Thứ Năm, 18 tháng 9, 2025

Thơ Của Đỗ Phủ - Bài 103, 104 Và 105

 


THƠ CỦA ĐỖ PHỦ - BÀI 103, 104 VÀ 105
Thầy Dướng Anh Sơn

THƠ CỦA ĐỖ PHỦ

Bài 103

MẠN THÀNH NHẤT THỦ                                                      漫成㇐首

Giang nguyệt khứ nhân chỉ sổ xích,                                           江月去人只數尺,
Phong đăng chiếu dạ dục tam canh.                                           風燈照夜欲三更。
Sa đầu túc lộ liên quyền tĩnh,                                                     沙頭宿鷺聯拳靜,
Thuyền vĩ khiêu ngư bát lạt minh.                                             船尾跳魚撥剌鳴。
(năm 766)

Dịch nghĩa:

Vầng trăng trên dòng sông (cách) người đi chỉ vài thước, - Cây đèn gió muốn soi sáng đêm tối tới canh ba. – Nơi đầu bãi cát, đàn cò nhỏ bé nghỉ lại đêm kề bên nhau yên lặng, - Ở đuôi chiếc thuyền, nghe tiếng cá nhảy.

Tạm chuyển lục bát:

HỨNG TRÀN ĐẦY
HOÀN THÀNH BÀI THƠ ĐẦU.

Trăng sông vài thước bên người,
Canh ba đèn muốn chiếu ngời trời đêm.
Kề nhau nghỉ bãi cò yên,
Những con cá nhảy đuôi thuyền vang kêu.

Chú thích:

- khứ nhân chỉ sổ xích 去人只數尺: người đi chỉ vài thước (cách vầng trăng đang soi sáng trên sông).
- phong đăng 風燈: cây đèn dầu được che chắn để có thể chịu được gió bão nên người ta vẫn gọi là cây đèn bão hay đèn gió...
- chiếu dạ dục tam canh 照夜欲三更 : soi sáng đêm tối mong muốn cho đến canh ba...
- lộ liên quyền 鷺聯拳: đàn cò (lộ) nhỏ bé (quyền) nằm kề nối nhau (liên)...
- khiêu ngư 跳魚: cá nhảy hay quẫy bắn lên.
- bát lạt 撥剌: chỉ việc cá nhảy lên khỏi mặt nước (tương tự nghĩa của “khiêu ngư”)...

Bài 104

MẠN THÀNH NHỊ THỦ                                                          漫成二首
(KỲ NHẤT)                                                                               (其一) (*)

Dã nhật hoang hoang bạch,                                                        野日荒荒白,
Xuân lưu mẫn mẫn thanh.                                                          春流泯泯清。
Chử bồ tuỳ địa hữu,                                                                    渚蒲隨地有,
Thôn kính trục môn thành.                                                         村徑逐門成。
Chỉ tác phi y quán,                                                                     只作披衣慣,
Thường tòng lộc tửu sinh.                                                          常從漉酒生。
Nhãn tiền vô tục vật,                                                                  眼前無俗物,
Đa bệnh dã thân khinh.                                                              多病也身輕。
(năm 761)

Dịch nghĩa:

Ánh nắng (nhật) ngoài cánh đồng (dã) hoang vắng trải ra mênh mông, trống trải, - Dòng nước mùa xuân trôi đi mãi lặng lẽ và trong lắng – Cây lác nơi bến sông thuận theo (loại) đất mà có. – Đường đi của thôn xóm theo những cửa ngõ mà thành. (c.1-4)
Chỉ làm chuyện khép hờ chiếc áo theo thói quen, - Thường sinh ra khi uống cạn hết rượu! – Trước mắt, không có vật nào là thô tục! – Lắm bệnh nên cái thân xem nhẹ nhàng!

Tạm chuyển lục bát:

HỨNG TRÀN ĐẦY
HOÀN THÀNH HAI BÀI THƠ (BÀI MỘT).

Mặt trời hoang vắng cánh đồng,
Trôi hoài lặng lẽ, dòng xuân trong vời!
Lác sinh theo bãi đất bồi,
Đường thôn theo ngõ nhà thôi mà thành!
Thói quen hở toạc áo phanh!
Cạn xong chén rươu thường sinh thế này!
Nhìn không thô lậu các loài,
Bệnh nhiều xem tấm thân đây nhẹ nhàng!

Chú thích:

** Hai bài thơ này được Đỗ Phủ làm khi đang ở Thành Đô trong một mái nhà tranh nhỏ ở vùng ngoại ô, tỉnh Tứ Xuyên ở giai đoạn cuối đời (761-768) với thân thể suy yếu, nhà cửa nghèo nàn, triều chính rối ren khiến một người “ưu thời mẫn thế” như Đỗ Phủ phải sống trong tâm trạng bất an,lo nghĩ nhều - mạn thành 漫成: tràn đầy (sự hứng thú) hoàn thành (bài thơ)...
- nhị thủ 二首: nhất thủ hay nhị thủ dùng để nói”bài thơ” đầu tiên hay tiếp nữa đã làm xong...
- dã nhật 野日: ánh mặt trời nơi chốn thôn quê , ngày nơi cánh đồng ngoài thành...
- hoang hoang bạch 荒荒白: trong văn cổ chữ “hoang hoang” chỉ cảnh thưa vắng, mênh mông và trống trải (bạch) của cánh đồng quê...
- mẫn mẫn 泯泯: dòng nước trong trẻo chảy mãi kéo dài sự lặng lẽ ...
- chử 渚 : bãi bồi ven sông,bến nước ,bãi sông nhỏ....
- bồ 蒲: cây lác thường mọc ven bờ con sông hay bãi bồi có đất cát hay phù sa thường dùng để đan chiếu...
- tùy đia hữu 隨地有: tùy theo thế đất hay thổ nhưỡng thích hợp mới có giống lác mọc...
- thôn kính 村徑: đường nhỏ để đi trong xóm thôn.
- lộc tửu 漉酒: uống cạn hết ly rượu, rượu thô mới lọc, lọc rượu thô cho sạch....
- vô tục vật 無俗物: không có vật nào là thô lậu, tầm thường...

Bài 105 (A)

MẠN THÀNH NHỊ THỦ                                                          漫成二首
(KỲ NHỊ)                                                                                   (其二) (*)

Giang cao dĩ trọng xuân,                                                            江皋已仲春,
Hoa hạ phục thanh thần.                                                             花下復清晨。
Ngưỡng diện tham khan điểu,                                                    仰面貪 看鳥,
Hồi đầu thác ứng nhân.                                                              回頭錯應人。
Độc thư nan tự quá,                                                                    讀書難字過,
Đối tửu mãn hồ tần.                                                                   對酒滿壼頻。
Cận thức Nga My lão,                                                                近識峨眉老,
Tri dư lãn thị chân.                                                                     知予懶是真。

Dịch nghĩa:

Bãi đất bên sông đã vào giữa mùa xuân, - Sáng sớm, trở lại dưới khóm hoa. – Ngẩng mặt lên ,ưa thích nhìn chim, - Quay đầu lại, lỡ đáp lời nhầm người! (c.1-4)
Đọc sách bỏ qua những chữ khó!, - Trước chén rượu, luôn uống đầy bình. - Gần đây có biết ông lão ở núi Nga Mi, - Hiểu ta lười biếng quả đúng như thế! (C.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

HỨNG TRÀN ĐẦY
HOÀN THÀNH HAI BÀI THƠ (BÀI HAI).(*)

Bãi sông ở giữa mùa xuân,
Sớm mai trở lại dưới tàn hoa cao.
Nhìn chim, ngẩng mặt thích sao!
Nhầm người lỡ đáp, đầu quay lại rồi!
Sách xem chữ khó bỏ thôi!
Bình đầy rượu uống vẫn coi là thường.
Nga Mi mới biết lão ông,
Hiểu ta lười biếng quả không sai nào!

Chú thích:

- giang cao 江皋: bãi bồi bên bờ sông, bến bờ bên sông, vùng đất cao giáp sông...
- dĩ trọng xuân 已仲春: đã vào giữa mùa xuân...
- phục thanh thần 復清晨: trở lại (đây) lúc ban mai sớm, lúc sáng sớm...
- ngưỡng diện tham 仰面貪: ngẩng mặt lên hứng thú hay thích chí (tham)...
- thác ứng nhân 錯應人: lỡ, nhầm lẫn (thác) trả lời, đối đáp (ứng) với người...
- nan tự quá 難字過: bỏ qua những chữ nghĩa khó hiểu...
- mãn hồ tần 滿壼頻: bình đầy tràn (mãn hồ) thường luôn (tần)...
- cận thức 近識: gần đây biết đến...
- Nga Mi lão 峨眉老: Núi Nga Mi ở huyện Nga Mi Sơn, Tứ Xuyên, Trung Hoa cách Thành Đô là nơi Đỗ Phủ đang ở khoảng 150 km. Vùng núi Nga Mi là nơi có nhiều đạo sĩ, nhiều tăng sĩ và ẩn sĩ chọn làm nơi tu tập và lánh đời. Lão ông trong bài thơ có thể là một đạo sĩ tu luyện lâu năm ở Nga Mi...
- tri dư 知予: hiểu biết về ta (dư)...
- lãn thị chân 懶是真: quả đúng (thị chân) là kẻ lười biếng (lãn)...

Bài 105 (B)

MẠN THÀNH NHỊ THỦ                                                          漫成二首
(KỲ NHỊ)                                                                                   (其二) (**)

Giang cao dĩ cảm phong,                                                           江高已感風,
Nhật hạ cánh thương xuân.                                                        日下更傷春。
Nhất biệt thập niên sự,                                                               ㇐別十年事,
Tam đồ vạn lý nhân.                                                                   三途萬里人。
Tri dư lãn thị chân,                                                                     知予懶是真,
Hoài cổ không đa lệ.                                                                  懷古空多淚。
Lân lý tựa đa vi,                                                                         鄰里似多違,
Lão phu duy bệnh thân.                                                              老夫唯病身。

Dịch nghĩa:

Nước sông dâng cao, gió thổi gây ra chứng bệnh cảm, - Mặt trời dần xuống lại thêm thương tiếc mùa xuân! – Một lần từ biệt đã trải qua mười năm rồi! – Có người phải đi muôn dặm trên ba nẻo đường! (c.1-4)
Biết ta quả thật là lười biếng! – Nhớ thương việc xưa cũ chỉ uổng phí
nhiều nước mắt. – Xóm giềng tựa như xa cách, - Chỉ có ông già với tấm thân bệnh tật. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

HỨNG TRÀN ĐẦY
HOÀN THÀNH HAI BÀI THƠ (BÀI HAI) (**)

Nước cao lại cảm gió rồi,
Thương thêm xuân lúc mặt trời đã buông.
Mười năm ly biệt một lần!
Người đi muôn dặm dần ba nẻo đường.
Biết ta lười biếng đúng luôn!
Uổng nhiều nước mắt, nhớ thương cũ càng.
Xóm giềng như đã cách ngăn,
Chỉ còn bệnh tật tấm thân ông già!

Chú thích:

** Đây là bài thơ thứ hai được cho là của Đỗ Phủ cùng tựa đề với bài trên nhưng nội dung cho thấy rõ về tâm tư của Đỗ Phủ 杜甫 (712-770 lúc làm bài thơ này ở những năm cuối đời (767-768). Nội dung bài thơ cho thấy sức khỏe ông kém dần nên dễ bị “cảm phong” và “duy bệnh thân”( chỉ có tấm thân bệnh tật). Đồng thời bài thơ cũng cho thấy nỗi lòng thương tiếc mùa xuân đi qua, tuổi già lại đến thêm tấm thân lắm bệnh! “Đỗ Thiếu Lăng 杜少陵” hay” Thiếu Lăng dã lão 少陵野老” đã bồi hồi ngẫm nghĩ về những năm tháng gian truân khắp “ba nẻo đường” hơn mười năm trường! Ông đổ lệ tự trách mình “lười nhác’ hay rộng ra là bất lực trước đổi thay khi nhìn thời cuộc và nhớ thương thời xưa kia trong cảnh phải ly biệt quê nhà, anh em... v.v... biết bao năm dài. Và hai câu cuối cũng cho thấy rõ ông không còn ai gần gũi để tỏ nỗi niềm ,hàng xóm thì xa cách và phải đối diện với tấm thân già yếu bệnh tât và cô quạnh của chính mình...
- giang cao 江高: trong bài thơ từ một nguồn khác [xem (**) bên dưới], bài thơ “Mạn thành” thứ hai (nhị thủ) của Đỗ Phủ theo nguồn này lại dùng từ “cao 高” theo nghĩa lên cao, dâng cao, trên cao... Đây là nước sông dâng cao khác với bài bên trên lại dùng từ “cao 皋” theo nghĩa là bãi sông (giang cao 江皋), bãi bồi hay là bến sông... v.v... Những bài thơ còn lại của Đỗ Phủ hơn ngàn bài lại bị thất lạc nên chưa dám xác nhận đâu là nguồn thơ đáng tin cậy. Việc tìm hiểu này chắc chắn nhiều bộ phận nghiên cứu của chính người Trung Hoa đã dần dà xác minh trong thư khố của họ [Toàn Đường Thi 全唐, quyển 225, Đỗ Phủ Toàn Tập 杜甫全集... v.v...]
- cảm phong 感風: thời tiết thay đổi hay gió máy gây nên chứng cảm mạo...
- nhật hạ 日下: mặt trời xuống, trời dần tối. Nghĩa khác là “mỗi ngày” ( Trong bài thơ “Thân giang đề bích 申江題壁 “ của Thu Cẩn 秋瑾 có câu: “Giang hà nhật hạ thế tình phi 江河日下世情非 “ nghĩa là :nước sông mỗi ngày lại xuống,tình đời cũng khác đi)
- cánh thương xuân 更傷春: lại thêm (cánh) thương tiếc mùa xuân (đi qua). Đỗ Phủ tiếc thương mùa xuân đi qua tựa như con người của mình đang về già. Nỗi niềm này thường có ở những người có tuổi và nhất là với Đỗ Phủ phải bỏ lại tuổi xuân để dấn thân trong ly loạn, chia lìa và cực nhọc cho đến khi từ giã cuộc đời!
- tam đồ 三途: chữ này vốn được dùng trong ngôn ngữ nhà Phật đề cập ba con đường ác (tam ác đạo 三惡道) của sáu con đường luân hồi gồm: 1/Địa ngục (chỉ nơi phải gánh chịu sự đau khổ vì gay nghiệp ác). 2/ Ngạ quỷ (chịu làm quỷ đói khát ở địa ngục).3/ Súc sinh (bị hóa kiếp làm súc sinh do nghiệp quả gây ra). Đây là ba nẻo khổ đau nhất của thuyết luân hồi nằm trong sáu con đường luân hồi : Thiên – Nhân - A tu la - Súc sinh - Ngạ quỷ - Địa ngục. Riêng thơ văn Trung Hoa và trong bài này,Đỗ Phủ mượn chữ “tam đồ” để nói về thân phận lưu lạc phải đi xa “vạn lý” nhọc nhằn,sống trong cảnh bần hàn như kẻ bị đày đọa trôi dạt vào nơi khổ ải,gian khó cùng cực!
- câu 5: xem chú thích bài trên.
- lân lý tựa đa vi 鄰里似多違: làng xóm lân cận nhiều người tựa như kẻ xa lạ, cách ngăn (vi) không thân thiện lắm. Hoàn cảnh này của Đỗ Phủ lúc về già, sống khổ cực và cô quạnh, thiếu vắng những người có thể giao tiếp hay bạn tâm giao để chia sẻ nỗi niềm
----------------------------------
(*) .Bài 105 (A) lấy từ nguồn của <thivien.net>
(*) . Bài 105(B) lấy từ <Wikisource>,Thiếu Lăng Toàn Tập 杜甫全集

(Lần đến: THƠ CỦA ĐỖ PHỦ - Bài 106, 107 và 108 )
Dương Anh Sơn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét