Bài 107
TẶNG LÔ TƯ HỘ 贈盧司戶
Thu sắc vô viễn cận, 秋色 無遠近,
Xuất môn tận hàn sơn. 出門盡寒山。
Bạch vân dao tương thức, 白雲遙相識,
Đãi ngã Thương Ngô gian. 待我蒼梧間。
Tá vấn Lô đam hạc, 借問盧躭鶴,
Tây phi kỷ tuế hoàn? 西飛幾歲還?
Dịch nghĩa:
Màu sắc của mùa thu chẳng xa, chẳng gần! – Ra cửa hết thảy núi non rất là lạnh lẽo. – Mây trắng xa xôi là bạn bè cùng nhau, - Đợi ta ở khoảng giữa Thương Ngô. – Xin hỏi con chim hạc họ Lô còn mê mải, - Bay về hướng tây hẹn năm nào sẽ trở lại đây? (c.1-6)
Tạm chuyển lục bát:
TẶNG ÔNG LÔ TƯ HỘ.
Sắc thu chẳng phải gần xa!
Núi non ra cửa rất là lạnh căm.
Bạn bè – mây trắng xa xăm,
Đợi ta khoảng giữa nhằm miền Thương Ngô.
Mải mê! Hỏi hạc họ Lô!
Trời tây bay lại bao giờ năm nao?!
Chú thích:
- Lô Tư Hộ 盧司戶: người bạn thân của Lý Bạch, không rõ về nhân vật này trong bài thơ. Riêng Tư hội có lẽ là chức quan nhỏ chuyên quản lý những hộ dân một vùng nhỏ. (tư: chức quan nhỏ coi một bộ phận hành chánh, kho lẫm, giáo dục... v.v... thời xưa bên Trung Hoa)
- thu sắc 秋色: cảnh sắc mùa thu, dáng vẻ mùa thu với nhiều thay đổi ở các vùng rõ rệt có bốn mùa.
- vô viễn cận 無遠近: trời thu không gần cũng chẳng xa. Đó là những hình ảnh về mùa thu bàng bạc không chỉ ở Trung Hoa mà còn đậm nét trong ba bài thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến (Thu Diếu, Thu Ẩm, Thu Vịnh) ở nước ta.... Cách cảm nhận sắc thu của Lý Bạch rất tinh tế và sâu sắc...
- tận 盡: hết thảy, tất cả, đều là, không còn, hết sức, rất, rất là...
- dao (diêu) 遙: xa xôi, rất xa, dài...
- tương thức 相識: cùng hiểu biết về nhau, cùng quen biết nhau, bạn bè tri kỷ....
- Thương Ngô 蒼梧: vùng đất Ninh Viễn, Hồ Nam, Trung Hoa. Đây là nơi có chín ngọn núi kề nhau gọi là Cửu nghi, có mồ chôn vua Thuấn, một vị vua thời xa xưa rất anh minh được người Trung Hoa tôn sùng....
- đạm hạc 躭鶴: con chim hạc mê say, mê mải hay đắm đuối rong chơi....
- kỷ tuế 幾歲: cách hỏi: năm nào. Có bản ghi là “kỷ thời 幾時” (thời nào, lúc nào)
Bài 108
KÝ ĐÔNG LỖ NHỊ TRĨ TỬ 寄東魯二稚子
Ngô địa tang diệp lục, 吳地桑葉綠,
Ngô tàm dĩ tam miên. 吳蠶已三眠。
Ngã gia ký Đông Lỗ, 我家寄東魯,
Thuỳ chủng Quy Âm điền? 誰種龜陰田?
Xuân sự dĩ bất cập, 春事已不及,
Giang hành phục mang nhiên. 江行復茫然。
Nam phong xuy quy tâm, 南風吹歸心,
Phi đoạ tửu lâu tiền. 飛墮酒樓前。
Lâu đông nhất chu đào, 樓東㇐株桃,
Chi diệp phất thanh yên. 枝葉拂青煙。
Thử thụ ngã sở chủng, 此樹我所種,
Biệt lai hướng tam niên. 別來向三年。
Đào kim dữ lâu tề, 桃今與樓齊,
Ngã hành thượng vị toàn. 我行尚未旋。
Kiều nữ tự Bình Dương, 嬌女字平陽,
Chiết hoa ỷ đào biên. 折花倚桃邊。
Chiết hoa bất kiến ngã, 折花不見我,
Lệ há như lưu tuyền. 淚下如流泉。
Tiểu nhi danh Bá Cầm, 小兒名伯禽,
Dữ tỷ diệc tề quyên. 與姊亦齊娟 。
Song hành đào thụ hạ, 雙行桃樹下,
Phủ bối phục thuỳ niệm? 撫背復誰念?
Niệm thử thất thứ đệ, 念此失次第,
Can trường nhật ưu tiện. 肝腸日憂煎。
Liệt tố tả viễn ý, 裂素寫遠意,
Nhân chi Vấn Dương xuyên. 因之汶陽川。
Dịch nghĩa:
Đất Ngô lá cây dâu tằm xanh biếc, - Con tằm đã ngủ ba lượt. – Gửi vùng đất Đông Lỗ với căn nhà của ta, - Ruộng vườn ở Qui Âm ai sẽ trồng trọt đây? (c.1-4)
Công việc cho mùa xuân chẳng theo kịp!, - Đi trên sông, việc quay trở lại mờ mịt không biết ra sao. – Gió nam thổi đến, lòng mong muốn được quay về nhà, - (Gió) bay xuống trước lầu quán rượu. (c.5-8)
Lầu phía đông có một gốc đào, - Cành lá quét phẩy làn khói xanh. - Hạt giống cây này do ta trồng, - Cách xa (nó) đã gần ba năm rồi. (c.9-12)
Cây đào nay kịp cùng với lầu ngang nhau, - Ta vẫn còn đi chưa quay trở lại. – Nàng con gái xinh đẹp tên hiệu là Bình Dương, - Hái hoa tựa vào bên cây đào. (c.13-16)
Hái hoa không thấy ta, - Lệ rơi xuống như dòng suối chảy. – Cô gái nhỏ tên là Bá Cầm, - Cùng chị xinh xắn cũng ngang nhau. (c.17-20)
Đi đôi với nhau bên dưới cây đào, - Vuốt lưng an ủi, lại thương nhớ ai đây? – Nhớ thương này đã mất đi lần lượt các hạng bâc!, - Cõi lòng mỗi ngày như ngâm những buồn sầu. (c.21-24)
Xé lụa để chép những ý nghĩ xa xôi, - Nhân khi đi đến nơi có dòng sông Vấn Dương. (c.25-26)
Tạm chuyển thơ:
GỬI HAI CON THƠ Ở ĐÔNG LỖ.
Xanh vàng dâu đất Ngô,
Tằm Ngô ngủ lần ba.
Gửi Đông Lỗ nhà ta ,
Ruộng Qui Âm ai trồng?!
Vụ xuân còn chẳng kịp!
Lại chẳng hay ,đường sông.
Nhớ quê, gió nam thổi,
Bay xuống trước lầu rượu.
Một gốc đào lầu đông,
Khói xanh cành lá quét.
Cây này của ta trồng,
Gần ba năm xa cách.
Nay đào lầu ngang nhau ,
Ta đi chưa quay lại.
Gái xinh tên Bình Dương,
Hái hoa tựa bên đào.
Hái hoa chẳng thấy ta,
Lệ như suối tuôn trào.
Bá Cầm tên em nhỏ,
Cùng chị đẹp ngang nhau.
Sóng đôi đi dưới đào,
Vuốt lưng thương nhớ ai?
Nhớ thương lần lượt mất,
Cõi lòng ngày sầu vương.
Xé lụa, ý xa chép,
Đã đến sông Vấn Dương.
Chú thích:
*** Bài này được Lý Bạch làm năm 749 tại Giang Ninh khi đi ngao du sơn thủy tại vùng Thương Ngô cũ, Trung Hoa - Đông Lỗ 東魯: Lỗ: một nước nhỏ thời nhà Chu thuộc vùng Sơn Đông, nay là huyện Tế Ninh,Trung Hoa. Đây là quê hương của Khổng Tử, nhà tư tưởng và giáo dục lớn nhiều thế hệ của Trung Hoa.
- trĩ tử 稚子 : trẻ nhỏ ,đứa trẻ còn thơ, trẻ thơ...
- Ngô 吳: tên nước chư hầu nhà Chu, nằm ở phía nam vùng Giang Tô và phía bắc Chiết Giang, Trung Hoa. Nước Ngô là một trong ba nước thời Tam quốc (222-280) bên T.H
- lục 綠: màu xanh pha sắc vàng...
- tàm (tằm) miên 蠶 眠: con tằm ăn lá dâu xanh (tang) để nhả ra tơ làm lụa thường ngủ ba bốn bận mới kéo kén. Khi kéo kén xong thành ra con “dũng 蛹” tức con nhộng. Nhộng tượng hình con bướm, cắn thủng kén bay ra gọi là “nga 蛾” tức là con ngài. Để có loại tơ tốt, khi con ngài chưa kịp cắn kén, người nuôi tằm phải lấy kén ngay đẻ con ngài không cắn đứt, tơ không thành sợi được (Xem: Từ điển Thiều Chửu)
- xuân sự 春事: việc chuẩn bị công việc vào dầu mùa xuân như gieo cấy, trồng trọt cho kịp thời vụ hay vụ xuân...
- giang hành 江行: đi thuyền trên sông, đi bằng đường sông...
- mang nhiên 茫然: mờ mịt, chẳng hay biết gì cả, mù tịt, chán nản, thất vọng...
- quy tâm 歸心: lòng muốn quay về nhà, tin theo, nghe theo, yên lòng...
- đọa 墮: rơi xuống, suy sụp, rơi rụng, sa đọa...
- phất 拂: quét phẩy, rũ áo, ngang trái...
- hướng 向: sắp, gần, ngoảnh về, hướng về, trước kia...
- tề 齊: đều nhau, ngang nhau đầy đủ, đều cùng...
- thượng 尚: vẫn còn, mà còn, ngõ hầu, hơn, vượt lên, ưa chuộng, khoe khoang.
- toàn 旋: trở lại, quay lại, vụt chốc, xoáy...
- lệ há 淚下: lệ tuôn, nước mắt chảy xuống...
- tề quyên 齊娟: sự xinh xắn tươi đẹp ngang nhau. Có bản lại ghi là “tề kiên 齊肩” nghĩa là vai kề ngang nhau (kiên: gánh vác, vai)...
- phủ bối 撫背: vuốt lưng để vỗ về an ủi.
- phục thùy niệm 復誰念: lại thương nhớ nghĩ đến ai đây...
- thất thứ đệ 失次第: (nỗi nhớ thương này) mất đi dần dà và giảm bậc...
- can tràng(trường)肝腸: gan và ruột, tấm lòng thành thật, sự camđảm...
- tiện (tiễn) 翦: cắt đứt, xén bỏ đi. Có khi viết: nấu, sắc (sắc thuốc), cắt đứt, ngâm...
- liệt tố 裂素: xé lụa làm từ tơ (tố là tơ sống dùng để viết đại tự hoặc vẽ tranh thủy mặc.)
- chi 之: đi, đến, ấy, thế ấy, kia, đó, ở chỗ, và, với, nếu, là, dung...
- Vấn Dương xuyên 汶陽川: tên con sông ở nước Lỗ xưa kia (nay là
vùng Sơn Đông) tức Vấn Thủy ở Đông Bình nước Lỗ, Trung Hoa.
(Lần đến: THƠ LÝ BẠCH – Bài 109 và 110)
Dương Anh Sơn