Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2025

Thơ Lý Bạch - Bài 127, 128 Và 129

 


THƠ CỦA LÝ BẠCH - BÀI 127, 128 VÀ 129
Thầy Dương Anh Sơn

Bài 127

VƯƠNG CHIÊU QUÂN                                                           王昭君

(KỲ NHẤT)                                                                               ( 期㇐)

Hán gia Tần địa nguyệt,                                                            漢家秦地月,

Lưu ảnh chiếu Minh Phi.                                                           流影照明妃。

Nhất thướng Ngọc Quan đạo,                                                    ㇐上玉關道,

Thiên nhai khứ bất quy.                                                             天涯去不歸。

Hán nguyệt hoàn tòng Đông Hải xuất,                                       漢月還從東海出,

Minh Phi tây giá vô lai nhật.                                                      明妃西嫁無來日。

Yên Chi trường hàn tuyết tác hoa,                                             燕支長寒雪作花,

Nga mi tiều tuỵ một Hồ sa.                                                        蛾眉憔悴沒胡沙。

Sinh phạp hoàng kim uổng đồ hoạ,                                            生乏黃金枉圖畫,

Tử lưu thanh trủng sử nhân ta!                                                   死留青冢使人嗟。

Dịch nghĩa:

Vầng trăng đất Tần với triều đại nhà Hán, - Vẫn còn lưu giữ bức ảnhchiếu soi Minh Phi. – Một lần lên đường hướng về ải Ngọc Quan, - Chân trời ra đi không trở lại. – Trăng Hán theo trở về hiện ra ở biển Đông (c.1-4)

Minh Phi gả chồng phía tây không có ngày trở lại! – Đất Yên Chi luôn giá lạnh,tuyết làm nên những bông hoa . – Mày ngài(của Chiêu Quân) tàn úa mai một nơi vùng sa mạc đất Hồ! (c.5-8)

Cuộc đời thiếu vàng nên bức vẽ (chân dung nàng) bị vẽ cho xấu đi! – Chết rồi còn giữ lại nấm mồ xanh khiến người (đời) thương xót! (c.9-10)

Tạm chuyển lục bát:


VƯƠNG CHIÊU QUÂN (BÀI MỘT)


Vầng trăng nhà Hán đất Tần,

Minh Phi hình bóng vẫn còn chiếu soi.

Ngọc Quan đường đến một nơi,

Đi không về lại cuối trời chân mây!

Biển Đông trăng Hán hiện bày,

Gả tây về chẳng có ngày – Minh Phi!

Lạnh hoài hoa tuyết Yên Chi,

Cát Hồ vùi lấp phai đi mày ngài,

Thiếu vàng, họa vẽ oan sai,

Mồ xanh khi mất khiến ai than sầu!


Chú thích:

- Vương Chiêu Quân 王昭君: tên thật là Vương Tường 王嬙 ,tự là Chiêu Quân,còn gọi là Minh Phi 明妃 hay là Minh Quân 明君 người làng Tỷ Quy, huyện Nam Quận 南郡 (nay là vùng Quỳ Châu và huyện Hưng Sơn, tỉnh Hồ Bắc, Trung Hoa). Chiêu Quân là một trong bốn người được cho là xinh đẹp (Tứ đại mỹ nhân)nhất bên Trung Hoa trong đó có Tây Thi, Điêu Thuyền và Dương Quý Phi. Theo “Hậu Hán Thư” và “Tây Kinh tạp ký 西京雜記”, Chiêu Quân xuất thân làm cung nhân trong triều của Hán Nguyên Đế từ năm 15 tuổi. Do trong cung cấm của vua Hán có rất nhiều cung nhân, cung nữ nên việc giới thiệu người đẹp đến với vua phải qua sự lựa chọn bằng cách nhờ các họa sĩ vẽ chân dung để trình lên cho vua xem. Vốn là người rất xinh đẹp lại có tài đàn hát, soạn nhạc, làm thơ... v.v... nhưng vì thiếu vàng bạc đút lót nên họa sĩ Mao Diên Thọ 毛延壽 đã vẽ chân dung Chiêu Quân cho xấu hơn. Vì thế, Chiêu Quân không có cơ hội tiến thân để hầu vua.

Nàng sống lặng lẽ trong cung không được vua để ý nên sinh lòng oán hận.Trước đây, quân Hung Nô thường xuyên quấy phá biên giới phía tây của nhà Hán. Năm 33 TCN, thiền vu (vua) của Hung Nô là Hô Hàn Tà 呼韓邪 đến kinh đô Trường An của nhà Hán để xin thần phục và triều cống. Sau nghi lễ ngoại giao, Hàn Tà ngõ ý muốn làm con rể của vua Hán. Vua ban cho năm cung nhân loại bậc thường lấy từ trong các bản vẽ chân dung các họa sĩ dâng lên.Đến ngày đi về Hung Nô ,nàng lên bái kiến vua Hán và vua không ngờ Chiêu Quân lại là một gương mặt “cá lặn chim sa”(trầm ngư lạc nhạn 沉魚落 雁), nhưng vì lời hứa và lại liên quan đến vận mạng chính trị của đất nước đành để nàng theo thiền vu Hung Nô về bên trời tây làm vợ Hô Hàn Tà xưng hiệu là Ninh Hồ Yên Chi 寧胡阏氏 (nghĩa là: yên ổn người Hồ) cùng với các Yên Chi (vợ vua Hung Nô) khác nữa. Nói khác đi, nàng là mối giao hảo cho hòa bình giữa người Hung Nô và người Hán cũng như là nhịp cầu chính trị khéo léo tránh giao tranh loạn lạc cho cả hai nước. Trên đường đi về nơi sa mạc xa xăm và bình nguyên của người Hồ (cách gọi của người Hán đối với người Hung Nô) nàng sầu oán buồn bã và đã soạn ca khúc “Xuất tái khúc 出塞曲”với cây đàn tỳ bà mang theo và làm nhiều bài thơ trong đó có bài “Chiêu Quân oán 昭君怨” có ghi trong “Nhạc phủ thi tập”. Năm 20 TCN, Hô Hàn Tà mất, theo tục lệ nàng phải lấy con trai của Hàn Tà (con của bà vợ khác) là Phục Chu Luy sinh được hai gái. Sách “Thông điển” đời nhà Đường có nói rằng Chiêu Quân mất ở bên quê chồng, được chôn ở phía nam sông Đại Hắc (nay thuộc Nội Mông của Mông Cổ là vùng đất Mông Cổ bị Trung Hoa chiếm giữ).Nơi chôn cất nàng quanh năm cây cỏ xanh tốt nên được gọi là “thanh trủng 青塚” (nấm mồ xanh).Riêng Mao Diên Thọ cùng nhiều họa sĩ khác đã bị Hán Nguyên Đế đem ra xử chém vì tội nhận đút lót vẽ sai gương mặt thật của các cung nhân ,cung nữ .Nhất là vua vẫn tiếc cho Vương Chiêu Quân với sắc đẹp “chim sa cá lặn” phải dấn thân làm vợ người nước ngoài oan uổng .Câu chuyện Chiêu Quân ra vùng biên tái (Chiêu Quân xuất tái 昭君出塞) đã là đề tài cho nhiều nhà thơ về sau có thể thấy trong thơ của Lý Bạch ,Đỗ Phủ, Nguyễn Du (Đ.T.T.T.: “Quá quan này khúc Chiêu Quân,Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia” (c.479-480)...v..v...

- Tần địa 秦地: là vùng đất cũ của nước Tần trước kia thời Chiến Quốc bên Trung Hoa nằm trong vùng Quan Trung với kinh đô Trường An. Về sau, nhà Hán đánh bại nhiều nước và nhà Tần,làm chủ thiên hạ vẫn lấy Trường An làm kinh đô.

- Ngọc Quan 玉關: thường được nói đến trong thơ ca xưa của Trung Hoa nhất là thời Hán và Đường. Đó là cửa ải phía tây biên giới có tên đầy đủ là Ngọc Môn Quan và kề bên là Dương Quan là hai cửa ải trọng yếu ở vùng Hà Tây (nay thuộc vùng Cam Túc, Đôn Hoàng) Cửa ngõ này có con đường từ Trường An đi về phía tây ra sa mạc Gobi sang đến Tây Vực (Trung Á). Nó là hình ảnh và biểu tượng cho nỗi ly biệt và lòng thương nhớ quê nhà. Các nhà thơ Trung Hoa như Lý Bạch 李白 (bài: Tái hạ khúc còn gọi là Xuất tái hành 出塞行), Vương Xương Linh 王昌齡 (với bài Xuất tái 出塞), Vương Chi Hoán 王之涣.

(bài Lương Châu Từ 涼州詞 ), Cao Thích 高適 (bài: Yên Ca Hành 燕歌行) v.v... thường nói đến Ngọc Môn Quan trong thơ của mình. Đồng thời, chữ “tái” hay biên tái, biên giới đều chỉ vùng biên cương xa xôi gợi không khi bi thương hùng dũng của những người ra đi giữ ảỉ ...


Bài 128


VƯƠNG CHIÊU QUÂN (KỲ NHỊ)                                          王昭君 (期二)

Chiêu Quân phất ngọc an,                                                          昭君拂玉鞍,

Thượng mã đề hồng giáp.                                                          上馬啼紅頰。

Kim nhật Hán cung nhân,                                                          今日漢宮人,

Minh triêu Hồ địa thiếp.                                                             明朝胡地妾。


Dịch nghĩa:

Chiêu Quân phủi bụi chiếc yên ngựa (khảm) ngọc, - Lên ngựa, (đôi) má hồng kêu khóc đẫm lệ . – Hôm nay là cung nữ nhà Hán, - Sáng mai sớm đã là người làm thiếp đất người Hồ!


Tạm chuyển lục bát:


VƯƠNG CHIÊU QUÂN (BÀI HAI).


Chiêu Quân yên ngọc phủi lau,

Má hồng lên ngựa dàu dàu lệ tuôn.

Hôm nay triều Hán cung nhân,

Sớm mai làm thiếp xa xăm đất Hồ.


Chú thích:

- phất ngọc an 拂玉鞍: phủi bụi, lau chùi (phất) chiếc yên ngựa (an/yên) có khảm ngọc...

- đề 啼: kêu lên, kêu khóc thành tiếng, tiếng chim hót...

- hồng giáp 紅頰: má hồng, má thoa phấn hồng, gò má sắc hồng tự nhiên... v.v...

- cung nhân 宮人: hay còn gọi là cung nữ là những người làm nhiều việc trong cung để phục vụ vua chúa hay hoàng hậu, phi tần....

- Hồ địa 胡地: đất của người Hồ hay người Hung Nô nằm sát biên giới phía tây của Trung Hoa. Họ thường mang quân sanh quấy phá vùng biên giới nên người Trung Hoa khinh rẻ gọi là “rợ Hồ” hay “Hồ nhung” là những từ của nước lớn coi khinh nước nhỏ còn hoang dã, nếp sống chưa văn minh... v.v... Đồng thời, xứ Hồ cũng đồng nghĩa là nơi hoang mạc xa xăm phía trời tây... (hồ: đất của người Hồ, sao thế, người có yếm (thịt dư) nơi cổ, làm càn bậy ,nói năng hồ đồ, không rõ ràng, xa xôi cách trở... v.v...


Bài 129

BẠCH ĐẦU NGÂM                                                                  白頭吟

Cẩm thuỷ đông bắc lưu,                                                             錦水東北流,

Ba đãng song uyên ương                                                            波蕩雙鴛鴦。

Hùng sào Hán cung thụ,                                                             雄巢漢宮樹,

Thư lộng Tần thảo phương.                                                       雌弄秦草芳。

Ninh đồng vạn tử toái ỷ dực,                                                      寧同萬死碎綺翼,

Bất nhẫn vân gian lưỡng phân trương.                                       不忍雲間兩分張。

Thử thì A Kiều, chính Kiều đố,                                                  此時阿嬌正嬌妒,

Độc toạ Trường Môn sầu nhật mộ.                                            獨坐長門愁日暮。

Đãn nguyện quân ân cố thiếp thâm,                                           但愿君恩顧妾深,

Khởi tích hoàng kim mãi từ phú.                                               豈惜黃金買詞賦。

Tương Như tác phú đắc hoàng kim,                                           相如作賦得黃金,

Trượng phu hiếu tân đa dị tâm.                                                  丈夫好新多異心。

Nhất triêu tương sính Mậu Lăng nữ,                                          ㇐朝將聘茂陵女,

Văn Quân nhân tặng “Bạch đầu ngâm”.                                    文君因贈白頭吟。

Đông lưu bất tác tây quy thuỷ,                                                   東流不作西歸水,

Lạc hoa từ điều tu cố lâm.                                                          落花辭條羞故林。

Thố ty cố vô tình,                                                                       兔絲固無情,

Tuỳ phong nhiệm khuynh đảo.                                                  隨風任傾倒。

Thuỳ sử nữ la chi,                                                                      誰使女蘿枝,

Nhi lai cưỡng oanh bão.                                                             而來強縈抱。

Lưỡng thảo do nhất tâm,                                                            兩草猶㇐心,

Nhân tâm bất như thảo.                                                              人心不如草。

Mạc quyển long tu tịch,                                                             莫卷龍須席,

Tòng tha sinh võng ty.                                                                從他生網絲。

Thả lưu hổ phách chẩm,                                                             且留琥珀枕,

Hoặc hữu mộng lai thì.                                                               或有夢來時。

Phúc thuỷ tái thu khởi mãn bôi,                                                 覆水再收豈滿杯,

Khí thiếp dĩ khứ nan trùng hồi.                                                  棄妾已去難重回。

Cổ lai đắc ý bất tương phụ,                                                        古來得意不相負,

Chỉ kim duy kiến Thanh Lăng đài.                                            只今惟見青陵臺。


Dịch nghĩa :

Dòng sông (như) gấm đẹp xuôi chảy về phía đông bắc, - Sóng nước lay động bởi đôi chim uyên ương. – Con trống đậu trên cây nơi cung Hán, - Con mái đùa giỡn với cỏ Tần ngát hương! (c.1-4)

Sống yên ổn hay vạn lần chết tan nát, cánh chim vẫn cùng nhau! – Không cam chịu chia lìa lứa đôi khép lại trong đám mây! – Thuở ấy, chính A Kiều ghen tuông, - Ngồi buồn sầu một mình ở Trường Môn lúc trời sắp tối. (c.5-8)

Chỉ ước mong ơn vua nhìn lại thiếp sâu đậm hơn! – Há đâu tiếc nuối tiền tài vàng bạc mua được lời văn hay thơ phú? – Tương Như làm phú được vàng bạc tiền tài, - Người đàn ông ham chuộng cái mới (nên) lòng đã đổi khác! (c.9-12)

Một buổi sáng mai sớm, sửa soạn cưới cô gái Mậu Lăng, - Văn Quân nhân đó tặng khúc ngâm “Bạch đầu ngâm”. – Dòng nước đã chảy về hướng đông không làm sao quay về phía tây! – Hoa rời cành thẹn thùng với rừng cũ. (c.13-16)

Cỏ thố ty lẽ nào đã vô tình! – Theo cơn gió để mặc cho nghiêng ngã. – Ai khiến cho dây leo của loài cỏ nữ la, - Lại mạnh dạn đến ôm ấp xoay quanh (thân cây)?. (c.17-20)

Hai loài cỏ do bởi một tấm lòng, - Lòng người không như cây cỏ! – Chớ cuốn chiếc chiếu râu rồng! – Theo kẻ khác sinh sống chốn lưới tơ giăng mắc! (c.21-24)

Hãy nên giữ lại chiếc gối màu hổ phách, - Có khi giấc mộng sẽ đến. – Nước đã đổ đi làm sao thâu lại cho đầy chén?! - Đã bỏ thiếp ra đi khó quay về trở lại! (c.25-28)

Từ xưa đến nay,được như lòng mình không làm trái ngược cùng nhau. - Nay chỉ thấy đài Thanh Lăng. (c.29-30)


Tạm chuyển lục bát:


KHÚC NGÂM ĐẦU BẠC.


Cẩm Giang đông bắc nước trôi,

Uyên ương sóng đẩy lứa đôi theo cùng.

Tổ chim trống ở Hán cung,

Cỏ thơm, chim mái tung tăng đất Tần!

Cánh tan, cùng chết muôn lần!

Chẳng cam chia tách đôi đàng giữa mây.

A Kiều thuở ấy ghen thay!

Trường Môn chiếc bóng buồn ngày tàn phai.

Ơn vua mong sẽ đoái hoài,

Há đâu vàng tiếc mua bài phú thơ!

* * *

Phú làm, vàng được – Tương Như.

Đàn ông ham mới sẽ ưa thay lòng!

Một mai lấy gái Mậu Lăng,

“Khúc ngâm đầu bạc”, Văn Quân tặng bài.

Nước về đông chẳng lui tây,

Rừng xưa hoa rụng lìa cây thẹn mình!

Thố ti, vốn chẳng có tình!

Mặc cho cơn gió ngã nghiêng theo cùng.

Nữ la, ai khiến cành buông!

Chứ đâu quấn quít ôm luôn quanh vòng!

Hai loài cỏ ấy một lòng,

Lòng người sao chẳng giống lòng cỏ cây!

Râu rồng chớ cuốn chiếu bày!

Theo người khác để giăng đầy tơ thôi!

Gối màu hổ phách còn nơi,

Có chăng lúc giấc mộng vời đến đây.

Làm sao nước đổ chén đầy?

Đã lìa bỏ thiếp, khó quay lại nào!

Xưa nay ý chẳng trái nhau,

Thanh Lăng chỉ thấy đài cao bây giờ!


Chú thích:


** Đây là một bài thơ của Lý Bạch cùng nhan đề với bài thơ “Bạch đầu ngâm “ của Trác Văn Quân đề cập đến hai mối tình dang dở và trắc trở:

-1/- là mối tình trong cung cấm của nàng Trần A Kiều 陳阿嬌, người vợ đầu của Hán Vũ Đế bên Trung Hoa, từng được nhà vua yêu thương, quý trọng nhưng về sau bị thất sủng, bị giam ở cung Trường Môn 長門宮. A Kiều là hình tượng những phi tần, cung nữ xinh đẹp trong cung cấm từng được sủng ái sau bị phụ bạc... Tương truyền nhờ bài thơ “Trường Môn Phú 長門賦” do Tư Mã Tương Như làm cho A Kiều , thay A Kiều bày tỏ (phú: là loại thơ thường dùng để bày tỏ tâm trạng, nỗi niềm...v.v....) nỗi lòng của nàng nên Hán Vũ Đế cũng đoái hoài, thương yêu nàng trở lại!

-2/- là mối tình của đôi tài tử giai nhân giữa nàng Trác Văn Quân 卓文君 và Tư Mã Tương Như 司馬相如 cũng trắc trở khi lòng dạ Tương Như thay đổi. Bằng tài thơ phú, đàn hát, Tương Như đã quyến rủ được Văn Quân bỏ nhà theo mình . Về sau, Tương Như có ý rời bỏ Văn Quân , muốn lấy thêm một cô gái ở Mậu Lăng làm thiếp. Văn Quân đã làm bài thơ “Bạch đầu ngâm” để nói lên tình ý cùng nỗi bất bình với chồng là Tương Như.Nhưng nhờ một bài thơ khác nữa đã khiến cho Tương Như hồi tâm ,quay về với Văn Quân ở chốn Thành Đô. Mối tình này khác với mối tình trong cung cấm ở chỗ luôn đề cao tự do luyến ái, bất chấp lễ giáo ràng buộc. Tìm đến nhau qua thơ văn và tiếng đàn cuốn hút từng có lúc mặn nồng nhưng cũng có khi trắc trở vì tình phụ nhưng nhờ tấm lòng biết nghĩ về nhau nên những trắc trở cũng được hóa giải.....

- Bạch đầu ngâm 白頭吟: Tên bài thơ của nàng Văn Quân làm để bày tỏ tình cảm của mình khi Tư Mã Tương Như muốn lấy thêm nàng thiếp quê ở Mậu Lăng.

- Cẩm Thủy 錦水: tức Cẩm Giang ,một dòng sông ở vùng đất Thục, tỉnh Tứ Xuyên bên Trung Hoa.

- ba đãng 波蕩: con sóng nhỏ (ba) lay động đong đưa (đãng)... [đãng: đong đưa, lay động, chèo thuyền, làm sạch, mênh mông khoáng đãng, thảnh thơi, bình dị, hỏng hết... v.v...]

- uyên ương 鴛鴦: loài chim sống vùng sông nước dáng như con vịt.Chim đực được gọi là “uyên 鴛” trên cổ có lông màu trắng và dài, cánh rộng và có hoa văn đẹp. Chim cái gọi là “ương 鴦” lông không có hoa văn, màu xấu hơn. Loài vịt trời này còn được gọi là “thất cầm 匹禽”

- hùng 雄, thư 雌: hùng chỉ con chim trống, còn thư chỉ con chim cái...

- ninh đồng 寧同: thà cùng nhau... (ninh: thà, nên, há nào, lẽ nào, yên ổn...)

- toái ỷ dực 碎綺翼: cánh chim (dực) có hoa văn đẹp đẽ (ỷ) vùi dập, làm cho tan nát (toái)...

- bất nhẫn 不忍: không cam chịu, không chịu được...

- lưỡng phân trương 兩分張: chia tách (phân) và thay đổi lớn lao (trương) hai đàng....

- đãn nguyện 但愿: chỉ mong ước...

- cố thiếp thâm 顧妾深: ngoảnh lại, đoái hoài đến tình cảm sâu đậm của thiếp (thiếp: cách xưng hô của người phụ nữ đối với chồng hay vua trên... v.v...)

- khởi tích 豈惜: há đâu (khởi: há đâu, sau lại, hãy....) lại tiếc nuối (tích)...

- hoàng kim mãi từ phú 黃金買詞賦: lấy vàng bạc, vật quý giá để mua thơ văn hay bài phú... Ở đây, nhờ tài làm thơ và chơi đàn giỏi, Tư Mã Tương Như đã “đắc hoàng kim” tức là lấy được nàng Văn Quân con nhà giàu lại giỏi giang như “hoàng kim’ quý giá...

- Tương Như 相如 và Văn Quân 文君: là một câu chuyện, một giai thoại về tình yêu nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học Trung Hoa thường được sử dụng trongthi ca và kịch nghệ. Trác Văn Quân 卓文君 là con gái của một gia đình giàu có ở Thành Đô vùng đất Thục (nay là Tứ Xuyên bên Trung Hoa). Nàng là một góa phụ trẻ đẹp và giỏi chơi đàn cầm cũng như thành thạo việc làm thơ. Còn Tư Mã Tương Như 司馬相如 là một văn nhân có tài năng và nổi tiếng xuất thân từ hạng nghèo khó, không có địa vị trong xã hội. Trong thời Hán Vũ Đế, Tư Mã Tương Như đến Thành Đô sinh sống làm bạn với các các nhà thơ đương thời. Một hôm, Tương Như được mời dự tiệc ở nhà ông Trác Vương Tôn là cha của nàng Trác Văn Quân. Trong buổi tiệc, ông đã cầm đàn chơi bài “Phượng cầu hoàng” một khúc hát dùng để tỏ tình nam nữ, âm điệu tha thiết dễ gây cảm xúc... Nghe tiếng đàn, Trác Văn Quân động lòng vừa cảm phục tài năng của Tương Như ,vừa bị thâu hút bởi khúc đàn nhiều tình cảm đậm đà, tha thiết. Đêm tiệc ấy, Văn Quân đã bỏ nhà trốn theo Tương Như. Cả hai sinh sống bằng vào việc mở một quán rượu nhỏ ở Thành Đô và bằng tình yêu giản dị nhưng nồng ấm của họ. Về sau, cha của Văn Quân cũng do thương con và cảm động mối tình của hai người nên tha thứ và chu cấp tiền bạc. Nhờ vào văn tài, Tương Như dần dà nổi tiếng và được tiến cử vào triều đình, có được địa vị vững vàng. Nhưng khi có chút địa vị, Tương Như lại muốn có thêm người thiếp quê ở Mậu Lăng. Nghe tin, Văn Quân đã làm bài “Bạch đầu ngâm 白頭吟” để bày tỏ nỗi buồn sầu và nhắc chồng về tình chung thủy với lời hẹn cùng nhau gắn bó đến lúc bạc đầu! Văn Quân đã viết trong bài thơ “Bạch Đầu Ngâm’ của nàng:

...... 願得㇐心人,

白頭不相離。....

(卓文君)

(... Nguyện đắc nhất tâm nhân,

Bạch đầu bất tương ly....)

(Trác Văn Quân)

Nghiã là: Mong sao được người có một lòng ,một dạ (không đổi thay, cho đến khi đầu bạc không chia lìa)

Câu chuyện của đôi giai nhân tài tử này tuy vượt qua vòng lễ giáo nhưng cũng cho thấy nỗi khát khao tình yêu tự do, yêu nhau chân thành và tìm đến với nhau. Đồng thời cũng đề cao và kêu gọi tình yêu thủy chung của đôi lứa,tình nghĩa vợ chồng một khi đã gắn bó dài lâu. Mặt khác, câu chuyện này cùng khúc đàn “Phượng cầu hoàng 鳳求凰” (Con chim phượng trống đi tìm con chim phượng mái) và bài thơ “Bạch đầu ngâm 白頭吟” đã là nguồn cảm hứng cho nhiều thơ văn và kịch nghệ Trung Hoa xưa nay. Ngoài bài thơ này, Văn Quân cũng còn lại một số bài thơ được rất nhiều thi sĩ Trung Hoa ưa chuộng như: “Oán lang thi 怨郎詩 “ (Thơ trách chồng) và “Quyết biệt thi 訣別書” (Thư chia tay)...

- tương sính 將聘: sắp sửa hỏi để cưới...

- Mậu Lăng 茂陵: là quần thể lăng mộ của Hán Vũ Đế nằm phía bắc kinh đô Trường An, ở vùng trung lưu sông Vị 渭河 (nay thuộc huyện Hưng Bình,cách Tây An 40 km, Thiểm Tây, Trung Hoa). Chung quanh lăng mộ có nhiều mộ của các công thần, hoàng hậu, cung phi... v.v... tạo nên một quần thể lăng mộ nên còn gọi là Mậu Lăng Ấp 茂陵邑.Cô gái mà Tư Mã Tương Như muốn lấy làm vợ lẽ ở gần vùng này.

- từ điều tu cố lâm 辭條羞故林: chia lìa(từ) với cành cây nhỏ (điều), thẹn (tu) với khu rừng cũ...

- thố ti 兔絲: (có khi viết là 鴇絲), còn gọi là dây tơ hồng là một loài dây leo ký sinh quấn quýt ,ôm vòng cây khác để sống chỉ mối tình gắn bó khó có thể chia lìa...

- cố vô tình 固無情: lẽ nào không có tình cảm...

- nhiệm 任: để mặc cho, gánh vác, trách nhiệm, mặc kệ, mặc sức...

- khuynh đảo 傾倒: làm cho đảo lộn, nghiêng ngả...

- nữ la 女蘿: một loại dây leo mềm bám vào các thân cây lớn lâu năm,còn gọi là

dây “trường xuân” hay “thường xuân” Thơ văn Trung Hoa thường dùng hình ảnh dây leo “thố ti” hay “nữ la” đi đôi với nhau để chỉ sự gắn bó ,quấn quýt của tình cảm nam nữ...

- nhi 而: nếu đặt đầu câu nó có nghĩa như chữ “khởi 豈” : chứ đâu ,nào phải..v..v..;

nếu nằm giữa câu nó là câu nối như: và, rồi, với, cho tới, mà còn, liền, đến, cho tới, mày, ngươi, tôi ta... v.v...

- cưỡng oanh bão bão 強縈抱: gượng gạo(cưỡng) ôm ấp (bão) bao quanh(oanh)...

- tòng tha 從他: theo kẻ khác...

- võng ti 網絲: võng lưới bằng tơ giăng mắc.

- hổ phách 琥珀: loại nhựa lấy từ cây tùng, cây bách lâu năm hóa đá thành màu vàng trong suốt, óng ánh...

- khí thiếp dĩ khứ 棄妾已去: bỏ thiếp để ra đi.

- bất tương phụ 不相負: không làm trái ngược nhau...

- Thanh Lăng đài 青陵臺: tên một đài cao nơi Hà thị, vợ của Hàn Bằng là người đứng ra xây dựng đài này. Rồi chồng mất sớm do bởi Tống Khang Vương giết chết để cướp Hà thị.Nàng Hà thị chịu tang chồng xong đã nhảy xuống đài tự vẫn giữ tròn sự chung thủy... Nói đến Thanh Lăng đài để nhắc nhủ tình yêu thủy chung của đôi lứa...

(Lần đến: THƠ CỦA LÝ BẠCH – bài 130,131 và 132)

Dương Anh Sơn



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét