Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2016

Chiều Ghé Thăm Tuy Hòa

GIỚI THIỆU
Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy Cô, quý Anh Chị Đồng Môn và quý Thân Hữu
Bài thơ CHIỀU GHÉ THĂM TUY HÒA của Hà Thanh Bình, tác giả tên thật là Võ Nhâm, cựu Đại Úy Hoa Tiêu trực Thăng QLVNCH. Quê quán ở Bình Định nhưng làm rể Phú Yên. Nhân một chuyến về thăm quê vợ anh đã sáng tác bài thơ này để kỷ niệm và tặng cho đồng hương Phú Yên. 
Xin chân thành cám ơn nhà thơ Hà Thanh Bình.
Trân trọng giới thiệu.
NHHN

Xin vui lòng click vào bài thơ để xem


Kính mời quý Thầy, Cô và các Bạn thưởng thức nhạc phẩm CHIỀU QUA TUY HÒA

Chiều Qua Tuy Hòa - Nguyễn Đức Quang -Elvis Phương & Khánh Ly ...

https://www.youtube.com/watch?v=FEP26Bs3_4k
Jul 9, 2015 - Uploaded by BINH DANG THANH
Chiều Qua Tuy Hòa - Nguyễn Đức Quang -Elvis Phương & Khánh Ly ... Beat Karaoke Chiều Qua Phố Tuy Hòa Cố ...



Thứ Năm, 29 tháng 9, 2016

Chuyện Chúng Mình

GIỚI THIỆU
Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy Cô, quý Anh Chị Đống Môn và quý Thân Hữu
Câu chuyện CHUYỆN CHÚNG MÌNH của Nguyễn Hữu Huân, tác gỉa thật tài tình, đã lấy tên các bản nhạc để viết thành một câu chuyện độc đáo làm cho độc giả khâm phục (chữ in trong bài là tên bài hát). 
Trân trọng giới thiệu
NHHN



Anh là người LÍNH TRẬN MIỀN XA và là NGƯỜI XA THÀNH PHỐ . Anh vẫn sống cuộc đời BỀNH BỒNG như con NGỰA HOANG vào một BUỔI SÁNG MÙA XUÂN bôn ba trên BỐN VÙNG CHIẾN THUẬT . Anh vẫn NHƯ CÁNH VẠC BAY theo bóng CON THUYỀN KHÔNG BẾN, hòa với CÁT BỤI TÌNH XA trong ĐÔI MẮT NGƯỜI XƯA, để nhìn MÂY LANG THANG như kẻ MỘNG DU theo VẾT CHIM BAY và khóc cho TUỔI ĐÁ BUỒN.

Sau 24 GIỜ PHÉP trở về với TIẾNG MƯA ĐÊM của CHIỀU PHI TRƯỜNG hoang vắng , anh với CON TIM THẬT THÀ hằng nguyện cầu LẠY TRỜI CHO CON ĐƯỢC BÌNH YÊN, để anh sẽ được RU EM TRỜI MƯA THÁNG TÁM. Anh hằng ao ước XIN MỘT NGÀY MAI CÓ NHAU để ANH VỀ VỚI EM trong một ĐÁM CƯỚI NHÀ BINH, một ĐÁM CƯỚI NGHÈO nhưng thắm đậm tình DUYÊN QUÊ, và để em ĐỪNG TRÁCH LÍNH VÔ TÌNH ...

Ròng rã BẢY NGÀY CHỜ MONG, anh đã nhận được LÁ THƯ GỞI NGƯỜI CHIẾN TUYẾN em viết cho anh. Em bảo em BUỒN bởi vì anh vẫn SAO CHƯA THẤY HỒI ÂM và bỏ mặc NGƯỜI YÊU CÔ ĐƠN lang thang ôm NIỀM ĐAU CỦA CÁT trong những chiều MƯA TRÊN BIỂN VẮNG. Em trách anh thích chạy theo những HẠNH PHÚC LANG THANG mà chỉ dành cho em một thứ HẠNH PHÚC NỬA VỜI và còn dọa sẽ GẶP NHAU LÀM NGƠ nữa...

Này NGƯỜI YÊU VĂN KHOA của anh ơi ! Anh là LÍNH MÀ EM, nhưng là một NGƯỜI LÍNH CHUNG TÌNH, chưa bao giờ biết ĐỂ QUÊN CON TIM nơi TRƯNG VƯƠNG KHUNG CỬA MÙA THU nào đó ! Anh vốn là CHÀNG TRAI THẾ HỆ trong buổi loạn ly, và trên suốt CON ĐƯỜNG MANG TÊN EM anh vẫn chưa đi hết nổi NỬA BƯỚC ĐƯỜNG TÌNH, nhưng vẫn muốn có gì tạm gọi là CHÚT QUÀ CHO QUÊ HƯƠNG. Cho dù MÙA ĐÔNG CỦA ANH có TUYẾT RƠI buốt giá, nhưng NIỀM THƯƠNG NHỚ ấy vẫn là CHÚT VẤN VƯƠNG TRONG TIM, và anh xin giữ lại những HOÀI CẢM ấy như một chút HẠNH PHÚC DỊU DÀNG trong những chiều NẮNG HẠ êm đềm.

NẾU TA ĐỪNG QUEN NHAU thì em nào phải BÂNG KHUÂNG CHIỀU NỘI TRÚ với những GIỌT NẮNG BÊN THỀM. Vậy thì em HÃY CỨ VUI NHƯ MỌI NGÀY và HÃY YÊU NHƯ CHƯA YÊU LẦN NÀO nghe em, bởi vì KHÔNG PHẢI TẠI CHÚNG MÌNH đâu em nhé !

Trong MỘT CHUYẾN BAY ĐÊM cùng với những CHUYẾN TÀU HOÀNG HÔN, tàu anh bay cao như CUỐN THEO CHIỀU GIÓ, bỏ lại THÀNH PHỐ SAU LƯNG để đi tìm NGƯỜI Ở LẠI CHARLIE trong khu RỪNG XƯA ĐÃ KHÉP. Anh bay trong vùng TUYẾT TRẮNG vây quanh, như những VẾT CHIM BAY trên giòng SUỐI TÓC em chạy dài trên
TÀ ÁO XANH trong một ngày CHỦ NHẬT TƯƠI HỒNG.

Anh đã GỢI GIẤC MƠ XƯA để nhìn thấy MƯA TRONG MẮT EM và nghe được TIẾNG HÁT NỬA VỜI. Những NỖI NHỚ MỊT MÙ ấy phải chăng là một thứ tình MONG MANH trong MỘT GIẤC MƠ HOA, mà qua NHỮNG CON MẮT TRẦN GIAN người ta vẫn bảo là TÌNH ĐẾN RỒI ĐI, nhưng anh lại gọi đó là TÌNH LÍNH .

Còn EM TÔI, em là NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM DA VÀNG, em duyên dáng hơn NÀNG TRUNG HOA XINH ĐẸP, em ngát thơm hơn cả CÁNH HỒNG TRUNG QUỐC trổ hương, vì em chính là CÔ BẮC KỲ NHO NHỎ trong THUNG LŨNG MÀU HỒNG với HUYỀN THOẠI CỦA MỘT NGƯỜI CON GÁI.

Nào ngờ, TA ĐÃ YÊU EM LẦM LỠ vì trời bắt em mang một PHẬN GÁI THUYỀN QUYÊN như NGƯỜI TÌNH ELISÉE đa đoan đang chớm bước vào TUỔI BIẾT BUỒN. Em thích sống trong KIẾP ĐAM MÊ của một NGÀY MAI CHIỀU TỐI VỘI VÀNG và đắm chìm trong những CƠN LỐC CỦA TÌNH YÊU.

Em thường khát khao những GIÂY PHÚT THẦN TIÊN để mong được NGẤT SAY MEN TÌNH với những BƯỚC TÌNH HỒNG của chuỗi ngày TÌNH HÈ RỰC NẮNG. Và cũng chính em là NGƯỜI ĐI TRONG ĐÊM  nên chỉ nhìn thấy mảnh MẶT TRỜI ĐEN với những cuộc TÌNH NHƯ BÓNG MA . Ấy thế mà em vẫn TẠ ƠN ĐỜI, chỉ vì em đã LẦM mà tưởng rằng đời đã ĐƯA EM VÀO HẠ. Rồi NHƯ ĐÁ NGÂY NGÔ chơ vơ TRÊN ĐỈNH MÙA ĐÔNG vào một lần ANH ĐI CHIẾN DỊCH, nhờ ĐÓM MẮT HỎA CHÂU soi sáng thay cho những ÁNH ĐÈN MÀU  trong một ĐÊM BUỒN TỈNH LẺ, anh đã XIN TỰ HỎI MÌNH để viết cho em một BỨC TÂM THƯ được trích ra từ trường khúc TÌNH THƯ CỦA LÍNH.

Đó là những LỜI BUỒN THÁNH mà loài người đã phổ thành tấu khúc MỘT LẦN MIÊN VIỄN XÓT XA.Đó là những LỜI CUỐI của một CHIỀU KHÚC mà anh ước ao MỘT LẦN NÀO CHO TÔI GẶP LẠI EM. Và BÀI THÁNH CA BUỒN ấy đã ghi lại những DẤU VẾT TÌNH TA, để trong anh MỘT NGÀY NHƯ MỌI NGÀY vẫn NHƯ CHIẾC QUE DIÊM chợt lóe lên những NỖI NHỚ MONG MANH của cả MỘT ĐỜI TAN VỠ, tan theo từng GIỌT NƯỚC MẮT NGÀ chứa chan trong VŨNG LẦY CỦA CHÚNG TA .

THƯỞ ẤY CÓ EM, ta đã TẶNG NHAU ĐÓA HỒNG của những ngày TÌNH CÒN LẤT PHẤT MƯA BAY. Anh vẫn thường gọi em là QUỲNH HƯƠNG, là BÉ YÊU và EM NHƯ MỘT NỤ HỒNG thơm ngát. NGÀY ẤY MÌNH QUEN NHAU, ngày ấy EM HIỀN NHƯ MA-SƠ, trong trắng với TRÁI TIM CÒN TRINH, và chúng ta đã dìu nhau đến chốn THIÊN ĐÀNG TÌNH ÁI. LÀM SAO TÔI QUÊN ĐƯỢC ngày EM ĐẾN THĂM ANH MỘT CHIỀU MƯA khi anh đang ngụp lặn với những NIỀM VUI CÔ ĐƠN trong một CĂN NHÀ NGOẠI Ô hẻo lánh.

EM ĐẸP NHƯ MƠ bềnh bồng trong chiếc ÁO LỤA HÀ ĐÔNG, miệng khẽ nói: nào là VẪN MÃI YÊU ANH, nào là MỘT ĐỜI YÊU ANH và còn ghé sát bên anh thì thầm ...ANH LÀ TẤT CẢ.  Anh đã như ngụp lặn trong CƠN MƯA HỒNG của một mùa THU QUYẾN RŨ giăng giăng LÁ ĐỔ MUÔN CHIỀU, để rồi anh cũng cất cao tiếng hát…VÀ
 TÔI CŨNG YÊU EM .

Ôi ! Những TÌNH KHÚC CHIỀU MƯA vang vang trong cơn MƯA CHIỀU KỶ NIỆM , để hồn anh GỞI GIÓ CHO MÂY NGÀN BAY và để em chẳng còn biết BÂY GIỜ THÁNG MẤY.  Lúc ấy MÀU MẮT NHUNG của em khép kín, để cho anh mân mê VÒNG TRÒN TRÊN BÃI CÁT ÊM bên cạnh khu RỪNG XƯA LÁ THẤP, nép thân dưới hai đỉnh HOA VÀNG thơm mùi sữa mẹ.

Anh đã XIN THỜI GIAN NGỪNG TRÔI để được đổ tràn trong em những giọt CUỐI CÙNG CHO MỘT TÌNH YÊU . Em đã QUÊN CẢ LỐI VỀ và nằm im lìm NHƯ GIẤC CHIÊM BAO để uống cạn hết NỖI ĐAU DỊU DÀNG này... Kể từ ngày TÌNH NỒNG TRAO ANH mà không MỘT CHÚT SUY TƯ ấy, em đã trở thành ĐÀN BÀ, hay nói đúng hơn là NGƯỜI ĐÀN BÀ TRONG TÌNH YÊU. Cũng từ đó ÁO ANH SỨT CHỈ ĐƯỜNG TÀ và anh cũng đã trở thành ĐÀN ÔNG, tưởng mình đã nắm chắc được chùm CHÌA KHÓA TÌNH YÊU trong tay, rồi DỪNG BƯỚC GIANG HỒ và nghêu ngao GỌI NGƯỜI YÊU DẤU. Nào ngờ đâu, kể từ ngày MÁU NHUỘM BÃI THƯỢNG HẢI với VẾT THƯƠNG CUỐI CÙNG ấy, bỗng nhiên BIỆT KINH KỲ !!!

Bây giờ đây, anh chỉ biết xin được CẢM ƠN EM YÊU DẤU đã cho anh những PHÚT NGÂY THƯỜNG TRONG ĐÊM vào một MÙA HÈ VÔ TẬN với NGƯỜI TÌNH TRĂM NĂM đã mất. Anh đã gọi đó là TÌNH NGHỆ SĨ, là BÃO TÌNH, là TÌNH SỬ ROMÉO-JULIETTE và vẫn thầm nguyện XIN CÒN GỌI TÊN NHAU mãi mãi .

Nhưng rồi NHỮNG NGÀY YÊU NHAU trên suốt cả CON ĐƯỜNG TÌNH TA ĐI bỗng mang dấu vết của một GIẤC MƠ KHÔNG ĐẾN HAI LẦN. Ai ngờ đâu, lần TIỄN EM NƠI PHI TRƯỜNG hôm ấy lại là LẦN TIỄN ĐƯA CUỐI CÙNG. Anh LÊN XE TIỄN EM ĐI mà lòng thầm muốn TRÁCH NGƯỜI ĐI. Em đã SANG NGANG với NHỮNG BƯỚC CHÂN ÂM THẦM khi MÙA ĐÔNG SẮP ĐẾN, và em đã LẠNH LÙNG nỡ lòng DỨT ĐƯỜNG TƠ để con tàu CHUYỂN BẾN, cuốn trôi đi giòng NƯỚC MẮT CỦA MỘT LINH HỒN. Và rồi, EM CÒN NHỚ HAY ĐÃ QUÊN một ĐÊM BUỒN XÓT XA dạo ấy,

NGHẸN NGÀO em đã hỏi anh :

- AI BUỒN HƠN AI ?

Lúc đó anh vẫn còn MƠ KHÚC TƯƠNG PHÙNG của MỘNG BAN ĐẦU cho dù chất chứa TRĂM NHỚ NGÀN THƯƠNG, và anh đã trả lời rằng :

- Hỡi NGƯỜI TÌNH LARA của anh, anh vẫn YÊU EM DÀI LÂU, anh vẫn mãi YÊU EM BẰNG TRÁI TIM ANH ! 

Và TRƯỚC GIỜ TẠM BIỆT em còn hứa với anh rằng NGÀN NĂM VẪN ĐỢI !!!

Thế là EM ĐÃ ĐI RỒI, mang theo cả NHỮNG LỜI RU CUỐI của một MÙA THU CHẾT. Còn anh , anh là NGƯỜI XA VỀ THÀNH PHỐ với NỬA HỒN THƯƠNG ĐAU, thất thểu như NGƯỜI CHẾT TRỞ VỀ trong CHIỀU MỘT MÌNH QUA PHỐ và ôm trọn lấy CHUYỆN PHIM BUỒN của một DUYÊN KIẾP phũ phàng.

Anh đã lê những BƯỚC CHÂN CHIỀU CHỦ NHẬT trong CƠN MƯA PHÙN vào một CHIỀU TRÊN PHÁ TAM GIANG, một buổi CHIỀU mà anh nghĩ CHƯA CHIỀU NÀO BUỒN BẰNG CHIỀU NAY. Anh đi vội qua phía GIÁO ĐƯỜNG IN BÓNG, miệng lâm râm GỌI EM NHƯ ĐÓA HOA SẦU và khấn nguyện rằng : "LẠY CHÚA CON LÀ NGƯỜI NGOẠI ĐẠO, nhưng con xin mãi được THEO DẤU CHÂN NGƯỜI ...".

Rồi như BÁNH XE LÃNG TỬ đẩy đưa sau những ĐÊM DÀI CHIẾN TUYẾN , anh đã GIÃ TỪ VŨ KHÍ để cùng với NGƯỜI BẠN THÂN TÊN BUỒN thừa lúc TRĂNG RỤNG XUỐNG CẦU trong một ĐÊM CHÔN DẦU VƯỢT BIỂN, đã cùng nhau thề nguyền THÀ CHẾT TRÊN BIỂN ĐÔNG , ra đi trên CON THUYỀN VIỄN XỨ . Anh quyết XÓA TÊN NGƯỜI TÌNH và bỏ lại SÀI GÒN NIỀM NHỚ KHÔNG TÊN trên một CHUYẾN ĐÒ VĨ TUYẾN, đi theo LỜi GỌI CHÂN MÂY, theo đám hải âu BAY ĐI CÁNH CHIM BIỂN muôn trùng.

Anh đã GIÃ BIỆT SÀI GÒN để trở thành NGƯỜI DI TẢN BUỒN, mà trong tim vẫn ấp ủ một GIẤC MƠ HỒI HƯƠNG...

Rồi cứ thế, MỘT NGÀY TRÊN BI ĐÔNG ngồi đếm từng cánh HOA BIỂN là một ngày anh đã KHÓC CHO MỘT THÀNH PHỐ MẤT TÊN, thương cho CHUYỆN MỘT CHIẾC CẦU ĐÃ GẪY năm xưa và nuối tiếc CUỘC TÌNH THOÁNG BAY của chúng mình hôm nào.

Mai sau nếu có AI TRỞ VỀ XỨ VIỆT, xin gởi dùm tôi câu HÁT CHO NGƯỜI Ở LẠI, xin nhờ ĐÀN CHIM  THA PHƯƠNG gửi trả về NGƯỜI TÌNH VIỆT NAM cuộc TÌNH LẦM LỠ năm xưa.

Từ đây, TÔI VỚI TRỜI BƠ VƠ như người LỮ KHÁCH TRONG MƯA giữa HAI KHUNG TRỜi CÁCH BIỆT, mà thẫn thờ ĐI TÌM THƯƠNG YÊU. Nhiều lúc TƯỞNG RẰNG ĐÃ QUÊN, nhưng sao vẫn quá NGẬM NGÙI và đắng cay như những GIỌT CÀ PHÊ, cũng chỉ vì TÌNH ĐẦU VẪN KHÓ PHAI. Nếu NGÀY MAI KHI TÔI CHẾT ĐI, ai sẽ tìm lại cho tôi CÂY ĐÀN BỎ QUÊN của MÙA HÈ NĂM ẤY ?

Ai dám nói TÌNH CHỈ ĐẸP KHI CÒN DANG DỞ ? Ai còn nhớ cho CHUYỆN TÌNH CỦA NGƯỜI TRINH NỮ TÊN  THI ? Bây giờ QUÊ HƯƠNG BỎ LẠI và trong anh CHỈ CÓ EM giữa một GIÒNG SÔNG KỶ NIỆM . Cho dù đã quá MUỘN MÀNG nhưng anh cũng xin TRẢ LẠI EM YÊU cuộc tình SI MÊ của một lần LẦM LỠ .

SÀI GÒN BÂY GIỜ BUỒN KHÔNG EM ? hay em vẫn RONG CHƠI DƯỚI TRỜI QUÊN LÃNG, để anh ôm trọn TRÁI  TIM NGỤC TÙ của MỘT THỜI ĐỂ YÊU VÀ MỘT THỜI ĐỂ CHẾT ? MƯA SÀI GÒN CÓ BUỒN KHÔNG EM và em có BAO GIỜ BIẾT TƯƠNG TƯ trong những chiều MƯA QUA THÀNH PHỐ vào MẤY ĐỘ THU VỀ ?

Hay em đã mang TÌNH YÊU TRẢ LẠI TRĂNG SAO và đã vội QUÊN ĐI TÌNH YÊU CŨ, để anh ngồi đây BÊN CẦU BIÊN GIỚI mà KHÓC MỘT GIÒNG SÔNG với BIỂN NHỚ muôn trùng ?

MƯA SÀI GÒN MƯA HÀ NỘI có làm ƯỚT MI của ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY, có làm NGƯỜI YÊU TÔI KHÓC trong những chiều SÀI GÒN THỨ BẢY ? CÒN TUỔI NÀO CHO EM giữa những MỘNG PHÙ DU cám dỗ vây quanh ?

Bên này, anh vẫn NHÌN NHỮNG MÙA THU ĐI để mãi trách trời SAO VẪN CÒN MƯA RƠI, vẫn mãi lang thang trên con ĐƯỜNG XA ƯỚT MƯA rồi tự hỏi MÌNH MẤT NHAU BAO GIỜ ?

THÔI ĐỪNG NHẮC CHUYỆN ĐÃ QUA làm gì nữa, cho DÙ TÌNH YÊU ĐÃ MẤT bởi vì TÌNH NGHĨA ĐÔI TA  CÓ THẾ THÔI.

Bây giờ NGƯỜI TÌNH TRĂM NĂM đã biến thành TÌNH LỠ TRĂM NĂM và TÌNH KHÔNG SUY TƯ nay chỉ còn là một thứ TÌNH THIÊN THU, là TÌNH BƠ VƠ, là TÌNH GIAN DỐI. Cho dù NGƯỜI CÒN ĐÓ TA CÒN ĐÂY nhưng cũng chỉ là TÌNH CÓ NHƯ KHÔNG và YÊU ĐƯƠNG CHỈ LÀ THẾ phải không em ?

Anh xin TRẢ LẠI EM YÊU tất cả những gì của MƯỜI NĂM TÌNH CŨ và cho dù TÌNH VỖ CÁNH BAY rồi, nhưng anh cũng vẫn xin làm BÀI THƠ CUỐI CÙNG như một NIỆM KHÚC CUỐI cho những NGÀY ĐÁ ĐƠM BÔNG của HAI MƯƠI NĂM TÌNH CŨ xa xưa.

THÔI ! Tất cả đã trở thành DĨ VÃNG rồi, hãy CHO TÔI ĐƯỢC MỘT LẦN can đảm để GIẾT NGƯỜI TRONG MỘNG, để mong sao quên đi THÚ ĐAU THƯƠNG này, và CON TIM SẼ VUI TRỞ LẠI không chừng ! Hãy cho tôi thành những GIỌT MƯA TRÊN LÁ để ấp ủ mãi LỜI NGUYỆN TRONG TÙ hôm xưa trong GIẤC NGỦ CÔ ĐƠN hôm nay. Tôi muốn mình THÀ NHƯ GIỌT MƯA rơi tơi tả trên những CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG, cầu mong tưới mát NHỮNG ĐỒI HOA SIM cho người .

Tôi cũng XIN LÀM CHIM RỪNG NÚI để mong chờ ngày TUNG CÁNH CHIM TÌM VỀ TỔ ẤM, để được bay trên cánh ĐỒNG XANH bao la, bay mãi tận VỀ NƠI ĐẤT HỨA xa xăm, rồi cất tiếng kêu HẸN EM SÀI GÒN.

Tôi cũng sẽ rong ca BÀI CUỐI CHO NGƯỜI TÌNH như một KỶ VẬT CHO EM biết ngày nào trao. Hãy cố nén cơn đau và cất tiếng BUỒN ƠI XIN HÃY QUÊN, hãy mạnh dạn nói rằng BUỒN ƠI TA CHÀO MI, rồi thu hết can đảm mà OẲN TÙ TÌ với cuộc đời còn lại, và sau cùng sẽ tự nhủ mình rằng : SỨC MẤY MÀ BUỒN, BỎ ĐI TÁM...

  NGUYỄN HỮU HUẤN

Chuyện Đôi Đũa


Từ giã quê hương ra đi, những gì ta mang theo, nếu có, nhứt định không phải là đôi đũa. Vậy mà ngày đầu tiên đặt chưn đến đảo cũng như sau nầy.. trong những bữa ăn, đôi đũa vẫn xuất hiện bên cạnh ta, đi theo ta suốt một đời.. Nó hiển nhiên đến đổi không còn ai biết nó từ đâu đến, tại sao có? Trong những bữa cơm nghèo nàn, muối dưa đạm bạc hay những yến tiệc linh đình, mỹ vị cao lương, người Việt ta vẫn phải dùng đến đôi đũa. Không thể dùng tay để bốc thức ăn như con người 5000 năm trước đây của nửa phần trái đất nầy.

Tuy tầm thường, thô sơ, rẻ mạt... không ai để ý, nhưng nó luôn luôn ở bên cạnh ta. Cả đến khi ta qua đời, đôi đũa cũng được so ngay ngắn để bên chén cơm cúng ta trên bàn thờ.

Đôi đũa là một phát minh của nền văn minh nông nghiệp cách đây hàng ngàn năm của vùng Hoa hạ và sau đó lan tràn cả vùng Đông Nam Á. Nó vừa là một dụng cụ vừa là một chứng nhân của dòng sinh hoạt văn hóa dân gian, biểu tượng một phần của đời sống văn minh trong sự ăn uống. Riêng người Việt Nam, qua cung cách sử dụng, đôi đũa còn thể hiện nét đẹp của tinh thần gia tộc: Biết kính trên nhường duới, biết ''ăn coi nồi, ngồi coi hướng'', biết gắp miếng ngon dâng cho ông bà, cha mẹ, nhưng đồng thời cha mẹ, ông bà cũng chia sẻ, nhường nhịn thức ăn cho con cháu. Tình gia tộc chan hoà ấm áp qua sự sử dụng đôi đũa trong bữa cơm.

Trước khi ăn, người ta còn cầm đũa xá 3 xá, để nhớ ơn người nông dân lam lũ, một nắng hai sương, nhọc nhằn vất vả, mới tạo ra được hột cơm. Và khi ăn, phải ăn cho sạch cơm trong chén – để thể hiện cái đạo lý ''Ăn trái nhớ kẻ trồng cây'' của dân tộc ta. Tập quán tốt đẹp nầy hiện vẫn còn một số gia đình áp dụng. Đôi đũa còn mang lại cho ta cái thú vị trong cách thưởng thức món ăn. Cứ thử ăn món phở mà dùng chiếc nĩa cuộn tròn mấy cọng bánh đưa vào miệng, hoặc ăn món mắm và rau mà cầm nĩa xăm từng cọng rau, con dao cắt từng miếng thịt – mắm, thịt và rau rời rạc... không còn là món ''mắm-thịt-cá-và-rau'' hài hoà tuyệt diệu.. ăn một miếng, ngon thấm tận vào da thịt.. như âm hưởng một bản đàn đã dứt mà dư âm còn lan man mãi trong tâm hồn. Ăn mắm bằng muỗng nĩa... thì không còn thú vị gì nữa...

Nếu văn hoá là cái gì còn sót lại, khi người ta đã quên hết.. như một tác giả nào đó đã nói (“La culture est ce qui reste, quand on a tout oublié”), thì chính đôi đũa là cái còn sót lại..



ĐÔI DÒNG VỀ LỊCH SỬ ĐÔI ĐŨA

Theo nhiều sử liệu nghiên cứu về đôi đũa thì người dân vùng Hoa Nam thuộc giống dân Bách Việt là dân tộc đầu tiên phát minh ra đôi đũa dùng để gắp thức ăn. Trong quyển L'histoire culturelle de la Chine, sử gia Đàm Gia Kiện xác nhận người Tàu thời tiên Tần (trước Tần Thỉ Hoàng) vẫn còn ăn bốc tức dùng tay như một đứa trẻ đưa thức ăn vào miệng. Riêng dân Trung Hoa miền Hoa Bắc – ăn bốc là một thói quen truyền thống. Vì miền nầy khí hậu lạnh lẽo... dân ở đây chỉ trồng được lúa mạch (orge) và lúa kê (millet) và ăn bánh mì, tất nhiên là ăn bốc, vì phải dùng tay để cầm bánh mì đưa vào miệng ăn. Và bánh mì của họ khác với bánh mì Tây Phương. Chỉ khi họ bành trướng lãnh thổ về phương Nam – vùng đất của dân Bách Việt (100 giống dân Việt) đất ấm áp, nơi có nhiều rừng tre và trồng được lúa nước, người Hán khám phá ra dân nơi nầy dùng một dụng cụ thô sơ bằng tre, dùng để và cơm và gắp thức ăn đưa vào miệng. Đôi đũa đuợc phát sinh qua hình ảnh cái mỏ con chim ngậm giữ một cách có hiệu quả... hột lúa hay một con cá, trước khi đưa vào miệng ăn. Và cũng vì thức ăn có nhiều thứ ẩm nước hay nóng sôi... dùng tay ăn sẽ dơ bẩn hay bị phỏng tay, rất bất tiện... Từ đó, họ dùng 2 cái que, hình ảnh cổ xưa nhứt của đôi đũa. Họ Đàm kết luận, với những khám phá mới gần đây nhứt, đã minh chứng ĐÔI ĐŨA là sản phẩm của nền văn minh nông nghiệp của vùng Đông Á. (Đàm Gia Kiện, L'histoire culturelle de la Chine - p.769)

Người Tàu còn sử dụng đôi đũa trong Toán học trước khi phát minh ra được bàn toán (boulier ). Đời nhà Hán, người Tàu đã biết sử dụng những chiếc đũa viết những con số để xếp thành những phương trình đại số... Liu Hui (220-280 ) dùng những chiếc đũa màu đỏ (chỉ số dương) và những chiếc màu đen (chỉ số âm), để dạy Toán học, để xếp thành những ma trận (matrice), một ngàn năm trước cả GAUSS. Người Tàu cũng sớm biết rút căn số (extraire les racines carrées) từ thời đó. (Theo J. Claude Marzloff, Histoire des Mathématiques chinoises (J. Claude Marzloff, 1988, p.376)

Qua những nghiên cứu về nguồn gốc đôi đũa, luận chứng của sử gia Đàm Gia Kiện gần đây nhứt, có lẽ là đáng tin cậy hơn cả. Nhà Hán bành trướng lãnh thổ về phương Nam – vùng các tỉnh phía Nam sông Dương Tử gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Phúc Kiến – là những vùng khí hậu tương đối ấm, trồng được lúa nước và có nhiều rừng tre. Thực phẩm vùng nầy là cơm nấu từ lúa gạo không phải là bánh mì như vùng Hoa Bắc (ăn bằng cách cầm tay). Ăn cơm thì phải dùng 2 cái que bằng tre để lua cơm vào miệng và để gắp thức ăn – tiện lợi, sạch sẻ hơn dùng 2 bàn tay.



TRÊN ĐƯỜNG LƯU LẠC XỨ NGƯỜI

Bây giờ lưu lạc xứ người, cộng đồng ta là một thiểu số nhỏ bé. Môi trường khác, văn hoá khác, ngôn ngữ tập quán khác. Văn hóa mới ảnh hưởng ào ạt trực tiếp – tác động có tánh cách thượng phong, áp đảo, nhứt là đối với giới trẻ. Muốn sống còn, dù không muốn, ta vẫn phải hội nhập vào xã hội mới. Giới trẻ được giáo dục theo văn hoá sở tại. Từ nơi ăn chốn ở, cách ăn uống, nếp suy tư – là hệ quả của nền giáo dục mới. Bữa cơm Việt Nam, tất nhiên có đôi đũa, có còn giữ vững địa vị của nó trong nếp sống của nhiều thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên tại hải ngoại không?

Nhiều người ưu tư.. nghĩ rằng chỉ vài ba thế hệ sau... nền văn hoá ta sẽ chìm mất vào nền văn hóa bản địa. Trẻ con ta dần dần sẽ không nói được tiếng Việt, không học tiếng Việt hoặc có, cũng chỉ là qua loa, thứ yếu.. Hậu quả tất nhiên là không đọc sách báo Việt, không thích nhạc Việt. Trẻ con thích Hamburger hơn cơm, thích khoai tây chiên hơn phở. Bữa cơm gia đình sẽ không còn canh chua cá kho, sẽ vắng bóng mấm tôm cà pháo, và đôi đũa, cũng sẽ bị dòng nước lũ văn hoá mới cuốn trôi đi mất…

Mặc dù có rất nhiều tổ chức, hội đoàn, chùa chiền.. khắp thế giới hoạt động thiện nguyện, nhiệt tình, tích cực cho việc giáo dục tiếng Việt cho con em, nhưng có một sự thật không thể chối cãi là phần lớn con em sinh tại hải ngoại không đọc sách báo Việt ngữ và thích ăn Hamburger, hot dog hơn cơm và phở.

Bảo tồn và duy trì văn hoá cũng còn tùy thuộc nơi sức tranh đãu của chúng ta – những bậc cha ông của các thế hệ sinh tại hải ngoại. Tại sao các cộng đồng Tàu còn giữ được văn hóa của họ. Thăm dò những người Tàu nhiều thế hệ sinh đẻ tại đây – hiện có người từ 60 tới 90 tuổi.. họ vẫn đọc được tiếng Tàu, ăn cơm Tàu, sử dụng đôi đũa.. Người Tàu đã làm được. Còn ta thì không biết ra sao!


ĐÔI ĐŨA TRONG BÀN TIỆC

Một người Tây Phương, Ô. G. Charles, trong tác phẩm: ''La table du dragon'' hết sức ca tụng đôi đũa và thức ăn Á Đông. Ông viết: ''Người ta tự đào huyệt chôn mình bằng chiếc nĩa, nhưng ngườt ta xây dựng sức khoẻ của mình với đôi đũa (On creuse sa tombe avec la fourchette, mais on construit sa santé avec les baguettes). Tác giả một mặt đề cao đôi đũa và thức ăn Á Đông, mặt khác, ông nhận xét cung cách ăn uống của mấy ông con trời: ''Bữa ăn được xem là khoảng thời gian xum họp, vui vẻ, nên người Tàu gây nhiều tiếng động ồn ào trên bàn ăn. Xương xẩu, rác rưởi bỏ bừa bãi bên cạnh chén cơm hoặc vứt đầy xuống mặt đất.. và rất ít khi không thấy họ khạc nhổ xuống nền nhà. Chiếc bàn sau bữa ăn giống như một bãi chiến trường ngỗn ngang xác chết..'' (G. Charles, La table du dragon).

Người Việt ta có lẽ cũng đã từng thấy ngoài đời lẫn trong phim, người ta ăn lẫu... Họ dùng đôi đũa dính cơm, thức ăn đang nhai, gắp thịt cá nhúng vào lẫu rồi đưa vào miệng ăn. Đôi đũa dính đầy đờm dãi, xác rau, thịt cá nhai nát.. nhúng vào rồi còn quậy quậy trong nước lẫu... cho thịt mau chín. Chao ơi! cái lẫu bây giờ giống như một chậu nước rữa chén! Mọi người dùng cái muỗng múc nước trong lẫu húp xì xụp..!

Chính người viết bài nầy những ngày gần đây cũng đã từng trải qua nhiều lần ăn lẫu như thế: Cá bóng kèo còn sống nhảy soi sói... được bỏ vào chiếc lẫu để giữa bàn. Rau rác cũng được bỏ vào cùng lúc. Hàng chục đôi đũa chỏ vào nhúng, gắp, quậy quậy.. rồi đưa vào miệng nhai, ăn... và tiếp tục dùng đôi đũa dính đầy thức ăn chỏ vào lẫu lập lại cái ''điệp khúc'' nầy nhiều lần trong bữa ăn. Nước dùng trong giây lát.. ngã màu, nổi màng màng. Kỳ vi, thịt cá, rau rác vụn và chắc chắc có cả nước miếng, đờm dãi trôi lều bều trong nước lẫu... Ly la ve độc nhứt trên bàn chuyền nhau... nốc ừng ực một hơi, khà một tiếng khoái trá! Những người khác trong bàn vỗ tay: ‘Dzô! Dzô! Chăm phần chăm’! Tiếng vỗ tay rôm rốp. Tới phiên mình cũng đành phải nâng ly và cũng đành chỏ đũa, nhúng, gắp như mọi người, nếu không muốn lãnh cái cán búa. Thiệt tình! Ớn thấu trời xanh!


Thói quen ''truyền thống'' nầy đã có lâu đời nên người trong cuộc thấy rất bình thường. Nếu để ý một chút hoặc khi xem người Tàu ăn lẫu... thấy thật muốn nhợn... Ớn quá trời! Người Tây Phương lấy làm lạ trong lòng!

Trong bàn tiệc, người mình cũng vậy thường dùng đôi đũa đang ăn dính đầy nước miếng, đờm dãi chỏ vào gắp thức ăn trong dỉa. Mười người mười đôi đũa chỏ vào gắp cá, thịt, rau.. cho vào miệng nhai.. rồi tiếp tục dùng đôi đũa đó gắp như vậy suốt bữa tiệc. Cứ tưởng tượng thức ăn nhai nát cùng đờm dãi, vi khuẩn, vi trùng sẽ đi du lịch thoải mái từ miệng người nầy sang miệng người khác... Và nếu có người bị cảm cúm, hépatite, ho lao hay bệnh truyền nhiểm nào đó, thì nhứt định sẽ lây sang người khác... Trong tiệc cưới hỏi hay party hội họp bạn bè.. người mình có thói quen dùng đôi đũa đang ăn trong miệng gắp thức ăn bỏ vào chén các vị cao niên, các bà, các cô… để bày tỏ sự kính trọng người lớn tuổi hay sự xã giao lịch lãm của mình. Tuy nhiên, qua sự thố lộ của nhiều người, họ rất khổ tâm trước vấn đề nầy. Có nhiều điều bất tiện. Dùng đôi đũa đang ăn gắp thức ăn phục vụ cho người khác có khi làm họ không hài lòng. Vì món ăn đó không thích hợp với cái răng vừa mới thay, vì muốn tự mình gắp món nào mình thích, hoặc vì cử món đó, hay vì món đó khi được phục vụ chỉ còn đầu và vỏ (Thí dụ như tôm hùm) Và đôi đũa mình đang ăn, đã dính nước miếng, cơm và thức ăn nhai trong miệng, mà gắp thức ăn bỏ vào chén phục vụ người khác. Bỏ thì sợ mích lòng bạn mà ăn thì nuốt không vô... Một bà bạn tâm sự: Tui ngồi chết trân, hổng biết phải làm sao, bèn lén lén để ra dĩa lấy giấy khăn ăn đậy lại, mắt lấm lét vì sợ bị bắt gặp. Trông cho anh bồi đi tới dọn để phi tang cho lẹ lẹ.

Ta vẫn có thể lịch sự phục vụ người khác bằng cách sử dụngmuỗng nĩa do nhà hàng dọn sẳn trong dĩa để lấy thức ăn để vào chén họ. Ta vẫn giữ được thói quen tốt đẹp nầy. Người viết đã có một lần chứng kiến một vị phu nhân dùng đôi đũa bươi bươi dĩa mì xào.. để tìm kiếm cái gì đó. Dường như bà bất mãn nhà hàng xào mì không có tôm. Dĩa mì sau đó còn nguyên, không ai rớ tới... Dùng đôi đũa để gắp thức ăn, cái muỗng để húp canh, là một thói quen lâu đời. Thay đổi một thói quen không phải là một việc dễ dàng có khi còn lãnh cái cán búa.


Xoá bỏ một thành kiến còn khó hơn phá vỡ một thành trì. Huống chi đôi đũa trong bữa ăn người Việt còn là một tập quán lâu đời, một nét văn hoá trong đời sống ông cha hàng ngàn năm nay. Bỗng nhiên thay đổi cung cách sử dụng, dù biết đúng đi nữa cũng khó mà chấp nhận. Nhưng nếu so sánh chuyện cái búi tóc và bộ âu phục ngày xưa, quả nhiên chuyện đôi đũa có phần dễ dàng hơn. Đạo lý Khổng Mạnh quan niệm: ''Thân thể phát phu thọ chi phụ mẫu – bất cảm hủy thương hiếu chi thị giả'' (Thân thể, tóc da, do cha mẹ sinh ra. Hủy bỏ hay làm thương tổn đến nó là điều bất hiếu). Bất hiếu là tội lớn nhứt. Làm thương tổn đến tóc da là bất hiếu. Làm sao có thể tưởng tượng người Việt Nam thời đó dám hy sinh cái búi tóc. Thế mà các nhà ái quốc Trần Cao Vân, Mai Xuân Thưởng đã dám đứng lên cổ xúy cho phong trào cắt cái búi tóc thế kỷ trước đây, đã gặp một sức phản kháng dữ dội. Thế nhưng dần dà... dân chúng ý thức được cái tiện lợi, sạch sẽ.. nên cái ''củ tỏi'' lần lần biến mất. Các chiếc áo dài, khăn đống, giày hàm ếch, dây thắt lưng bằng lụa xanh, cũng chỉ còn lại trong các buổi lễ… để tượng trưng cho một dấu vết của nền văn hóa dân tộc.

Dòng văn hóa ngàn đời của ta là gạn lọc và thâu thái. Gíáo dục của ta vừa dân tộc, vừa khai phóng... Vừa bảo tồn, vừa biến đổi... Gìn giữ cái hay nhưng đào thải cái dở.. Nhưng chính chúng ta là những người trực tiếp tham dự, đóng góp vào dòng văn hoá đó. Đôi đũa là một di sản dân tộc... Cho đến ngàn sau ta vẫn còn sử dụng nó, nếu ta còn là người Việt.. Nhưng biến đổi, cải tiến cung cách sử dụng... cho thích nghi với nếp sống văn minh hiện đại là điều cần thiết, là phù hợp với dòng văn hóa ngàn đời của ông cha ta... Hiện tại, sau gần bốn năm, kể từ khi phổ biến bài viết nầy, có một số khá đông hưởng ứng. Cứ nhìn cái cung cách sử dụng đôi đũa trong bàn tiệc, trong bữa ăn người ta thấy được điều đó. Nhưng cũng có một số người không hưởng ứng. Nhưng dầu không đồng ý –thậm chí đến mỉa mai, chống đối– nhứt định không thể dữ dội bằng vụ cái búi tóc hai thế kỷ trước. Dần dà bà con thấy là chuyện nên làm thì như sự hiện diện bộ âu phục ngày nay và sự biến mất cái búi tóc ngày trước, đôi đũa sẽ được sử dụng đẹp hơn bao giờ hết.

LÊ QUỐC

Bài Thơ Tháng Chín


Xin vui lòng click vào bài thơ để xem


Kính mới quý Thầy Cô và các Bạn thưởng thức nhạc phẩm NẾU VẮNG ANH, do đồng môn Hoàng Khai Nhan dàn dựng &thực hiện






Hoàng Thi Thơ



Tôi chưa bao giờ đến Quảng Trị nhưng hình ảnh của làng Bích Khê nơi huyện Triệu Phong qua các nhạc phẩm của Hoàng Thi Thơ luôn làm tôi xao xuyến.

Một làng quê có “bóng tre che thôn nghèo”, có “em tôi áo nâu in đường trăng”, có mẹ già “run run đi tìm con” (1) người dân miền Trung ai mà quên được.
Thuở ấy người dân quê nước mình nghèo nhưng cái nghèo sao quá dễ thương, có lẽ vì mảnh ruộng bé nhỏ vẫn là của mình và chưa có hợp tác xã:
Ai nhớ chăng ai
Ai nhớ chăng những ngày
Những ngày rau cháo với dưa cà
Quê nghèo vui sống trong mặn mà
Đời vang lên ngàn câu ca
Mà tình thấy càng bao la
Ngàn lòng như chan hòa”
.
Đó là thuở chưa có đấu tranh giai cấp, dù cuộc sống đạm bạc, trái tim yêu vẫn vô cùng giàu có:
“Ai nhớ chăng ai
Ai nhớ chăng những chiều
Những chiều gặp gỡ nhau trên cầu
Nước trời xanh ngắt in một màu
Lặng nhìn nhau hồi lâu lâu
Rồi tình ta càng ăn sâu sâu
Mối duyên ban đầu”
(2)
Nền tân nhạc Việt Nam thật may mắn khi lịch sử đưa đẩy thế nào để Hoàng Thi Thơ không tập kết ra Bắc mà lại vào Nam để chúng ta có được hơn 500 ca khúc thật chất lượng.
Vậy mà cái tên Hoàng Thi Thơ cùng với Phạm Duy đã bị chôn sống sau 1975 đến mấy mươi năm . Một thế hệ người trẻ ở VN không có may mắn được tưới mát tâm hồn bằng những khúc nhạc nồng nàn của hai vị nhạc sĩ lỗi lạc.
Rồi thời thế lại thay đổi. Ca khúc của hai ông lại đội mồ sống dậy.
Sáng nay, trời đã vào thu, trong cái se lạnh của tuổi già, ngồi nghe lại một ca khúc của Hoàng Thi Thơ bổng mỉm cười nghiệm ra nhiều điều thú vị.
Tôi muốn nhắc đến bản “Một Lần Cuối”.

Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ
Người đàn ông Hoàng Thi Thơ khi rời khỏi ngôi làng có “khói chiều vương vấn mái tranh nghèo” (2) xuất hiện sáng chói nơi ánh đèn đô thị, ông đã trở thành một Don Juan thứ thiệt.

Ca khúc “Một lần Cuối” của ông theo ý riêng của tôi sướt mướt bằng mười bài Không Tên của Vũ Thành An gộp lại.
Hãy nghe Hoàng Thi Thơ kể lể:
“Anh vuốt tóc em
Anh vuốt tóc em
Một lần cuối cùng rồi thôi”
Không tưởng tượng được lời văn hoa mỹ của ông:
“anh hốt trăng thanh
Trên áo em xanh
Một lần cuối
Như những lần đó xa xôi”
Rồi ông tiến thêm một bước:
“Anh nắm tay em
Anh nắm tay em
Để thấy đời êm lần cuối
Một lần cuối cùng thôi em ơi”
Bước thứ ba là tận dụng sở trường:
“Anh hát cho em nghe
Anh hát cho em nghe
Một lần cuối cùng rồi thôi”
Bước thứ tư là hăm dọa:
“Anh chết trong mắt em
Anh chết trong mắt em
Một lần cuối như những lần đó xa xôi”
Cuối cùng nếu nàng vẫn chưa ngã gục ông dùng tuyệt chiêu ít ai nghĩ ra:
“anh khóc trên vai em
Anh khóc trên vai em
Một lần cuối cùng rồi thôi”
Tôi tin rằng khó có người con gái nào mà không xiêu lòng trước người đàn ông quá nhiều kinh nghiệm tình trường này.

Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ
Tôi đã nghe Quang Dũng, Quang Lê hát bài này nhưng đến khi nghe bản thu Chế Linh hát “Một Lần Cuối” trước 1975 thì mới thấy Quang Dũng và Quang Lê chỉ là những anh con trai mới lớn chẳng biết gì về đàn bà.
Ai cũng biết câu “Đàn ông yêu bằng mắt, đàn bà yêu bằng tai”.
Dễ hiểu tại sao các nhà văn, các nhà thơ, các họa sĩ khó chinh phục được trái tim của các giai nhân.
Các giai nhân thường thích đi shopping chứ ít chịu khó ngồi đọc sách, ngâm thơ hay đi xem tranh ở các gallery.
Lợi thế thuộc về những lời nỉ non lọt vào tai nàng của các chàng nhạc sĩ, ca sĩ.
Ngày xưa nàng Mỵ Nương ở chốn lầu cao. Dinh thự của cha nàng năm tầng bảy lớp tường rào nhưng không ngăn nổi tiếng sáo của chàng Trương Chi nương theo không khí chạm vào trái tim nức nở của nàng.
Nghe Chế Linh hát “Một Lần Cuối” của Hoàng Thi Thơ, tôi nghĩ hai ông đã làm tan nát trái tim không phải chỉ một nàng Mỵ Nương.
Việt Nam Cọng Hòa tồn tại chỉ 20 năm nhưng đã đủ dưỡng khí để cho hàng ngàn bài hát ra đời trong tự do, không bị định hướng. Những ca khúc thuở ấy có hay, có dở, có cao sang, có bình dân, có nghiêm chỉnh đằm thắm , có lẳng lơ tình tứ, có nói thật , có nói láo, nhưng sống động, đầy màu sắc như chính cuộc đời.
Huyền Chiêu 
tháng 9- 2016
(1) Đường Xưa Lối Cũ -HTT
(2) Ai Nhớ Chăng Ai – HTT


Xin mời click vào link để nghe nhạc


Chế Linh - Một Lần Cuối - Thu Âm Trước 1975 - YouTube


https://www.youtube.com/watch?v=Y-xoEeSOCxE

Nov 27, 2014 - Uploaded by Nhạc Thu Âm Trước 75
Chế Linh - Một Lần Cuối - Thu Âm Trước 1975 ... Album Chế Linh Vol 1 - Nụ Cười Chua Cay (Một Lần Hiện Diện) Pre 75 ...



Tên khai sinh
Hoàng Thi Thơ
Sinh
Mất
Nghề nghiệp
Nhạc sĩ, Đạo diễn, Giáo viên
Ca khúc tiêu biểu
"Duyên quê", "Đám cưới trên đường quê", "Đường xưa lối cũ", "Gạo trắng trăng thanh", "Rước tình về với quê hương", "Trăng rụng xuống cầu", "Tạ tình", "Rong chơi cuối trời quên lãng",...

Cõi Già Trên Đất Lạ



(Aging in a Foreign Land!)

Người Việt có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu nói này thật là thấm thía. Mỹ có tất cả những sản phẩm dành cho thanh thiếu nhi: đồ chơi, phim ảnh, máy chơi điện tử thính thị, khu giải trí có chủ đề (theme parks).  Còn đối với người già, thì chỉ có sự cô lập và nỗi cô đơn.
Căn bản nếp sống của người Việt dựa vào gia đình, cộng đồng, và khi ta mất những cái đó, ta mất đi một phần lớn cái tôi. Khi còn sống ở Việt Nam, tôi không bao giờ nghĩ đến việc sinh sống tại một nơi nào khác ngoài quê hương. Ta sống và chết nơi tiền nhân đã sống và đã chết. Ta có thân nhân, giòng họ; ta có gia đình, có những miếu đền.
Một khi ta đã quen miền đất với mồ mả tổ tiên, ta sẽ không còn sợ tử thần và cái chết. Nhưng tại Mỹ, lối sống cũ của chúng ta không còn nữa. Ngày nay, bạn bè và thân nhân của chúng ta tản mạn khắp nơi trên thế giới.
Tại Mỹ, càng già càng mất mát nhiều – bạn bè, thân nhân, trí nhớ, khả năng di chuyển, và ý nghĩ của chính mình. Chuông điện thoại kêu. Tôi nhấc ống máy. Đây là bà tên-này-tên-nọ ở Los Angeles. Bà mắc bệnh tiểu đường và mới bị cưa chân. Rồi chuông điện thoại lại reo nữa: Ông tên-ni-tên-nớ ở Georgia bị ung thư phổi, chỉ còn sống khoảng vài tháng. Ở Việt nam, chúng tôi đều là bạn thân. Nhưng với cái tuổi đời chồng chất như tôi, tôi làm sao đến thăm họ được khi họ hàng ngàn cây số cách xa? Làm sao ta tưởng tượng được đến việc gọi điện thoại cho người bạn thân khi họ nằm chờ chết trong bệnh viện, để nói lời xin lỗi là không thể tận mình đến viếng thăm được lần cuối. Ấy vậy, tôi làm điều này mỗi tháng, buồn lắm.
Tôi và chồng tôi, chúng tôi dự định đi một chuyến du lịch Âu châu vào kỳ hè tới đây. Chuyến đi này là chuyến đi cuối cùng, để nói lời giã biệt thân nhân bè bạn. Chúng tôi biết là sau chuyến đi này, chúng tôi sẽ không đi đây đi đó được nữa vì sức khỏe đã kém, sẽ không thấy mặt họ nữa. Tôi gần như không bước xuống được cầu thang nhà vì đầu gối chân rất đau. Nhà thì đã bán, giờ thì chúng tôi ở trong một chung cư có thang máy vì đó là điều kiện duy nhất mà chúng tôi có thể sống độc lập không nhờ vả đến ai bây giờ.
Điều mà tôi quan tâm nhất là trí nhớ suy sụp rất nhiều. Tôi là người giữ gia phả của giòng họ, nhưng tất cả đều nằm ở trong đầu. Biết ai liên quan với ai như thế nào trong họ là nghề đặc biệt của tôi, người con gái trưởng trong nhà. Nhưng không một đứa con nào của tôi biết được những mối dây liên hệ gia đình trong gia tộc, ngay cả đến những người em của chính tôi. Không có tôi, họ hàng thân thích sẽ trở thành kẻ xa lạ nếu tình cờ gặp nhau trên đường phố. Tôi có thể nhớ đến được những bà con cô dì chú bác ba đời của gia đình bên tôi và của cả bên chồng. Tôi phải viết xuống trước khi trí nhớ tôi lụt hết.



Thỉnh thoảng vào buổi sáng khi thức dậy, tôi lặng nhìn cây cối ngoài phố và tự hỏi tôi đang ở nơi nào. Đôi lúc, tôi đi sang khu chung cư kế cận, nơi có một số mèo hoang, và cho chúng ăn những thức ăn thừa. Khi tôi cất tiếng gọi, chúng nhận ra giọng nói của tôi và bổ xua lại. Bây giờ, chúng là những niềm vui nhỏ của tôi.
Đương nhiên những ngày hạnh phúc nhất là những ngày con cháu đến thăm. Nhưng chúng cũng có đời sống riêng, thỉnh thoảng chỉ đến chơi được một lúc rồi về, tôi làm gì cho hết những khoảng thì giờ trống trải sau đó?
Mẹ tôi, bà mất năm bà 97 tuổi, và mẹ chồng tôi, qua đời lúc 95 tuổi; cả hai người có sống chung trong một khu dưỡng lão nhiều năm. Tôi thường đi xe buýt đến thăm hai bà mỗi ngày, ngay cả khi còn đi làm. Từ lúc đó tôi đã biết cái thảm não của người già trên đất Mỹ, ngay khi tôi còn trẻ trung mạnh khỏe. Các nhân viên điều dưỡng ở đó thường nói với tôi là hai bà có phước lắm, thường có được con cháu đến thăm. Tôi trả lời: “Đó là lối sống của người Việt Nam”. Còn những người già khác, con cháu họ ít đến. Tôi có nhớ một số bà lão, ngồi trên những chiếc xe đẩy, ngóng trông con cháu hay người thân, ngày này qua ngày khác, nhưng chẳng thấy ai. Có cả một bà cụ, cụ còn sống lâu hơn những người con trai; mỗi ngày bà vẫn ngồi chờ trông mong hình ảnh người con trai bước qua khung cửa. Thật tội nghiệp khi người ta sống dai như vậy trong sự cô đơn!
Ở xứ Mỹ này, tuổi già đúng là tuổi lỡ thời; cả hai đều không được người ta kính nể hay cho một chút gì quan trọng. Ở quê nhà, các ông già bà lão thì được nể vì nhất, vì họ là những người chia xẻ túi khôn cùng kinh nghiệm cho những người đi sau. Điều đó không có ở đây. Không ai muốn nghe tiếng nói của người già. Họ cảm thấy bị cô lập ngoài vòng ranh giới của con cháu Mỹ hóa của họ. Chúng cười vang về nhiều thứ mà tôi không hoàn toàn hiểu được. Mỹ đúng là một quốc gia của giới trẻ hơn là giới già như tôi.
Vào những buổi chiều mùa đông, tôi ngồi nhìn những hàng cây trơ trụi lá, tâm hồn lạc lõng. Tôi nghĩ về cái thế giới mà tôi đã biết, nay đã bay xa, như làn khói hương trầm. Tôi nghĩ đến cố hương, đến những mùa lễ Tết ở Saigon, đến những đám cưới, đám hỏi, đến những chuyến du lịch, những lần tíu tít họp mặt gia đình, ai ai cũng có mặt, con nít chạy quanh, người lớn ngồi nói chuyện đời chuyện gẫu, đàn bà con gái quây quần chung lo việc bếp nước. Và tôi cảm thấy rất khao khát những ngày quá khứ xa xưa.
Andrew Lâm (Aging in a Foreign Land) 
Cõi Già Trên Đất Lạ [Nguyễn Đức Nguyên chuyển ngữ]
thuật lại theo lời kể của mẹ anh, bà Ngọc B. Lâm.



Andrew Lâm