắng sớm mai trải dài trên những đồi cát, chỗ sáng chỗ mờ, tạo thành những đợt sóng cát vô tận, như những đợt sóng ngầm trong lòng hai đứa.
Đôi khi Uyên và Nguyễn ra ngồi ngoài bãi biển yên lặng nhìn mông lung về phía chân trời, mắt dõi theo những chiếc thuyền lững lờ trôi về nơi xa xăm. Sự tin yêu và thông cảm đã khiến hai người hiểu lòng nhau mà không cần phải nói thành lời.
Chiến cuộc ngày càng khốc liệt hơn, đời Nguyễn rồi cũng sẽ như những chiếc thuyền vô định trên biển cả mênh mông kia.
Những năm đại học thật vất vả, Nguyễn vừa phải lo kiếm sống vừa phải vùi đầu vào đống sách vở cao ngất ngưởng.
Rồi vụ thảm sát Tết Mậu Thân xảy ra, thời hạn hoãn dịch vì học vấn không còn hiệu lực nữa. Nguyễn cầm Lệnh Gọi Nhập Ngũ mà lòng bâng khuâng khôn tả. Những ngày tháng mơ mộng của tuổi cắp sách đến trường đã chấm dứt. Cuộc đời Nguyễn đi vào một ngõ rẽ, đầy chông gai, và tương lai thì rất mịt mờ.
Nguyễn đã 23 tuổi và có đúng một tháng để gói ghém tuổi học trò cất vào ngăn tủ khóa lại kỹ càng trước khi bước vào quân ngũ.
Nguyễn trở lại Tuy Hòa thăm Nội và từ giã Uyên. Em vừa xong trung học đệ nhất cấp, chuẩn bị lên đệ tam (lớp 10). Uyên đã biết e lệ khi đi bên Nguyễn, con mắt to đen láy có bóng Nguyễn trong đó. Con đường đi lên đồi cát dẫn đến dòng sông tuổi nhỏ, Uyên và Nguyễn đã đi qua biết bao nhiêu lần, nhưng lần này thật mới, xa lạ, ngập ngừng, e thẹn. Nắng sớm mai trải dài trên những đồi cát, chỗ sáng chỗ mờ, tạo thành những đợt sóng cát vô tận, như những đợt sóng ngầm trong lòng hai đứa.
Uyên và Nguyễn ngồi bên nhau, bên bờ sông dưới hàng
keo rậm rạp, nhìn cặp kỳ nhông đầy màu sắc rượt đuổi nhau trên bãi cát.
- Anh Hai kỳ ghê hà, sao nhìn em hoài dzậy?
- Anh Hai kỳ ghê hà, sao nhìn em hoài dzậy?
- Anh muốn mang bé đi mãi mãi trong tim anh, dù có phiêu bạt tận chân trời góc
biển nào đi nữa.
- Thôi hổng chịu đâu, anh Hai ở lại đây dzới em.
- Hổng được đâu, người ta nhốt anh trong tù thì sao?
- Em sẽ biến thành con muỗi, chui vô thăm anh mỗi ngày, chịu hông?
- Hổng chịu, muỗi chích đau lắm.
- Thôi làm con kiến dzậy, hổng được, con bươm bướm chịu hông?
- Chịu, người ta đưa anh lên rừng thì sao bướm bay cho nổi?
- Em sẽ hóa thành con chim bay theo anh.
- Người ta thảy anh xuống biển thì sao?
- Thôi hổng chịu đâu, anh Hai ở lại đây dzới em.
- Hổng được đâu, người ta nhốt anh trong tù thì sao?
- Em sẽ biến thành con muỗi, chui vô thăm anh mỗi ngày, chịu hông?
- Hổng chịu, muỗi chích đau lắm.
- Thôi làm con kiến dzậy, hổng được, con bươm bướm chịu hông?
- Chịu, người ta đưa anh lên rừng thì sao bướm bay cho nổi?
- Em sẽ hóa thành con chim bay theo anh.
- Người ta thảy anh xuống biển thì sao?
- Em sẽ hóa thành con cá lội theo anh. Thôi em hổng chơi dzới anh nữa đâu, tối
ngày đòi đi này nọ, hổng chịu ở đây dzới em.
Em thật ngây thơ, chuyện đời đâu phải cứ muốn là được. Nguyễn cũng như chiếc lá lênh đênh trên dòng sông dưới kia, trôi hoài trôi mãi, cố vẫy vùng cũng không thoát khỏi số phận.
Rồi cũng đến lúc Nguyễn phải ra đi. Bước lên con tàu, nhìn Uyên ở lại sân ga, trong bộ quần jean áo trắng Nguyễn mới cho em, hai vạt áo chemise cột chéo vào nhau, dáng thật trẻ trung, đang sụt sùi lau nước mắt. Tiếng còi tàu thét lên, tim Nguyễn như vỡ ra từng mảnh, con tàu từ từ lăn bánh.
Em ở lại ôm ấp mối tình ngây thơ, còn Nguyễn ra đi mang theo hình bóng em trên con đường vô định.
Những năm tháng miệt mài với chiến trận, Nguyễn theo đoàn quân mũ nâu, lội khắp các tỉnh miền Trung rồi lên cao nguyên Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Phú Bổn, Phú Túc, Đức lập, Dakto, Ben Het, Quốc lộ 14, nhiều lắm kể sao cho hết. Nguyễn đi đến đâu cũng mang theo bé Uyên trong tim. Em như thiên thần hộ mệnh, giúp Nguyễn vượt qua bao gian nan, nguy hiểm, cho đến ngày Ban Mê Thuột thất thủ, Nguyễn trở thành tù binh.
Em thật ngây thơ, chuyện đời đâu phải cứ muốn là được. Nguyễn cũng như chiếc lá lênh đênh trên dòng sông dưới kia, trôi hoài trôi mãi, cố vẫy vùng cũng không thoát khỏi số phận.
Rồi cũng đến lúc Nguyễn phải ra đi. Bước lên con tàu, nhìn Uyên ở lại sân ga, trong bộ quần jean áo trắng Nguyễn mới cho em, hai vạt áo chemise cột chéo vào nhau, dáng thật trẻ trung, đang sụt sùi lau nước mắt. Tiếng còi tàu thét lên, tim Nguyễn như vỡ ra từng mảnh, con tàu từ từ lăn bánh.
Em ở lại ôm ấp mối tình ngây thơ, còn Nguyễn ra đi mang theo hình bóng em trên con đường vô định.
Những năm tháng miệt mài với chiến trận, Nguyễn theo đoàn quân mũ nâu, lội khắp các tỉnh miền Trung rồi lên cao nguyên Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Phú Bổn, Phú Túc, Đức lập, Dakto, Ben Het, Quốc lộ 14, nhiều lắm kể sao cho hết. Nguyễn đi đến đâu cũng mang theo bé Uyên trong tim. Em như thiên thần hộ mệnh, giúp Nguyễn vượt qua bao gian nan, nguy hiểm, cho đến ngày Ban Mê Thuột thất thủ, Nguyễn trở thành tù binh.
Những năm tháng tù đầy hình ảnh em luôn ở bên cạnh Nguyễn,
có lúc là con muỗi, đậu ngoan ngoãn trên cánh tay Nguyễn, có lúc là con chim hót
líu lo trên cành cây giúp Nguyễn quên đi những bó cây rừng nặng nề trên vai. Có
lúc Nguyễn thẫn thờ thấy em là con bướm đang chập chờn trước mặt, cười cợt, khiến
lòng Nguyễn quên đi bao nhiêu phiền não lo âu. Vâng, em đã giữ đúng lời hứa
theo Nguyễn từng bước chân lưu lạc tù đầy. Nguyễn gọi tên em khe khẽ trong cơn
sốt rét rừng lạnh run người, rồi nóng bỏng. Nguyễn thấy em mặc áo trắng toát,
đuôi áo xòe ra tận chân trời. Nguyễn cầm tay em đi bên dòng sông tuổi nhỏ, những
con kỳ nhông sặc sỡ bu đến bên em, rồi tất cả bay lên khỏi từng mây trong bầu
trời nắng chan hòa, có những đàn chim chiền chiện nâng áo em như thể đang trong
ngày cưới, ở một vùng trời thênh thang, xa hẳn cõi trần thế khổ đau.
Rồi Nguyễn cũng được thả ra khỏi trại tù cải tạo của cộng sản. Qua bao khó khăn, trở ngại tìm đường trở lại Tuy Hòa, Nguyễn đau đớn thấy thành phố đã xa lạ, tan tác.
Chú Ba với gánh cơm gà siu siu đã phiêu bạt nơi nào. Nội Nguyễn đã qua đời, cô Nguyễn đã có chồng vẫn còn trong trại tù nào đó tận đâu ngoài Bắc. Căn nhà Uyên ở nay đã thuộc về người khác, có lẽ là cán bộ từ miền Bắc vào. Em ở đâu, gia đình Nguyễn lưu lạc phương nào Nguyễn chẳng biết. Đúng là cảnh nước mất nhà tan. Thành phố nay đã thay đổi, chẳng nhìn thấy một nụ cười, phố xá xơ xác điêu tàn.
Nguyễn tìm về dòng sông tuổi nhỏ, nơi Nguyễn và em đã từng đến để sưởi ấm tâm hồn. Những con chim chiền chiện vẫn còn đó, những hàng cây keo cao ngất vẫn còn đây, những con kỳ nhông vẫn vô tư đuổi nhau trên bãi cát. Nguyễn tự hỏi đã có bao nhiêu thế hệ chiền chiện bay ở đây? Bao nhiêu lần lá keo thay đổi, nhưng dòng sông thời thơ ấu vẫn còn y nguyên, như tấm lòng của Nguyễn đối với Uyên. Nước vẫn lững lờ trôi êm đềm, mang theo cả tuổi thơ của hai đứa Nguyễn đi mất. Nguyễn muốn khóc, cho em, cho Nguyễn, cho tất cả những người Việt Nam điêu linh, khốn khổ vì chiến tranh, vì hận thù. Nước mắt Nguyễn đã cạn khô từ những ngày trong lao tù tủi nhục. Linh hồn Nguyễn đã bay khỏi địa ngục trần gian, để lại một thân xác còm cõi, bơ vơ, rã rời.
Nguyễn thấy mình cô đơn hơn bao giờ hết, hơn cả những ngày còn rất bé bỏng, trong một làng quê hẻo lánh bên bờ sông quê nội, thuộc “vùng Tề".
Trong biến cố di tản miền Trung thời 75, Ba Mẹ Nguyễn may mắn thoát được về Saigon yên ổn, ở chung nhà Bà Cô. Nguyễn đoàn tụ với gia đình sau khi ra tù.
Từng bước chân, từng cánh tay cử động cũng có những con mắt theo dõi. Trong nhà phải nói chuyện thì thầm với nhau tưởng như trong vách kia có cả trăm lỗ tai đang nghe ngóng. Những bữa ăn vội vã, một mắt nhìn vào bàn ăn còn mắt kia phải canh chừng ngoài cửa, công an khu vực có thể vào nhà bất cứ lúc nào, đi từ trước ra sau không cần hỏi han một tiếng. Nguyễn chưa từng tưởng tượng ra được có một ngày mình phải ở trong một hoàn cảnh tương tự và cũng chưa từng đọc được trong sách vở có một thiên đường hạnh phúc như vậy trên thế gian này.
Nguyễn không thể sống trên quê hương giữa những người cùng máu mủ đồng bào mà lòng đầy hận thù chia rẽ. Cuộc sống thật sự không có ngày mai cho những người bị gọi là “Ngụy”.
Sau hai lần vượt biên thất bại, cuối cùng Nguyễn cũng đến được Pulau Bidong Mã Lai trên con tàu mỏng manh, cùng với mấy chục con ma đói rách rưới, hôi hám, bẩn thỉu, không còn đủ sức lết ra khỏi thuyền.
Rồi Nguyễn cũng được thả ra khỏi trại tù cải tạo của cộng sản. Qua bao khó khăn, trở ngại tìm đường trở lại Tuy Hòa, Nguyễn đau đớn thấy thành phố đã xa lạ, tan tác.
Chú Ba với gánh cơm gà siu siu đã phiêu bạt nơi nào. Nội Nguyễn đã qua đời, cô Nguyễn đã có chồng vẫn còn trong trại tù nào đó tận đâu ngoài Bắc. Căn nhà Uyên ở nay đã thuộc về người khác, có lẽ là cán bộ từ miền Bắc vào. Em ở đâu, gia đình Nguyễn lưu lạc phương nào Nguyễn chẳng biết. Đúng là cảnh nước mất nhà tan. Thành phố nay đã thay đổi, chẳng nhìn thấy một nụ cười, phố xá xơ xác điêu tàn.
Nguyễn tìm về dòng sông tuổi nhỏ, nơi Nguyễn và em đã từng đến để sưởi ấm tâm hồn. Những con chim chiền chiện vẫn còn đó, những hàng cây keo cao ngất vẫn còn đây, những con kỳ nhông vẫn vô tư đuổi nhau trên bãi cát. Nguyễn tự hỏi đã có bao nhiêu thế hệ chiền chiện bay ở đây? Bao nhiêu lần lá keo thay đổi, nhưng dòng sông thời thơ ấu vẫn còn y nguyên, như tấm lòng của Nguyễn đối với Uyên. Nước vẫn lững lờ trôi êm đềm, mang theo cả tuổi thơ của hai đứa Nguyễn đi mất. Nguyễn muốn khóc, cho em, cho Nguyễn, cho tất cả những người Việt Nam điêu linh, khốn khổ vì chiến tranh, vì hận thù. Nước mắt Nguyễn đã cạn khô từ những ngày trong lao tù tủi nhục. Linh hồn Nguyễn đã bay khỏi địa ngục trần gian, để lại một thân xác còm cõi, bơ vơ, rã rời.
Nguyễn thấy mình cô đơn hơn bao giờ hết, hơn cả những ngày còn rất bé bỏng, trong một làng quê hẻo lánh bên bờ sông quê nội, thuộc “vùng Tề".
Trong biến cố di tản miền Trung thời 75, Ba Mẹ Nguyễn may mắn thoát được về Saigon yên ổn, ở chung nhà Bà Cô. Nguyễn đoàn tụ với gia đình sau khi ra tù.
Từng bước chân, từng cánh tay cử động cũng có những con mắt theo dõi. Trong nhà phải nói chuyện thì thầm với nhau tưởng như trong vách kia có cả trăm lỗ tai đang nghe ngóng. Những bữa ăn vội vã, một mắt nhìn vào bàn ăn còn mắt kia phải canh chừng ngoài cửa, công an khu vực có thể vào nhà bất cứ lúc nào, đi từ trước ra sau không cần hỏi han một tiếng. Nguyễn chưa từng tưởng tượng ra được có một ngày mình phải ở trong một hoàn cảnh tương tự và cũng chưa từng đọc được trong sách vở có một thiên đường hạnh phúc như vậy trên thế gian này.
Nguyễn không thể sống trên quê hương giữa những người cùng máu mủ đồng bào mà lòng đầy hận thù chia rẽ. Cuộc sống thật sự không có ngày mai cho những người bị gọi là “Ngụy”.
Sau hai lần vượt biên thất bại, cuối cùng Nguyễn cũng đến được Pulau Bidong Mã Lai trên con tàu mỏng manh, cùng với mấy chục con ma đói rách rưới, hôi hám, bẩn thỉu, không còn đủ sức lết ra khỏi thuyền.
Có những đêm không ngủ được, nhớ Uyên, nhớ Nội, nhớ
gia đình Ba Mẹ, bạn bè, chiến hữu đã từng cùng Nguyễn vào sanh ra tử, Nguyễn lần
lên đồi tôn giáo, cầu nguyện. Nhìn xuống đám nhà thuyền nhân dưới kia, những
cái được gọi là nhà đó chỉ là mấy nhánh cây rừng làm cột, lợp tôn mỏng, thùng
giấy hoặc lá dừa. Hàng chục ngàn con tim đang thổn thức trong đó, có những người
cố dỗ giấc ngủ như Nguyễn, có những người đang khóc thầm vì mất vợ, mất chồng,
mất con, mất cha mẹ, anh em. Có những người đang tự trách mình vì đã bỏ rơi bạn
bè, chiến hữu trong lúc thập tử nhất sinh. Họ đang cố gắng quên đi những tủi nhục
một đời, tù đày, ức hiếp, hăm dọa, đánh đập, chiếm đoạt tài sản, rồi bị săn đuổi
như một loài thú hoang, còn chịu nạn hải tặc, cưỡng hiếp... Ngoài biển mênh
mông kia, biết bao nhiêu oan hồn còn vất vưởng vì nỗi oan khiên chưa được giải,
chưa biết tỏ cùng ai, không thể mang xuống tuyền đài. Biết đâu trong đó có Uyên.
Tim Nguyễn quặn đau, nghẹt thở. Nguyễn cầu xin Trời Phật dù thế nào cũng dẫn em qua cầu khổ đau, Nguyễn khấn nguyện ơn trên hãy mở tay cứu giúp các linh hồn còn vất vưởng ngoài biển khơi được về cõi vĩnh hằng. Nguyễn miên man nghĩ từng giả thuyết về em, đã chết trên đường vượt biên ư? Không, không thể được, em là thiên thần có Chư Thiên phò hộ, không thể chết được. Cũng có thể em còn ở Việt Nam hay đã đến một trong những trại tỵ nạn nào đó, hoặc biết đâu, đã đến được bến bờ tự do. Nguyễn an ủi mình, có thể lắm chứ, em là Thiên Thần mà! Nguyễn bị dày vò với bao nhiêu giả thuyết, Nguyễn điên rồi.
Cơn điên cứ miên man như thế trong nhiều giấc mơ, theoNguyễn vượt qua biển Đông, về tận Tuy Hòa, leo qua những đồi cát bên dòng sông tuổi nhỏ. Nguyễn thấy Uyên và Nguyễn đang đùa giỡn bên nhau, rượt đuổi mấy con kỳ nhông, hay công kênh em trên vai để hái hoa keo hoặc vờ làm bẫy để bắt mấy con chim chiền chiện cho em. Nguyễn nghe tiếng em cười, tiếng em nhõng nhẽo đòi ăn kẹo bột. Nguyễn không còn nước mắt để khóc, nhưng nghe nghèn nghẹn trong tim rồi rơi vào giấc ngủ mê. Nguyễn thấy em đang chơi vơi giữa đại dương, hai tay dơ lên giữa những cơn sóng phủ đầu. Tiếng kêu cứu của em bị át bởi tiếng gầm gừ của đại dương: “Anh Hai, cứu em, cứu em, cứu em…” Nguyễn giật mình tỉnh dậy, mồ hôi vã ra như tắm, đầu hâm hấp nóng. Trời đã khuya, Nguyễn đọc kinh và thầm cầu nguyện cho em. Bầu trời trong vắt đầy sao, có lẽ em đã là một vì sao lấp lánh trên kia. Nguyễn lặng lẽ trở về căn chòi lá mà lòng đầy nghi vấn. Em đang ở đâu? Còn sống hay đã chết?
Tim Nguyễn quặn đau, nghẹt thở. Nguyễn cầu xin Trời Phật dù thế nào cũng dẫn em qua cầu khổ đau, Nguyễn khấn nguyện ơn trên hãy mở tay cứu giúp các linh hồn còn vất vưởng ngoài biển khơi được về cõi vĩnh hằng. Nguyễn miên man nghĩ từng giả thuyết về em, đã chết trên đường vượt biên ư? Không, không thể được, em là thiên thần có Chư Thiên phò hộ, không thể chết được. Cũng có thể em còn ở Việt Nam hay đã đến một trong những trại tỵ nạn nào đó, hoặc biết đâu, đã đến được bến bờ tự do. Nguyễn an ủi mình, có thể lắm chứ, em là Thiên Thần mà! Nguyễn bị dày vò với bao nhiêu giả thuyết, Nguyễn điên rồi.
Cơn điên cứ miên man như thế trong nhiều giấc mơ, theoNguyễn vượt qua biển Đông, về tận Tuy Hòa, leo qua những đồi cát bên dòng sông tuổi nhỏ. Nguyễn thấy Uyên và Nguyễn đang đùa giỡn bên nhau, rượt đuổi mấy con kỳ nhông, hay công kênh em trên vai để hái hoa keo hoặc vờ làm bẫy để bắt mấy con chim chiền chiện cho em. Nguyễn nghe tiếng em cười, tiếng em nhõng nhẽo đòi ăn kẹo bột. Nguyễn không còn nước mắt để khóc, nhưng nghe nghèn nghẹn trong tim rồi rơi vào giấc ngủ mê. Nguyễn thấy em đang chơi vơi giữa đại dương, hai tay dơ lên giữa những cơn sóng phủ đầu. Tiếng kêu cứu của em bị át bởi tiếng gầm gừ của đại dương: “Anh Hai, cứu em, cứu em, cứu em…” Nguyễn giật mình tỉnh dậy, mồ hôi vã ra như tắm, đầu hâm hấp nóng. Trời đã khuya, Nguyễn đọc kinh và thầm cầu nguyện cho em. Bầu trời trong vắt đầy sao, có lẽ em đã là một vì sao lấp lánh trên kia. Nguyễn lặng lẽ trở về căn chòi lá mà lòng đầy nghi vấn. Em đang ở đâu? Còn sống hay đã chết?
Đầu thập niên 80, Nguyễn đặt chân lên đất Mỹ, làm lại
cuộc đời từ con số không. Kể như vẫn còn may mắn. Đời Nguyễn luôn luôn gặp may
mắn, Nguyễn tin như vậy, cho nên Nguyễn vẫn để ý tìm Uyên khắp nơi. Đi dự họp mặt
của các hội đoàn đồng hương, cựu quân nhân, các hội cựu học sinh, sinh viên …
Nhiều năm qua đi. Ra trường rồi đi làm. Một hôm, theo người bạn cùng sở bay về Bắc California tham dự buổi họp mặt của một Hội Đồng Hương, Nguyễn đã gặp lại Uyên!
Nhiều năm qua đi. Ra trường rồi đi làm. Một hôm, theo người bạn cùng sở bay về Bắc California tham dự buổi họp mặt của một Hội Đồng Hương, Nguyễn đã gặp lại Uyên!
Uyên và Nguyễn ôm nhau giữa đám đông khóc mùi mẫn,
khóc thoải mái, khóc tự nhiên, khóc thật to không cần dấu diếm, che đậy.Trong
đám đông đồng hương này có biết bao nhiêu người cũng đã từng khóc như Uyên và Nguyễn.
Khóc để trôi đi bao điều còn giữ kỹ trong lòng, không nói ra được.
Khóc đã đời, Uyên và Nguyễn buông nhau ra. Nhìn mặt Uyên son phấn tèm lem như thời bé bỏng nghịch đất cát, Nguyễn bật cười. Em hỏi sao Nguyễn cười. Nguyễn nói: “Vui lắm vì đã tìm lại được tuổi thơ của chúng ta, báu vật đánh mất bao nhiêu năm trời”. Uyên muốn kể cho Nguyễn nghe những gian truân, gia đình tan nát, đổ vỡ, chết chóc, nhưng Nguyễn không muốn nghe. Nguyễn tìm thấy em là đủ rồi, những cái khác hãy quên đi, quên đi, quên đi…
Khóc đã đời, Uyên và Nguyễn buông nhau ra. Nhìn mặt Uyên son phấn tèm lem như thời bé bỏng nghịch đất cát, Nguyễn bật cười. Em hỏi sao Nguyễn cười. Nguyễn nói: “Vui lắm vì đã tìm lại được tuổi thơ của chúng ta, báu vật đánh mất bao nhiêu năm trời”. Uyên muốn kể cho Nguyễn nghe những gian truân, gia đình tan nát, đổ vỡ, chết chóc, nhưng Nguyễn không muốn nghe. Nguyễn tìm thấy em là đủ rồi, những cái khác hãy quên đi, quên đi, quên đi…
Tác giả Lê Nguyễn Hằng (áo dài vàng)
Đại hội CHSPY kỳ III tại Houston
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét