Thứ Bảy, 20 tháng 5, 2023

Thơ Lý Bạch Bài 75, 76, 77

 


BBT: NHHN nhận được thơ LÝ BẠCH- Bài 75, 76, 77 của thầy Dương Anh Sơn đã lâu, nhưng vì lý do kỹ thuật nên mãi hôm nay mới đăng được.

Thành thật xin lỗi thầy Dương Anh Sơn, quý Thầy Cô, Đồng Môn và Thân Hữu.

Xin chân thành cám ơn.

Trân trọng 
NHHN 

THƠ LÝ BẠCH

BÀI 75

CỔ PHONG KỲ TỨ THẬP TỨ                                               古風 期四十四

Lục la phân uy nhuy,                                                                  綠蘿紛葳蕤,
Liễu nhiễu tùng bách chi.                                                           繚繞松柏枝。
Thảo mộc hữu sở thác,                                                               草木有所托,
Tuế hàn thượng bất di.                                                               歲寒尚不移。
Nại hà yêu đào sắc,                                                                    奈何夭桃色,
Tọa thán phong phỉ thi.                                                              坐嘆葑菲詩。
Ngọc nhan diễm hồng thái,                                                        玉顏艷紅彩,
Vân phát phi tố ti.                                                                       雲髮非素絲。
Quân tử ân dĩ tất,                                                                        君子恩已畢,
10 Tiện thiếp tương hà vi.                                                          賤妾將何為。
Lý Bạch                                                                                     李白

Dịch nghĩa:

Cổ phong bài thứ bốn mươi tư.

Dây leo màu xanh thắm của cây uy nhuy tranh giành sự tươi tốt, - quấn vòng quanh cành tùng, nhành bách. - Cỏ cây có chỗ để nương nhờ, - Tháng năm lạnh lùng (trôi đi) vẫn không làm thay đổi! (c.1-4). Làm thế nào mà hoa đào lại mơn mởn xinh tươi như thế!? - Ngồi nâng rau phong, rau phỉ lên mà than thở: - Vẻ mặt ngọc ngà tươi đẹp hồng hào rực rỡ - với làn (tóc) mây bày lộ ra không phải là những sợi tơ trắng nõn! (c.5-8). - Ơn nghĩa của chàng (quân tử) đã xong hết cả rồi, - làm sao tiện thiếp nghỉ ngơi được?! (c.9-10)

Tạm chuyển lục bát:

CỔ PHONG BÀI THỨ BỐN MƯƠI TƯ.

Dây leo lấn cỏ tốt tươi,
Quấn cành tùng bách, rối bời buộc vây!
Nương nhờ có chỗ: cỏ cây!
Lạnh lùng năm tháng chẳng thay đổi nào!
Làm sao mơn mởn hoa đào?
Nâng rau phong phỉ dạt dào ngồi than:
Ngọc xinh hồng sáng dung nhan!
Tóc không tơ nõn phô làn mây trôi.
Ơn người quân tử xong xuôi,
Làm sao tiện thiếp nghỉ ngơi được nào!

Chú thích:

- la 蘿: một loài dây leo, một loại nấm, củ cải, dây bò trên cây, trên cỏ.....
- phân 紛: tranh giành, rối rắm, nhiễu loạn, phân hóa, tá lả, lộn xộn, ngổn ngang.....
- uy nhuy 葳蕤: dáng cây tươi tốt, còn gọi là cây ngọc trúc dùng làm
thuốc, hoa uy nhuy bên Trung Hoa....
- liễu nhiễu 葳蕤: cây bị cuốn vòng quanh, bao quanh, buộc, cuốn
lại, viền vải, sắp đặt......
- tuế hàn 歲寒: thời gian năm tháng lạnh lùng trôi đi, năm tháng lạnh
lẽo.....
- thượng bất di 尚不移: vẫn chưa, mà còn không thay đổi....
- yêu 夭: mơn mởn, xinh xắn, tươi đẹp, tươi tốt, tai họa, đào tơ mơn
mởn...
- phong phỉ 葑菲: rau phong, rau phỉ người dân quê thường hái để nấu ăn . Kinh Thi của Trung Hoa xưa có câu :Thái phong thái phỉ 采葑彩菲 (hái rau phong rau phỉ) ý nói mình chỉ là người quê mùa mộc mạc, chơn chất... Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du có câu: " Ngần ngừ nàng mới thưa rằng, thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong" (Truyện Kiều -c. 332). Băng tuyết nghĩa là nước đóng băng và tuyết sạch chỉ sự trong sạch, thanh đạm, giản dị cũng giống như hằng bao thứ rau phong, rau phỉ....
- thi 詩: thơ ca, thơ có vần, nâng lên, cầm lấy....
- diễm hồng thái 艷紅彩: vừa xinh đẹp lại hồng hào rạng rỡ...
- vân phát 雲 髮: có nghĩa là làn tóc mây của người phụ nữ...
- quân tử 君子: khái niệm về mẫu người có đức hạnh, biết cách cư xử sao cho phải đạo làm người (như biết sống theo ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí ,tín ) của nhà Nho xưa kia....; cũng có nghĩa là trượng phu, người bề trên luôn hành xử bao dung, rộng lượng. Ví dụ: ĐTTT (Truyện Kiều): "Tấm thân ngọc trắng gương trong, là nhờ quân tử khác lòng người ta" (c.3181,3182).
- tiện thiếp 賤妾: cách xưng hô khiêm nhường của người phụ nữ Trung Hoa xưa với chồng hay người bề trên...
- tương 將: sắp đến, sẽ, nghỉ ngơi, vừa mới, gần đây, tiễn đưa....
- hà vi 何為: sao làm như thế...

BÀI 76

CỔ PHONG KỲ TỨ THẬP LỤC                                              古風期四十六

Nhất bách tứ thập niên,                                                              一百四十年,
Quốc dung hà hách nhiên.                                                          國容何赫然。
Ẩn ẩn ngũ phượng lâu,                                                               隱隱五鳳樓,
Nga nga hoành tam xuyên.                                                         峨峨橫三川。
Vương hầu tượng tinh nguyệt,                                                   王侯象星月,
Tân khách như vân yên.                                                             賓客如雲煙。
Đấu kê kim cung lí,                                                                    鬥雞金宮裡,
Xúc cúc dao thai biên.                                                                蹴鞠瑤臺邊。
Cử động diêu bạch nhật,                                                            舉動搖白日,
Chỉ huy hồi thanh thiên.                                                            指揮回青天。
Đương đồ hà hấp hốt,                                                                 當涂何翕忽,
Thất lộ trường khí quyên.                                                          失路長棄捐.
Độc dựu dương chấp kích,                                                         獨有揚執戟,
14 Bế quan thảo Thái Huyền.                                                    閉關草太玄.
Lý Bạch                                                                                     李白

Dịch nghĩa:

Cổ phong bài thứ bốn mươi sáu.

Một trăm bốn mươi năm - bộ mặt của đất nước lẫy lừng, rực rỡ! - Tiếng ồn ào nơi năm lầu phượng - với dáng cao lớn nằm trải ngang ba con sông (c.1-4). Các vị vương hầu dáng vẻ như các vì sao, như vầng trăng!! - Những người khách đến nhà đẹp đẽ như khói mây. - Trường chọi gà nằm trong cung điện vàng ; trò chơi đá cầu nằm gần bên các lầu đài sang quý! (c.5-8). Đương lúc ban ngày, những động tác của việc chơi gây náo động. - Người điều khiển ngoảnh đầu lại với bầu trờixanh. - Người nắm quyền sao lại lơ là chểnh mảng (chỉ ham vui), hợp nhau khi chơi các trò chơi - làm mất đi đường lối, bỏ mặc chuyện làm những việc nghĩa lâu dài... (c.9-12) - Riêng mình vươn lên chọn việc đã chỉ ra: - đóng cửa lại để soạn thảo sách Thái Huyền thôi! (c.13-14).

Tạm chuyển lục bát:

CỔ PHONG BÀI THỨ BỐN MƯƠI SÁU.

Một trăm bốn chục năm ròng,
Rạng ngời đất nước hình dong lẫy lừng!
Năm lầu phượng đẹp tưng bừng,
Trải ngang sông chảy ba dòng núi cao!
Vương hầu dáng dấp trăng sao!!
Đẹp vời khách khứa giống nào khói mây!
Cung vàng gà đấu trong này,
Đá cầu sang quý ngay bên lầu đài.
Ồn ào, quấy động ban ngày,
Trời xanh ngoảnh lại, chỉ tay sai người!
Hợp nhau sao nhãng việc đời,
Bỏ đi việc nghĩa, mất toi đường dài!
Vươn lên riêng chỉ chọn bày,
"Thái Huyền" soạn sách then cài cửa thôi!

Chú thích:

- câu 1: “Nhất bách tứ thập niên": nhà Hán bên Trung Hoa thành lập do Hán Cao tổ 漢高祖 (202-195 TCN) hay còn gọi là Tây Hán lấy Trường An làm kinh đô, trải qua nhiều đời vua Hán cho đến khi bị Vương Mãng 王莽 tiếm ngôi lập nên nhà Tân 新朝 rồi bị Hán Quang Vũ đế niên hiệu Thế Tổ 世祖 tự là Quang Vũ hoàng đế (光武皇帝) (25-57 SCN) dẹp tan lập nên gọi là nhà Đông Hán đóng đô ở Lạc Dương trước sau là 140 năm. Đây là những thời kỳ được xem như huy hoàng ,thịnh vượng và là niềm tự hào cho người T.H khi xưng là người nhà Hán!
- quốc dung 國容: dung mạo, bề mặt một nước.
- hách nhiên 赫然: hiển hách, lừng lẫy, vang dội, rực rỡ, chói lọi, thịnh nộ, giận dữ...
- ẩn ẩn 隱隱: thịnh vượng, ồn ào, tưng bừng, náo nhiệt, nhiều, vẻ lo lắng không yên....

- nga nga 峨峨: dáng cao lớn, mạnh mẽ, tráng kiện, cao to nổi bật...
- tượng tinh nguyệt 象星月: dáng dấp, hình tượng oai nghiêm đẹp đẽ
như trăng sao...
- như vân yên 象星月: vân yên: mây khói chỉ sự đẹp đẽ lãng mạn hay cảnh đẹp thiên nhiên cũng như nơi ở của các ẩn sĩ. Đây nói đến các khách ra vào lầu đài mang vẻ đẹp đẽ, sang trọng...
- đấu kê 指揮: trò chọi gà, dùng gà đấu đá nhau để ăn tiền và mua vui. Bên T.H, thời Hán cũng như các thời đại về sau rất say mê trò chọi gà và đá cầu.Thời nhà Trần nước ta cách hơn ngàn năm sau đã chịu ảnh hưởng và ưa chuộng các trò chơi này nên Trần Hưng Đạo thời chốngquân xâm lược Nguyên Mông đã viết trong Hịch Tướng Sĩ ... “Hoặc đấu kê dĩ vi lạc” 或鬥雞以 為樂" (Dụ chư bì tướng hịch văn 諭諸裨將檄文) Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui. (Trần Quốc Tuấn 陳國峻).
- xúc cúc 蹴鞠: trò chơi đá bóng ngày xưa bên T.H. quả bóng hay quả
cầu thường làm bằng tre đan hay bện rơm (cúc). Còn "xúc" là đá, đuổi theo, lật bóng, bước rảo theo....
- dao thai 瑤臺: lầu đài có cẩn ngọc dao. Chỉ sự xa hoa, sang quý của
chốn ăn chơi các quý tộc thời các vua Hán.
- diêu 搖: quấy nhiễu, náo động, lay động, vẫy tay...
- chỉ huy 指揮: ra lệnh, sai khiến người dưới quyền, điều khiển, ra chỉ
thị...
- đương đồ 當涂: cầm nắm quyền hành trong nước hay trong phần việc của mình ,đứng giữa đường...
- hấp 翕: kéo nhau, hợp nhau vì cùng chuộng một loại hình nào đó..., tương xứng, đưa đẩy, dẫn kéo...
- hốt 忽: bỗng nhiên, bất chợt, lơ là, chểnh mảng, coi thường, quên
khuấy...
- thất lộ 失路: mất đi địa vị, đường lối cai trị, bỏ đi con đường...
- khí quyên 棄捐: bỏ quên, bỏ mặc chuyện làm việc nghĩa, vứt bỏ việc quyên góp làm việc thiện...
- dựu 有: âm của hữu là dựu có nghĩa là: lại, thêm.
- dương 揚: phô bày, khoe khoang, dơ lên, bày ra, khen ngợi, bay cao....
- chấp 執: kén chọn, cầm giữ, thi hành, bằng chứng...
- kích 戟: vũ khí ngày xưa có hình chĩa ba; chỉ trỏ vào một cái gì đó cụ thể cũng gọi là kích...
- Thái huyền 太玄: lẽ sâu xa, huyền bí của trời đất. Người viết sách có tên”Thái Huyền kinh” dựa trên Kinh Dịch là Dương Hùng. Dương
Hùng 揚雄 (53-18 SCN), tự Tử-vân 子 雲, là người Thành-đô, Thục-
quận, thời Tây-Hán. Theo “Gia-điệp”, ông sinh năm Cam Lộ nguyên
niên và mất vào Thiên Phụng ngũ niên. Thời Hán Thành đế, ông làm
chức Lang, cấp “Sự Hoàng môn”. Thời Vương Mãng, nhà Tân, ông giữ chức Đại trung Đại phu, Hiệu thư Thiên lộc các. Ông để thời giờ soạn thảo Thái Huyền Kinh 經 太玄”, mô phỏng Kinh Dịch để đề cao “Thái-Huyền”cao-thâm và huyền diệu .Nắm rõ Thái Huyền là nắm rõ sự biến hoá vạn sự, vạn vật trong vũ trụ và thế-giới loài người (nhiên giới vànhân giới). Thực tế, ông cũng chỉ làm công việc diễn giảng Kinh Dịch mà Lão Tử trong Đạo Đức Kinh đã thấu hiểu những nguyên lý sâu xa bên trong từ trước rồi .Ở đây Lý Bạch, một người rất chuộng sự khoáng đạt, gần gũi với thiên nhiên và cũng rất am tường Lão học vẫn mong muốn tìm hiểu sâu hơn ,thấu đáo hơn huyền nghĩa của vũ trụ, của con người... Sống với đạo và học đạo là hai vị trí còn cách biệt trừ khi sự hiểu biết và sự thực hành trong cuộc đời luôn cần đi đôi với nhau như tư tưởng "Tri hành hợp nhất"của Vương Dương Minh 王陽明 (1472-1528)...

BÀI 77

CỔ PHONG KỲ TỨ THẬP BÁT                                              古風期四十八

Tần hoàng án bảo kiếm,                                                             秦皇按寶劍,
Hách nộ chấn uy thần.                                                                赫怒震威神。
Trục nhật tuần hải hữu,                                                              逐日巡海右,
Khu thạch giá thương tân.                                                          驅石駕滄。
Chinh tốt không cửu ngụ,                                                          征卒空九寓,
Tác kiều thương vạn nhân.                                                         作橋傷萬人。
Đãn cầu Bồng Đảo dược,                                                           但求蓬島藥,
Khởi tư nông hỗ xuân.                                                               豈思農扈春。
Lực tận công bất thiệm,                                                             力盡功不贍,
Thiên tái vi bi tân.                                                                      千載為悲辛。
Lý Bạch                                                                                     李白

Dịch nghĩa:

Cổ phong bài thứ bốn mươi tám.

Vua nước Tần vỗ gươm quý, - mặt đỏ bừng nổi giận đùng đùng với bộ dạng oai phong vô cùng! - Lần lượt nhiều ngày,ông ta đi xem xét, tuần tra trên các vùng biển, - rong ruổi thúc ngựa với chiếc xe lớn ở bờ biển rộng. (c.1-4) - Rất nhiều người lính đi xa phần lớn không có chỗ để ở. - Ôngta cho làm cầu đã tổn hại muôn người! - Ông ta chỉ mong cầu xin thuốc tiên của cõi Bồng Lai - chứ đâu dám suy nghĩ việc trồng trọt sao cho mùa xuân tươi tốt. (c.5-8). – Công sức đã cạn nhưng kết quả chẳng là bao, - khiến cho ngàn năm phải chịu đau thương, cay đắng. (c.9-10).

Tạm chuyển lục bát:

CỔ PHONG BÀI THỨ BỐN MƯƠI TÁM.

Vỗ thanh kiếm quí: vua Tần,
Mặt bừng đỏ giận oai phong vô cùng!
Ngày ngày trên biển đi tuần,
Ven bờ thúc ngựa ruổi rong tơi bời.
Đi xa, lính chẳng chỗ ngơi!
Làm cầu tổn hại muôn người đớn đau.
Thuốc nơi Bồng Đảo tìm cầu,
Trồng cho xuân đẹp há đâu nghĩ nào!
Ra chi sức cạn chẳng sao!
Khiến cho cay đắng thương đau ngàn đời!

Chú thích:

- Tần Hoàng 秦皇: tức Tần Thủy Hoàng 秦始皇 (259 - 210 TCN), tên thật là Doanh Chính 嬴政, còn có tên khác là Triệu Chính 趙政, là vị vua thứ 36 của nước Tần ở Trung Quốc từ năm 246 đến 221 TCN trong thời kỳ Chiến Quốc mà các vua đều xưngvương. Ông trở thành người xưng danh hoàng đế sáng lập ra nhà Tần trong thời kỳ mới sau khi thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN sau thời Chiến Quốc khi tiêu diệt các nước chư hầu khác. Ông cai trị cho đến khi qua đời vào năm 210 TCN ở tuổi 49.Đây là một trong những ông vua được xem là bạo tàn nhất trong các triều đại Trung Hoa. Tần Thủy Hoàng theo kế sách "đốt sách, chôn Nho" và xây Vạn Lý Trường Thành từ Tây sang Đông ngăn sự quấy phá của quân Hung Nô của thừa tướng Lý Tư gây ra biết bao nỗi uất hận và đau thương cho dân chúng .Mặt trái của triều đại Tần Doanh Chính là để lại nhiều di tích lịch sử và văn hóa nổi tiếng như các di vật từ lăng mộ của Tần Doanh Chính cho đến Vạn Lý Trường Thành giờ được xem là những di sản văn hóa quan trọng của các nền văn minh thế giới. Đó là thành quả của công sức, mồ hôi hòa nước mắt và máu của biết bao người dân tương tự như Kim Tự Tháp của Ai Cập. v.v...
- hách nộ 赫怒: mặt đỏ bừng trong cơn giận dữ, thịnh nộ: nổi giận đùng đùng...
- chấn uy thần 震威神: oai quyền gây ra sự sợ hãi đáng sợ không phải tầm thường, quyền uy vô cùng...
- trục 逐: dần dà, lần lượt, bị đuổi đi, ruy đuổi, đuổi theo, cùng theo....
- hải hữu 海右: trên biển (hữu: bên phải, che chở, phương tây, bên
trên...)
- khu thạch giá 驅石駕: ruổi ngựa, thúc ngựa trên chiếc xe đóng ngựa cao to (khu: có bộ mã, chỉ sự rong ruổi, thúc dục cho ngựa chạy nhanh, chỉ huy, sai khiến, xua đuổi, lùa đi...; giá: đóng ngựa, trâu, bò vào xe , cầm lái, xe cộ, hầu vua...; thạch: đá cứng, to lớn, cứng cõi, vững vàng...)
- không cửu ngụ 空九寓: phần lớn không có nơi để ở hay nghỉ ngơi... ( cửu 九: số 9, đa số, phần nhiều, nhiều lần, phần lớn...)
- đãn cầu 但求: chỉ mong cầu, chỉ tìm kiếm...
- Bồng Đảo dược 蓬島藥: tức “Bồng Lai Đảo” 蓬萊島, một trong ba đảo ở biển Bột Hải 渤海 (đông bắc Trung Hoa ), theo truyền thuyết Trung Hoa là nơi có tiên ở cũng như nhiều loại thuốc quý giúp các thần tiên sống trường sinh .Tần Thủy Hoàng ham sống trên uy quyền lại có những tay đạo sĩ bày vẽ nên cho người ra Bột Hải tìm đảo Bồng Lai để mong có thần dược sống trường thọ đã gây ra nhiều hao phí và làm khổ binh lính đi tìm loại thuốc mơ hồ này....
- hỗ xuân 扈春: hỗ : loài chim báo hiệu bắt đầu mùa làm ruộng hay
trồng dâu. Đây chỉ việc trồng trọt vào mùa xuân cho cây cối tươi tốt.
- thiệm 贍: đầy đủ, dồi dào, nhiều, sung túc, cung cấp đầy đủ....
- vi 為: khiến cho, làm, trở thành, lập ra, rất là, đối với, là, mà...

(Lần đến, Thơ Lý Bạch: bài 78, 79 và 80)

Dương Anh Sơn 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét