Nhân dịp Hội Ngộ 2016 - CHS Nguyễn Huệ và Thân Hữu tổ chức vào tháng 12 sắp đến.
Kính mời quý Thầy Cô và các bạn ôn lại những kỷ niệm êm đẹp một thời chung sống dưới mái trường Nguyễn Huệ thân yêu qua hồi ký THƯ CHO BẠN của hai đồng môn Lê Nguyễn Hằng và Nguyễn Hữu Hoàng.
Trân trọng giới thiệu,
NHHN
Hoàng mến,
Thật là một sự ngạc nhiên kỳ thú khi được anh Nhượng cho biết
là Hoàng gửi lời thăm tôi sau cả một nửa thế kỷ xa cách, biệt tăm.
Không ngờ bài bút ký “Những Ngày
Xưa Thân Ái” của tôi đăng trên trang “Cánh
Chim Tìm Đàn” của trường Nguyễn Huệ đã mang cho tôi may mắn nối
lại tình thân với mấy con chim lâu nay tản mát bốn phương trời.
Hoàng không tưởng tượng được tôi đã vui mừng như thế nào khi bắt liên lạc được với bạn, người bạn không những học cùng lớp với tôi trong suốt
thời Tiểu Học qua đến Trung Học Đệ Nhất Cấp, mà còn là hàng
xóm của tôi trong khu “Bắc Kỳ Di Cư” nữa. Dù trải qua bao vật đổi sao dời, tôi vẫn không bao giờ quên quãng đời thơ ấu đầy biến đổi đó.
Những kỷ niệm còn đầy ắp trong tim, từ lúc bỏ miền Bắc ra đi đến những ngày định cư nơi một thành phố xa lạ. Cuốn phim dĩ vãng lại từ từ hiện về với bao cảm xúc bồi hồi
của cái Hằng bé bỏng, vai đeo đẫy quần áo và tay nắm vạt áo Mẹ lon ton chạy theo sau
lưng đểcùng Bố và các anh chị em leo lên máy bay bỏ nơi chôn nhau cắt rốn ra đi. Lúc đó tôi chỉ mới học xong lớp 5
trường Lê Ngọc Hân, Hà nội, tương đương với lớp một bây
giờ.
Sáng hôm ấy, một buổi sáng chớm thu năm 1954, ngồi trong máy bay nhìn xuống phi trường Gia Lâm, Hà
Nội mà lòng buồn rười rượi, tôi chưa đủ lớn để cảm được nỗi đau lòng sắp phải xa chốn mình sinh ra và lớn lên, nhưng buồn vì
thấy Mẹ đi ra đi vào một cách vô hồn,
rồi sụt sùi quệt nước mắt gói ghém quần áo để đem theo, mổi người
một cái tay nải nhỏ, hành trang bỏ quê cha đất tổ ra đi chỉ có thế! Ngồi trong lòng
Mẹ, thỉnh thoảng nghe tiếng nấc nhè nhẹ, Mẹ ôm chặt lấy tôi như thể sợ tôi cũng sẽ vuột mất khỏi tầm tay
người như những gì thân yêu nhất đã phải bỏ lại. Tôi biết Mẹ đang khóc. Tôi thiếp đi trong lòng Mẹ cho đến khi những tiếng nhốn nháo nổi lên khắp máy bay.
Phi cơ đáp nhẹ nhàng xuống phi trường
Tân Sơn Nhất, Saigon. Mọi người đều ngơ ngác, xôn xao như đàn gà con mất mẹ, chưa biết
sẽđi về đâu?tương lai rồi sẽ ra sao? Tiếng gọi nhau ơi ới, mẹ gọi con, vợ gọi chồng vang lên khắp
nơi.
Nắng Saigon rực rỡ nóng bỏng chào đón chúng tôi. Chẳng bao lâu một đoàn xe đưa chúng tôi đi vào thành phố và hướng về trại tạm trú ở Cầu Chữ Y.
Saigon đẹp quá, nhộn nhịp, ồn ào, với những căn nhà đồ sộ, xe cộ dập dìu, không giống một
tí gì trong trí tưởng tượng non nớt của tôi. Saigon như một cô con gái nhà giàu, đẹp lộng lẫy và kiêu sa,
khác hẳn với Hà Nội của tôi, một cô bé nhu mì, dịu hiền mà vẫn duyên dáng. Mọi
người trong xe đều dán mắt vào cửa kinh để nhìn ra bên ngoài, chiêm
ngưỡng một thành phố lạ, xa hoa, tưng bừng,
náo nhiệt, quên mất những lo âu trong lòng về một tương lai vô định. Đa số, họ là những người chưa từng đi ra khỏi nơi chôn nhau
cắt rốn của mình cho đến ngày hôm nay. Từ khi vào thành phố, một luồng khí mới đã thổi vào trong xe, những
khuôn mặt ưu tư biến mất, thay vào đó là sự hân hoan, hăm hở như thể mọi người đều sẵn sàng hòa nhập vào cuộc sống mới ồn ào, náo nhiệt ngoài kia, nhất là đám con nít chúng tôi.
Tôi ngước nhìn Mẹ, thấy một nụ cười rạng rỡ và giọt nước mắt âm thầm lăn trên má, Mẹ ôm và hôn lên tóc tôi. Tôi vẫn không hiểu tại sao Mẹ khóc. Người bóp tay tôi thật chặt, nhưng tôi không giám rút ra. Cảm
giác đó tôi vẫn còn ôm ấp trong tim cho đến bây giờ. Sự xúc động của Mẹ ngày ấy, bây giờ tôi đã cảm nhận được khi hiện tại, chính
tôi cũng là một người mẹ phải bỏ nước ra đi lúc “biến cố 30 tháng 4” xảy ra. Lịch
sử là một sự lập lại như ai đó đã từng nói, tôi bây giờ là hình ảnh của Mẹ “năm 54”.
Tôi còn nhớ rất rõ, hôm ấy là chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, họ cho tôi hai tiếng đồng hồ để gói ghém chỉ một kí lô hành lý cho mỗi
người mang theo. Cũng như Mẹ khi xưa, tôi thẫn thờ đi ra đi vào như một cái xác không hồn và nước mắt đầm đìa. Làm sao tôi có thể gói gọn những gì vợ chồng tôi làm lụng vất vả và dành dụm trong mười
mấy năm qua vào túi nặng 5 kí lô đây? Quê hương yêu dấu còn phải bỏ lại thì sá gì những món đồ vô nghĩa kia? Tôi chỉ xếp vào túi cho mỗi người một bộ quần áo và mấy quyển
album đựng hình ảnh của gia đình tôi vì những báu vật này không
thể nào có lại được nữa, hành trang lìa
bỏ đất nước thân yêu ra đi chỉ có thế! Chẳng mấy chốc đã tới giờ hẹn, gia đình tôi đến phi trường chờ đợi
trong hốt hoảng, bàng hoàng và đau đớn. Hốt hoảng, bàng hoàng vì không biết mình có may mắn
thoát được cơn hồng thủy này không và nếu thoát được thì lại đứt ruột vì phải bỏ quê hương và xa bà con, bạn bè. Sáu giờ sáng hôm sau, chúng tôi
lên máy bay của Quân Đội Hoa Kỳ với cõi lòng tan nát. Khi máy bay vừa cất cánh, mọi người Việt Nam
trong máy bay đều khóc òa lên vì nghĩ rằng lần bỏ nước ra đi này là một chuyến đi vĩnh viễn không có
ngày trở lại. Chẳng ai bảo ai,
chúng tôi đồng loạt hát bài Quốc Ca
Việt Nam Cộng Hòa trong nghẹn ngào cho đến khi khản tiếng.
Thế rồi khi đến Hoa Kỳ, chúng tôi bị choáng ngợp bởi hình ảnh một nước Mỹ to lớn, xa hoa, đầy cơ hội. Hai đời người, một khoảng cách 20 năm, hai không gian khác nhau nhưng
Mẹ và Tôi, hai người đàn bà trẻ, đã có cùng một cảm xúc và một
mối thương lòng phải xa lìa nơi chôn nhau cắt rốn! Bây giờ tôi đã hiểu vì sao Mẹ khóc, có những giọt nước
mắt cho thương đau và có những giọt nước mắt cho
hân hoan vì vừa trút được bao nỗi lo lắng
trong lòng.
Trở lại với thời 54, sau khi
liên lạc đuợc với Bác Hai, chị của Bố, chúng tôi rời trại tạm cư Cầu Chữ Y, dọn ra tá túc nhà Bác để chờ chính quyền phân phối đi địa phương như những gia đình công chức khác.
Trong thời gian tạm trú ở Saigon, những ngày đi học tôi cứ bị mấy đứa bạn người Nam chọc ghẹo, chúng nó nói với nhau rằng “con nhỏ này nói gì tao hổng hiểu, chắc nó hổng phải là người Dziệc (Việt)
bay ơi”, rất may, tôi không bị tụi nó hành hạ quá lâu.
Ba tháng sau, gia đình tôi lại một lần nửa,
khăn gói quả mướp di cư ra Tuy Hòa, Phú Yên. Chúng tôi được cấp một căn nhà trong khu “Bắc Kỳ Di Cư”, chỉ là nhà tranh vách lá. Thỉnh thoảng, nửa đêm đang cơn ngủ mê bị đánh thức vì những tiếng la hét cháy nhà. Một sơ ý nho nhỏ cũng đủ thiêu rụi mấy căn nhà, có lần nguyên cả khu chìm trong biển lửa. Do đó, đợt thứ hai được lên cấp là ở nhà tranh vách đất, đỡ bị cháy hơn.
Thời gian này, dù là con gái, chúng tôi cũng không có guốc mà đi dép làm bằng vỏ lốp xe, lúc đầu bị đau chân, nhưng
mãi rồi cũng quen.
Ở cùng một khu, nhà sát
vách nhau, đám con gái chúng tôi vừa
bế em vừa nhảy dây, chơi chuyền, ô quan, rải ranh, u quạ và cùng tắm chung ngoài giếng công cộng lúc trời tối. Buổi trưa, rủ nhau qua bãi tha ma bên kia đường hái trái dâu, dú
dẻ, chim chim, dãi nắng suốt mùa hè. Buổi tối chúng tôi đi theo những đốm lửa chớp sáng lung
linh để bắt đom đóm, bỏ chúng vào trong một cái ly thủy tinh, ánh sáng rực rỡ tuyệt đẹp. Những trò chơi
tiêu khiển rất đơn sơ và nghèo nàn không tốn tiền,
nhưng lại hạnh phúc một cách hồn nhiên.
Thời gian thần tiên đó chỉ kéo dài được vài tuần thì Thầy Cẩn, một thầy giáo cũng “Bắc Kỳ di cư” nhớ nghề cũ nên không đành lòng nhìn đám con nít lêu lổng,
thầy bèn mở một “trường học bỏ túi” ngay trong cái miếu bỏ hoang gần cây đa cổ thụ để dạy dỗ tụi con nít. Bọn mình gọi đó là “lớp thập cẩm” vì mọi
người đều học chung một lớp bất kể thứ bực và tuổi tác.
Lớp học thật đơn sơ, bàn ghế là mấy miếng gỗ mục kê trên vài cục gạch
bể lúc nào cũng lung lay và trông rất thảm hại, bút mực là ngòi viết
buộc vào cây đũa, chấm vào nước quả mùng tơi màu tím, thế mà lũ học sinh vô trật tự đó cũng chịu khó tới “lớp
miếu” cho đến khi thầy Cẩn về Bộ Giáo Dục, xin được mấy gian nhà tranh làm “Trường Nam Tiểu Học”. Vài năm sau,
Trường Nữ Tiểu Học ra đời, nhưng đám con gái lớp mình vẫn
tiếp tục sát cánh với bạn học sinh con trai học ở Trường Nam vì Trường Nữ chưa có lớp cao.
Thế rồi những năm Tiểu Học
qua rất nhanh và bỗng một ngày chúng mình trở thành những chàng thanh
niên bảnh bao và những nàng thiếu nữ duyên dáng, học sinh của
Trường Trung Học Nguyễn Huệ, nghe oai ghê chưa!
Từ nãy đến giờ tôi toàn nói những chuyện
bạn đã biết, nhưng Hoàng ơi! nhắc lại chuyện xưa tích cũ càng thấy ấm lòng. Thêm nữa, rồi tôi sẽ “mách” chuyện của phe
“kẹp tóc” cho bạn nghe.
Thư đã dài rồi, hẹn lần sau. Kèm
theo đây là tấm hình chụp chung cả lớp một thời…
Hằng
Hằng
Từ phải: Vũ Thị Thiêm, Lê Thị Chính, Cao Thị Phượng, Nguyễn Thị Nghiêm
Hằng mến,
Bức hình Hằng gởi cho tôi, không
nhận ra ai cả. Mọi người đều rất trưởng thành và chững chạc. Có lẽ lâu quá
rồi, cả hơn năm chục năm rồi còn gì, thời gian đã phủ nhiều lớp bụi dày trên ký
ức mơ hồ của tôi. Cũng có thể bức hình chụp lúc tôi đã đi khỏi Tuy Hòa.
Hồi nhỏ, Lập, Long, Tuấn, Hoành và
tôi rất thân nhau Chúng tôi chỉ là mấy đứa con nít học trong lớp có nhiều bạn
lớn tuổi, nên ít ai để ý.
Nhà Long ở sát vách nhà tôi trong
trại di cư. Ông Nội Long và Ông Nội tôi có mối thâm tình đặc biệt mà chỉ có
Long và tôi biết thôi. Long học rất giỏi nên Nội tôi vẫn lấy Long làm gương mà
khuyên tôi chăm chỉ học hành. Hắn ít khi ra khỏi nhà, ngoài giờ học tôi chỉ gặp
hắn ở giếng nước giữa trại di cư để tắm. Hắn với tôi có lẽ cùng một hoàn cảnh
là sống cô đơn giữa gia đình vì không có cha mẹ bên cạnh, lúc nào cũng lủi thủi
một mình.
Tôi thường ngồi ở bàn sau mấy chị
lớn trong lớp (con gái ngồi 3 bàn đầu). Tôi nhớ hai người lớn con nhất trong
lớp, cỡ tuổi có thể lập gia đình được rồi. Đó là anh Nguyễn văn Thành và chị
Mai Thị Thảnh. Anh Thành người Bắc rất nghịch ngợm. Anh thường rủ chúng tôi cầu
cơ mà phải con “CƠ” làm bằng ván “thiên” đàng hoàng đó nghe. Mọi người đưa ngón tay trỏ đặt vào con
"CƠ" rồi xem nó chạy, anh hay đặt những câu hỏi cắc cớ rồi
chờ "Cơ" trả lời. Tỷ như "Thằng Tuấn thương con
nào?" Dĩ nhiên mặt Tuấn đỏ gay cãi "Xí, tui hổng có thương ai
hết trơn á". Con cơ chạy về một số chữ ráp lại thành tên của một cô nào đó
trong lớp, thế là cả đám chọc Tuấn đến khóc luôn. Bọn con nít tin cơ linh lắm,
nên rất sợ mỗi khi anh Thành rủ chơi "CẦU CƠ". Tôi đoán là anh
ấy đẩy con cơ chứ đâu phải linh thiêng gì.
Anh hay rủ chúng tôi chơi "u
quạ", đứa nào cũng bị anh vật sứt trán, trầy sát tay chân. Có khi anh rủ
chúng tôi vào ruộng mía bẻ trộm, nhưng có động tĩnh gì là anh chạy nhanh lắm,
bỏ lũ chúng tôi lại bị cú xưng đầu. Những ruộng mía để làm đường thẻ, mênh mông
bát ngát, chui vào giữa ăn cả ngày cũng chẳng ai biết. Ngược lại, chị Thảnh it
nói và hiền hậu, vả lại chị cũng lớn tuổi đáng chị cả của chúng tôi, không đứa
nào dám chọc ghẹo chị. Có một lần anh Thành nói mấy thằng ngồi sau bàn con gái
là "Bợ đít con gái", tôi tức lắm bèn gán chị Thảnh cho anh ấy. Thế là
cả bọn chúng tôi nhao nhao lên "Anh Thành bợ đít ..."
Buổi chiều sau khi tan học, chúng
tôi thường rủ nhau đi tắm biển, cho đến một hôm, anh bạn ở gần nhà tôi bị chết
đuối, từ đó không đi tắm biển nữa, quay sang đá banh. Đá banh trên ruộng khô
cằn, bằng chân trần, chẳng ai có giầy. Nhiều khi đuổi theo banh ngã lăn
vào bụi gai bàn chải, bạn bè kéo ra nhổ gai giùm, thê thảm lắm!
Sau này Tuy Hòa lập một sân vân động
gần trại di cư Bắc Kỳ, chiều nào tôi cũng ra đó đá banh, hay thảy bóng rổ,
tập thể thao. Tôi nhìn mấy anh làm việc trong Ty Thanh Niên, ngay trên sân vận
động, anh nào cũng tập tạ bắp thịt vồng lên cuồn cuộn, thấy mà ham. Tôi cũng
bắt chước đứng trước gương vặn mình, gồng tay khoe bắp thịt. Một anh đi ngang
thấy vậy chỉ cần một tay đã nhấc bổng tôi lên và nói “người như con nhái mà làm
tàng…”
Tôi học hành thì cũng làng nhàng
thôi, chỉ mê đọc truyện và giải toán, nhất là toán hình học không gian. Toán
càng khó tôi càng thích. Nhiều khi đi học buổi trưa lội bộ dưới trời nắng chang
chang nhưng tôi vẫn mải mê giải toán hình học trong đầu, đi ngang qua cổng
trường lúc nào không biết. Còn đọc truyện thì khỏi chê, nhiều khi ngồi trong
lớp cũng dấu một quyển truyện dưới hộc bàn.
Ông Nội tôi rất quan tâm đến việc học hành nên nhiều khi cụ nằm lim rim
trên giường, kêu thằng cháu ngồi dưới chân quạt hầu cụ và nghe giảng “moral”.
Bài “luân lý” thường dài cả tiếng đồng hồ, tay tôi vẫn phất phơ cái quạt nan,
đầu óc thì mơ mơ màng màng ngủ gà ngủ gật, chỉ chờ Nội nói “Cút Xéo!” là mừng
lắm dông tuốt đi chơi. Thời trung học đệ nhất cấp tôi đã đọc hết các sách của
nhóm Tự Lực Văn Đoàn, thêm vào là các tác giả như Lê Văn Trương, Vũ Trọng Phụng
v…v…
Nhà Tuấn ở gần chân núi Nhạn, mẹ
Tuấn rất thương tôi, nên tôi hay lại đó kiếm ăn và rủ nhau leo núi hái trái
sim, có lần chọc đàn khỉ bị chúng rượt, hai đứa chạy tóe khói. Tôi đặt cho Tuấn
biệt danh "Thằng Khỉ Đuổi" mặc dù khỉ đuổi cả hai chúng tôi. Tuấn rất
có hoa tay, anh chàng nặn tượng đẹp khỏi chê, cho nên giờ thủ công tôi luôn
luôn làm chung với hắn để được điểm cao. Ngược lại, tôi và hắn làm toán chung,
dĩ nhiên phải chia sẻ rồi. Có lần Thầy Toản bắt Tuấn lên bảng giải bài tập,
Thầy bảo sai, cho zero, tôi đứng lên cãi cho hắn, thế là cả hai bị đuổi ra khỏi
lớp. Thầy nói một câu làm tôi nhớ đời "Xứ mù thằng chột làm vua mà bày
đặt". Tôi chẳng oán hận gì Thầy, chỉ sợ bị đuổi khỏi trường thôi. Nhất tự
vi sư, bán tự vi sư, mà Thày đã dạy tôi rất nhiều, ơn Thầy tôi chẳng bao giờ
dám quên. Từ đó cứ đến giờ Thầy, hai chúng tôi phải ra khỏi lớp, đứng cửa mà
nghe giảng bài để chừa cái tội dám cãi Thầy.
Sau năm học đó tôi dọn vào Saigon
với Lập, bỏ Tuấn ở lại bơ vơ một mình.
"Gió đưa cây cải về trời, rau
răm ở lại chịu đời đắng cay!"
Lúc ở Sàigòn một hôm tình cờ gặp
Tuấn, tôi dẫn hắn về nhà chơi trên căn gác trọ. Chúng tôi nối lại tình bạn xưa
rất thắm thiết, hắn thường lại chơi ngày cuối tuần và dạy Yoga cho tôi, được
vài lần lại biến mất. “Người đi qua đời tôi, không nhớ gì sao người!”
Long cũng vậy, tôi chỉ gặp hắn một
lần trong tòa Đại Sứ Mỹ. Hắn đi với một người ngoại quốc, gặp nhau hỏi thăm qua
loa rồi đường ai nấy đi vì cả hai đều rất bận rộn.
Bây giờ nghe bài hát “Nếu có Yêu
Tôi” của Trần Duy Đức tôi thấy thật thấm thía. Chúng ta lúc trẻ vì quá bận rộn
cho cuộc sống, nên đã thờ ơ với bạn bè gia đình, anh em.
“Có tốt với tôi thì tốt với tôi bây giờ. Đừng đợi ngày mai
đến lúc tôi xa người. Đừng đợi ngày mai đến khi tôi phải ra đi. Ôi muộn làm sao
nói lời tạ ơn”.
Bạn có nhớ Nguyễn Hóa học lớp mình
không? Anh chàng cao ráo, trắng trẻo, đẹp trai đó mà, tôi nhớ chàng còn có má
lúm đồng tiền nữa đó. Có lần Hóa theo một người đẹp trong lớp mình vào tận Nha
Trang. Tôi hỏi hắn có gặp nàng không? Hắn nói chỉ leo lên cây nhìn vào nhà
thôi, người nhà thả chó ra đuổi, hắn sợ quá tụt xuống dông tuốt về Tuy Hòa.
Tuổi trẻ bồng bột và si tình như vậy kể là hiếm có! Thời buổi đó đi lại rất khó
khăn, từ Tuy Hòa vào Nha Trang còn khó hơn là từ Việt Nam qua Mỹ bây giờ.
Tôi với Lập vô Saigon học nốt mấy
năm cuối cùng ở Chu Văn An. Lập tốt nghiệp cao học Dược Khoa, còn tôi phải vừa
đi làm kiếm sống vừa đi học vất vả lắm nên mấy năm “Học Đại” chẳng nên cơm cháo
gì, được vài cái chứng chỉ vớ vẩn thôi. Sau ngày mất nước, Lập có liên lạc với
tôi nhưng rồi nói chuyện không hợp, nên mất tin tức đã lâu.
Tôi không có nhiều kỷ niệm với Hoành,
chỉ nhớ hắn tên Phan Huy Hoành, gia đình công chức, nề nếp ở ngoài trại di cư.
Hoành có mấy bà chị rất thương tôi, hay cho ăn cơm chung với hắn và ngắm “hoa mười
giờ”. Những chùm hoa sặc sỡ thật đẹp. Mỗi lần đến chơi nhà Hoành tôi thấy tủi
thân và rất cô đơn vì sống xa cha mẹ. Tôi chơi thân với hắn có lẽ vì không khí
gia đình ấm cúng đó. Lên trung học một thời gian ngắn hắn theo gia đình đi khỏi
Tuy Hòa.
Các bạn trai khác tôi không nhớ
nhiều lắm nhưng chơi và học chung có Trần Tứ Lân, Lân hay bị bạn bè chọc ghẹo
vì hiền lành như con gái. Đặng Quốc Hiển, tài hoa và học giỏi, tôi nhớ trong
cuốn “Lưu bút ngày xanh” có chữ và hình của Hiển. Ngô Hồng Phương, theo tôi
biết có lúc đi du học bên Pháp về ngành giáo dục.
Các bạn gái tôi không nhớ nhiều lắm,
chỉ một vài người học chung từ tiểu học. Những cô con gái “Bắc Kỳ nho nhỏ” hay
“Tiểu Thư đất thần kinh” đẹp và ngây thơ như Thiên Thần, Hằng, Hạnh, Cẩm, Tấm, Chính,
Phượng... Bạn hỏi tôi có “trồng cây si” cô nào không hả? Con gái bằng tuổi với con trai thì họ khôn
bằng chị hai của mình. Không dám đâu!
Thư dài rồi, chờ bạn kể về những “bí
mật” của phe kẹp tóc đấy.
Hoàng
Hoàng
Từ trái: Nguyễn Thị Nghiêm, phu nhân Phạm Phích, Phạm Phích, Trần Khánh Toàn
Hoàng mến,
Bạn đã thao thao bất tuyệt về mấy người trong “phe húi cua” rồi, thì tôi cũng phải giữ lời hứa bật mí đôi điều về “phe kẹp tóc”.
Gọi là phe kẹp tóc chứ thật ra ở Tuy Hòa dạo ấy, bọn con gáichúng tôi toàn
là “tóc thề thả gió lê thê” ngắn ngang vai hoặc cùng lắm là dài ngang lưng thôi. Hồi đó chưa có xà phòng để gội đầu nên lúc nào tôi cũng nấu lá hương nhu với lá dứa và bồ kết để gội rồi sả bằng nước cốt chanh, nhờ vậy lúc nào tóc cũng bóng, mượt và thơm.
Khi còn ở Tiểu Học, con gái bao giờ củng ngồi những bàn trên cùng rồi mới đến con trai.
Riêng Hạnh và tôi, lúc nào cũng ngồi bàn đầu và sát cạnh nhau vì chúng tôi đã nhỏ tuổi lại nhỏ con. Hai đứa tôi cùng là con công chức di cư, cùng cỡ tuổi, cùng nổi tiếng là “cây gạo”, và cùng rất sợ thầy cô nên hình như Hạnh và tôi chưa bao giờ dám “cúp cua”, chúng tôi
thân nhau đến nỗi cắt tóc và mặc quần áo giống nhau. Thêm nữa, cuối năm lớp nhất, Hạnh và tôi cùng được đại diện trường đi dự “Trại Hè Nha Trang” tổ chức cho học sinh toàn quốc, đó là một “biến cố” vì nếu không thì chẳng biết bao giờ chúng tôi mới có tiền để “đi du lịch” như vậy.
Tôi và Hạnh chơi rất thân, hình như số phận đã ràng buộc chúng tôi với nhau. Hai đứa ngồi cạnh nhau trong cả hai kỳ thi Tú Tài I và II.
Sau này, chúng tôi cùng thi đậu vào Trường Sư Phạm nhưng chỉ có Hạnh theo đuổi nghề gõ đầu trẻ, còn tôi vì nhà nghèo
nên phải ở lại Tuy Hòa đi làm giúp đỡ gia đình.
Chúng tôi mất liên lạc cho mãi đến năm 1974, gặp lại nhau ở Saigon thì cả hai đã tay bế tay bồng.
Biến cố 75 làm chúng tôi mất liên lạc một lần nữa. Bỗng năm 1983, được tin Hạnh đã một mình vượt biển mang được ba đứa con qua định cư ở Quận Cam với người em ruột, cả gia đình tôi lập tức xuống vùng Nam California để gặp Hạnh. Phút tương phùng, chúng tôi ôm
nhau mừng rỡ trong nước mắt chan hòa.
Thỉnh thoảng trong những chuyến công tác xuống Santa Ana, tôi vẫn ghé thăm Hạnh cùng 3 đứa con và những khi đi “shopping”, thấy quần áo hay ví tay mà tôi
thích, tôi mua luôn một cặp, để hai đứa tôi vẫn còn được mặc quần áo giống nhau như ngày xưa còn bé.
Mỗi lần tôi than thở bị đau bả vai vì dùng computer nhiều quá là Hạnh vội vàng gửi lên cho tôi, lúc thì
thuốc tễ, khi thì thuốc viên. Biết gia đình tôi thích ăn bánh đậu xanh, khi nào Hạnh lên San Jose hay tôi
xuống Santa Ana, Hạnh cũng tìm mua cho bằng được thứ bánh đậu xanh thơm ngon như bánh ở bên nhà xưa kia.
Người bạn mà tôi rất thương yêu ấy, một cô giáo chân yếu tay mềm như thế đó, trải qua bao nhiêu đau thương trong cuộc đời, đã đơn thương độc mã chiến đấu với cuộc sống mới khó khăn ở bên Mỹ, nuôi ba đứa con ngoan, ăn học thành tài và đã tự xây dựng cho mình một cơ sở làm ăn vững vàng.
Tấm cũng là một người bạn chí thân của tôi. Thuở nhỏ, nhà chúng tôi ở gần nhau, chỉ cách một bãi tha ma, buổi chiều sau khi tan học, lấy cớ là phải học chung để làm bài, chúng tôi cũng có học một tý chiếu lệ, nhưng phần lớn là thủ thỉ chuyện trò với nhau, sau đó chúng tôi đưa nhau về. Đưa qua đưa lại mãi rồi cũng phải có một người đi về nhà một mình. Phần lớn, tôi chịu hy sinh ba chân bốn cẳng chạy băng qua bãi tha ma không
dám nhìn lại đằng sau vì tôi rất sợ ma. Dù vậy chúng tôi cũng không “chừa” gặp nhau. Buổi trưa, trước khi đi học, tôi và Tấm thường hay vào vườn nhà người ta “mua” trái cây, thế là Tấm thoăn thoắt trèo lên cây tha hồ hái quăng xuống cho tôi nhặt, thế nào cũng có vài quả rơi “nhầm” vào túi áo chúng tôi,
chủ nhà chắc chắn biết đấy nhưng cũng lờ đi coi như“ cho” đám nhất quỷ nhì ma này.
Lớn lên, hai đứa tôi cùng làm cho Đài Phát Thanh Phú Yên. Mỗi ngày đi làm chung bằng xe xích lô, thỉnh thoảng làm sang, ghé ăn phở ở tiệm Bình Minh. Nhưng thường thì không có đủ tiền nên chỉ mua 1 bát phở và mượn 1 cái bát không để chia tô phở làm 2, chúng tôi trộn vào thật nhiều giá và rau xà lách để ăn cho đủ no. Đến khi tôi lấy chồng ở Tuy Hòa năm 1966, Tấm là người bạn học cùng lớp duy nhất đến dự đám cưới, các bạn khác phần lớn đã tản mát bốn phương trời.
Cuối cùng Tấm cũng bỏ tôi mà đi, mãi tận Đà Nẵng, tôi có thăm Tấm một lần rồi biệt tăm luôn. Đột nhiên như một giấc mơ thần thoại, bất ngờ gặp lại Tấm trong trại ty nạn ở Đảo Guam tháng 5 năm 1975. Trong lúc còn đang hoang mang, lo sợ, buồn tủi vì phải bỏ nước ra đi và không biết tương lai sẽ khó khăn như thế nào, chúng tôi chỉ biết ôm nhau khóc sướt mướt kể lể chuyện ngày xưa. Sau khi định cư ở Virginia ba năm, gia đình tôi cuối cùng đã chọn vùng nắng ấm, thung lũng hoa vàng San Jose ở California làm đất dung thân. Tuy
không liên lạc được với Tấm nhưng tôi cũng không lo vì biết chắc người bạn thân yêu của tôi đã đến được bến bờ tự do như tôi.
Một ngày đẹp trời năm 1978, được tin Tấm đã từ Wisconsin dọn về Nam California, vợ chồng con cái tôi lại tức tốc xuống đón mừng gia đình Tấm. Từ đó đến nay hai đứa tôi như chim liền cánh, cây liền cành, lúc nào cũng có nhau mặc dù ở xa nhau cả gần 500 dặm.
Cũng như Hạnh, mỗi lần tôi than đau vai là Tấm lại gửi Xe Đò Hoàng lên cho tôi, khi thuốc uống, lúc thuốc xoa. Chỉ sự lo lắng và chăm sóc của Hạnh và Tấm, hai nguời bạn chí tình cũng đủ làm cái vai của tôi giảm đau một nửa rồi.
Ngày Valentine năm 2004, trên San Jose,
tôi đến chùa xin được quy y và thầy cho Pháp danh “Diệu Tâm”, như một định mệnh, tình cờ trong Pháp danh của tôi có tên của Tấm. Chiều hôm ấy, dưới Santa Ana, Tấm cũng xin quy y và nói cho thầy biết về Pháp danh của tôi nên thầy đã đặt tên cho Tấm là “Diệu Hằng”.Thế là cho đến chết, chúng tôi lúc nào cũng mang tên của nhau.
Tôi quên chưa nói là Tấm làm thơ rất hay. Một nhạc sĩ cũng học trường Nguyễn Huệ và cũng ở trong khu di cư, đã phổ nhạc mấy bài thơ của Tấm. Vì tình bạn cao quý, với lại bạn cũng biết “thương nhau trái ấu cũng tròn” mà, tôi bèn lấy hết can đảm hát bài của Tấm, nhờ thơ hay và nhạc cũng rất hay nên mới che lấp được cái giọng hát “không hay” của tôi. Nhưng điều đáng quý là ba đứa tôi, thân nhau từ thuở còn bé, đã dám cả gan làm thơ, đặt nhạc và hát cho nhau nghe.
Người bạn chí thân này của tôi đến bây giờ vẫn còn vừa đẹp vừa duyên dáng như thuở nào mặc dù đã có một bầy con và một đám cháu rất đông.
Thơm, người bạn có cái tên rất hay, “Cảo Thơm”, lúc nào cũng nghiêm trang, đứng đắn và rất ít nói chứ không nghịch ngợm và nói năng liến thoắng như Hạnh, Tấm và tôi. Nhà Thơm có vườn rất rộng, trồng đủ loại hoa và cây ăn trái. Sau nhà lại còn có ao nuôi cá. Những ngày nghỉ, bọn “nữ quái” chúng tôi hay đến mè nheo Thơm, nào đuổi bướm, hái hoa, nào hái trái
cây, nào là đòi Thơm khi thì đổ bánh xèo, bánh đúc, lúc thì nấu cơm món nọ, món kia. Đặc biệt Thơm rất mê thơ nên đã nắn nót chép và thuộc rất nhiều bài thơ hay, nổi tiếng thời đó của Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Chế Lâm Viên, Nguyễn Bính, TTKH… Nhưng Thơm bây giờ không còn ít nói như ngày xưa, tôi đã trân trọng cám ơn ông xã của Thơm đã biến bạn tôi thành một người niềm nở, ròn rã, và bặt thiệp.
Hoàng còn nhớ chị Chính không? Chính là
hàng xóm của bạn và tôi trong khu di cư đó, chị có khuôn mặt xinh và hiền thục, gia đình ngoan đạo. Chính còn hát rất hay. Chị đã một mình tạo dựng được một vườn hoa lan tuyệt hảo với rất nhiều loại lan quý và hiếm. Lần nào xuống Quận Cam, tôi cũng phải ghé nhà Chính để chiêm ngưỡng những cành lan rực rỡ đầy màu sắc và hình dáng lạ, khi về thế nào Chính cũng tặng tôi vài giò lan đẹp nhất trong vườn thượng uyển của Chính.
Tôi mới kể sơ sơ cho Hoàng nghe về một vài người bạn chứ nếu liệt kê ra hết thì không biết giấy mực nào cho đủ. Trong khu di cư mình còn có Phạm Lan Anh, Nguyễn thị Bích, Đặng Thị Hoa, Nguyễn Thị Nga, Dư Thế Long, Hoàng Khai Nhan… gần đó thì có Trương Khắc Khải, Đặng Anh Tuấn…
Các bạn cùng lớp với tụi mình như Trần Thị Bích Cẩm, Nguyễn Thị Kim Chi, Bùi Thị Cẩm Hà, Hồng Thị Quỳnh Hoa, Phạm Tuấn Khanh, Dương Thị Mai, Trịnh Vũ Hoàng Mai, Đặng Ngọc Minh, Nguyễn Thị Mỹ, Nguyễn Thị Nghiêm, Hoàng Thị Minh Phụng, Cao Thị Phượng, Đặng Thị Quý, Vũ Thị Thiêm, Vũ Thị Thu Thủy, Lê Thị Đoan Trang, Nguyễn Thị Hồng Vân, Nguyễn Thị Yến, Trương
Thị Yến, Dương Mạnh Châu, Đinh Văn Châu, Đặng Phúc Cường, Đặng Trần Dũng, Phan Thanh Đạm, Đặng Quốc Hiển, Trần Tử Hòa, Nguyễn Gia Hoàng, Nguyễn Việt Hồng, Nguyễn Xuân Lập, Lâm Bình Nghĩa, Đặng Duy Nhượng, Phạm Phích, Ngô Tấn Phổ, Ngô Hồng Phương, Lê Ngọc Sơn, Trần Khắc Toàn, Lữ Đức Tường…
Nhiều lúc tôi vẫn không thể tưởng tượng và tin được rằng những cô bé nhóc tì trong
phe “cài nơ, kẹp tóc” của tôi ngày đó, sau này đã làm vợ, làm mẹ, rồi bây giờ thành bà nội, bà ngoại cả.
Nhưng dù vật đổi sao dời, tang thương dâu bể, đã xảy ra cho chúng mình, hình ảnh yêu thương của các bạn tụi mình lúc nào cũng đậm nét trong tâm trí tôi.
Thôi giấy ngắn tình dài, nói nhiều bạn lại trách là tôi “lắm lời” giành nói hết, hẹn thư tới vậy.
Lần sau mình sẽ nhắc đến các thầy cô, Hoàng nhá.
Hằng
Hằng
Họp mặt tại Nam Cali lần đầu tiên
Hằng mến,
Tôi nhớ lúc còn ở tiểu học, làm môn
sinh của thầy Đào Huy Huân, cụ rất dữ đòn, đứa nào đọc vocabulaire không thuộc
là bị ăn roi quắn đít, chui xuống gầm bàn hay chạy nấp sau bảng đen cụ cũng
không tha. Cây roi rõ dài, đánh mãi mà không gãy. Đám học trò nhỏ ghét và sợ
cây roi đó hơn mọi thứ trên đời. Kể cũng tức cười, học trò tiểu học đọc chữ
Việt chưa rành lấy gì để học tiếng Tây tiếng u!
Thầy rất khó tính, nhưng chúng mình
đều biết cụ là một ông Thầy rất siêng năng, tận tâm và thương học trò. Thầy lúc
nào cũng muốn học trò giỏi bằng Thầy. Nhưng Thầy vẫn theo lối xưa, “thương cho
roi cho vọt”. Năm cuối cùng của bậc tiểu
học, ngày tan trường, Thầy ôm từng đứa học trò, mắt đỏ hoe mếu máo nói: “Các
trò phải chăm chỉ học hành nghe, kẻo người ta chê Thầy không biết dạy dỗ.”
Chúng tôi nào có biết gì, chỉ mừng đã thoát nạn, không còn bị Thầy dậy giỗ khắc
nghiệt nữa.
Hồi mới lên trung học có mấy bà
Cô từ trong Nam ra dạy, mấy Cô nói tiếng Nam rặt nghe rất lạ và hay hay. Mấy
đứa chúng tôi hay nấp sau lưng nhại lại nho nhỏ "dzạ em hổng biếc gì hết
trơn á, ngày mai có gưởng, mời cô lại nhà tụi em chơi, chỉ bài cho tụi
em".
Này Hằng, còn nhớ Thầy Nguyễn Văn
Chút dạy Việt Văn không? Thầy nói chuyện rất có duyên và hay kể chuyện ngoài lề
cho bọn học trò nhà quê chúng mình ôm bụng cười không? Có lần thầy ra đề tài
luận văn: “Hãy nói về giấc mơ tương lai của em”. Tuấn nói nhỏ với tôi, hắn muốn
trở thành một Thầy giáo ngon lành như Thầy Chút vậy để giật le với mấy cô nho
nhỏ xinh xinh ngồi bàn đầu ấy. Tôi nói khi cậu làm thầy giáo thì mấy cô đâu còn
học đây nữa.
“Ừ hé”
Hắn luôn ngây thơ như vậy đó.
Tôi đã viết về giấc mơ của tôi là
muốn trở thành một văn sĩ. Thầy phê trong bài viết như sau:
“Viết văn cũng như làm thơ, Thầy có thể dạy em
vần bằng, trắc của thơ Đường Luật, nhưng để làm một bài thơ, thì cần trái tim
em à!”
Tôi chỉ được điểm trung bình cho bài
luận văn đó thôi. Thời thế và hoàn cảnh đẩy tôi trôi mãi trên dòng đời, tôi chỉ
cố vùng vẫy để sống còn và quên khuấy đi giấc mơ thời thơ ấu của mình.
Nhất
quỷ nhì ma thứ ba học trò, đám con trai chúng tôi cũng không ngoại lệ. Có lần, cả lớp nói chuyện ồn ào nghịch ngợm,
nhất là mấy cậu lớn còn làm máy bay giấy ném vào đám học trò con gái ngồi phía
trước trong khi chờ cô Hượt tới dạy. Thầy Hưng Tổng Giám Thị, rất nghiêm khắc,
đi ngang và bắt phạt cả lớp đứng úp mặt vào tường. Hôm ấy, giờ nghỉ trưa, anh
Thành họp lũ học trò nghịch ngợm chúng tôi lại, chỉ có dăm đứa thôi để tổ chức
một trò chơi liều lĩnh, táo bạo. Chúng tôi đứng khuất vào một bức tường giữa
hai dãy phòng học và bàn kế hoạch phá Thầy Hưng. Anh Thành lên tiếng trước: “Đứa
nào dám xì lốp xe đạp Thầy Hưng, sáng mai tao sẽ thưởng một gói xôi vò?” Cả bọn
chúng tôi đứng im khe. Anh nhìn một lượt từng đứa một rồi nói: “Nhát thế mà đòi
làm anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ”. Nguyễn Hóa bèn hiên ngang dơ tay lên: “Tớ
làm”. Anh Thành liền chia nhiệm vụ: “Thằng Hoàng và thằng Tuấn đứng sớ rớ gần
phòng Tổng Giám Thị canh me Thầy Hưng, nếu thấy động tĩnh gì thì giơ tay lên
gãi đầu, tao sẽ dòm chừng. Thằng Hóa vừa xì lốp xe vừa nhìn tao, nếu tao chống
một tay lên hông thì cứ hành động, mà hai tay lên hông là chạy cho lẹ, tất cả
hiểu chưa? Đứa nào mét Thầy, tao xí không cho chơi u quạ nữa”. Chúng tôi sợ Thầy
nhiều lắm, nhưng nghĩ đến màn không được chơi chung với lũ Trời đánh này thì
còn sợ hơn. Hai bánh xe đạp của Thầy Hưng bị xì không còn chút hơi, đúng như dự
tính.
Buổi chiều chúng tôi
núp trong phòng học, mở hé cửa ra nhìn. Trước tiên, Thầy dắt xe ra, cưỡi lên đạp,
chợt thấy cả hai bánh đều xẹp lép, Thầy đứng tần ngần một chút rồi bắt đầu bơm.
Buổi chiều nắng vẫn còn cao, Thầy vừa bơm vừa quẹt mồ hôi trán, Chúng tôi vừa
buồn cười vừa hối hận. Thầy bơm bánh xe một lúc rồi nhấc lên quay từng bánh và
áp lỗ tai gần xe để nghe ngóng, chắc là kiểm soát xem có bị lủng chỗ nào không.
Rồi bơm, rồi nghe ngóng, cứ thế nhiều lần, cuối cùng thầy lắc đầu, đoán là đám
học trò nào phá phách rồi đây. Chúng tôi sợ run, chui cả vào góc phòng không
dám nhìn trộm nữa. Giá lúc đó có ai mở cửa bước vào, chắc cả đám sẽ ù té bỏ chạy.
Sáng hôm sau, có giờ công dân giáo dục với Thầy, cả đám chúng tôi ngồi im thin
thít. Thành và Hóa là hai tay quậy nhất trong lớp mà cũng ngồi nín khe. Giờ học
đi qua nặng nề và chậm chạp, cho đến khi nghe tiếng kẻng tan trường, tôi thở
phào nhẹ nhõm, như một tử tù vừa được phóng thích.
Bây giờ tôi vẫn là một
“Tử Tù” nhưng chưa được phóng thích, bạn cũng biết ai là chúa ngục phải không?
Chúc Hằng một ngày hạnh
phúc.
Hoàng
Hoàng
Thầy và Trò Nguyễn Huệ họp mặt tại San Jose năm 2001
Hoàng mến,
Nói đến giai đoạn Tiểu Học, Hoàng nhắc đến Thầy Huân ở trong khu “Bắc Kỳ Di Cư”, làm tôi hình dung ngay
ra Thầy, lớn tuổi, nhỏ người, lại còn hơi khòm và đúng như Hoàng nói, Thầy rất nghiêm khắc với học trò. Tôi học không đến nỗi tệ nên thỉnh thoảng được bảng danh dự và vinh hạnh giữ sổ cho thầy, mặc dù là học trò cưng của thầy nhưng mỗi lần đứng gần thầy khi đến nhà Thầy lấy sổ, tôi vẫn sợ chết khiếp.
Khi lên đến Trung Học tương đối các Thầy Cô còn rất trẻ, có người dễ chừng chỉ hơn bọn mình vài tuổi. Vì trường mình ở miền Trung xa xôi, nhiều khi không được cung cấp đủ giáo sư nên có một số Thầy Cô phải dạy mấy môn một lúc.
Ngoài những thầy ở địa phương như Thầy Nguyễn Đảm, Nguyễn Bá Quát, Sư Huynh Mai văn Hùng, và mấy Giáo Sư từ Saigon đến như Thầy Hàn Huy Quang, Nguyễn Đức Quang, Trần Tiến Toản, Nguyễn Khắc Truyền, Bộ Giáo Dục gửi ra một loạt các thầy, phần lớn là người Huế như Cô Tôn Nữ Minh Châu, Thầy Đặng Văn Bình, Nguyễn Văn Chút, Bửu Đôn, Lê Văn Gạch, Lê Ngọc Giáng, Nguyễn Văn Hàng, Lê Quang Khanh, Lê Văn Lâm, Nguyễn Đức Lâm, Nguyễn Như Lộc, Trần Viết Ngạc, Hồ Văn Phú, Trần Xuân Phúc, Tôn Thất Quế, Nguyễn Văn Tâm, Võ Hữu Thắng, Bùi Xuân Tri, Hoàng Văn Trí…
Hoàng hỏi tôi có nhớ Thầy Chút không hả? làm sao mà quên được ông thầy dạy Việt Văn có duyên đó, lúc nào cũng pha trò cho học sinh cười rũ rượi.
Tôi nhớ Thầy Hướng cũng dạy Việt Văn và có lần thầy đọc một đoạn văn của một bạn học trong lớp viết: “đứng trên đồi cao, phóng hai con mắt xuống thung lũng…”, thầy bảo “anh nên viết “phóng tầm mắt xuống” chứ anh “phóng hai con mắt xuống” thì còn mắt đâu để nhìn”, nói xong Thầy phì cười và bọn học trò cũng bò ra mà cười.
Có một người mà tôi không quên được là Thầy Toản dạy môn Toán, tôi còn nhớ mấy lần làm “toán chạy”, khi tôi làm trúng hết, Thầy Toản dõng dạc bảo là “bà ốc tiêu kia, bà đuợc 10 điểm ngon như óc chó nhá!”, những chữ “ốc tiêu và ngon như óc chó” là“ trade mark” của Thầy Toản đấy, Hoàng nhớ không? Tôi cứ mãi mong có một ngày hỏi thầy Toản xem óc chó ngon như thế nào.
Thầy Ngạc vừa dạy Sử, Địa vừa làm Thầy Hường Dẫn của lớp mình, và thỉnh thoảng dẫn tụi mình đi cắm trại Rừng Dương, Mỹ Á, vì thế Thầy rất thân với học trò, bây giờ lâu lâu Thầy vẫn viết thư thăm gia đình tôi.
Những cuộc họp mặt ngoài trời, nấu nướng ăn
chung, tối lại hát hò, làm cả Thầy lẫn trò gắn bó và thân thiết nhau hơn.
Riêng Thầy Hiệu Trưởng Nguyễn Đức Giang được học trò thương vì Thầy rất gần gũi với tụi mình, nhất là thời gian gần đây, trong 3 lần tổ chức Đại Hội Cựu Học
Sinh Phú Yên ở Nam và Bắc California rồi Houston (Texas), dù ở rất xa, (Đan Mạch, Âu Châu), lần nào Thầy cũng qua tham dự, sát cánh với học trò và trợ lực với Ban Tổ Chức, có lần thầy còn lên trình diễn văn nghệ nữa cơ. Chúng mình tất cả đều cầu mong thầy luôn được dồi dào sức khỏe để còn tiếp tục hướng dẫn và ủng hộ học trò của thầy.
Bạn cũng nhắc đến những cô giáo ở trong Nam ra dạy, các cô Cúc, Cô Hoa, Cô
Hượt đến từ Saigon với những tà áo tha thướt, lạ mắt và rất đẹp, như đem một luồng gió mới mát dịu từ nơi văn minh đến cho ngôi trường Nguyễn Huệ nhỏ bé, hiền hòa của chúng mình. Tôi
nhớ là Cô Cúc hay mặc áo dài màu xanh nên thường bị đám học trò con trai, trong đó có cả ông anh ruột của tôi, đi qua đi lại thỉnh thoảng hát câu “màu áo xanh
là màu anh trót yêu” trong bài hát “Thu Quyến Rũ” của Đoàn Chuẩn-Từ Linh, tuy hát nho nhỏ nhưng cũng đủ cho mọi người và Cô Cúc nghe thấy, Cô ấy chắc vừa phiền vừa sướng trong bụng. Học trò ngày ấy mà cũng bạo thế cơ đấy.
Mỗi lần nghĩ đến các Thầy Cô là mình lại không khỏi liên tưởng đến câu người xưa đã nói “không thầy đố mầy làm nên”, quả thật không sai. Nếu không nhờ các Thẩy Cô đã xây dựng một nền tảng căn bản tốt đẹp trong bọn chúng mình thì làm sao
mình có ngày nay.
Thôi, kể về thầy cô và bạn bè như vậy chắc cũng đủ rồi, càng nói nhiều càng lưu luyến thuở học trò, mặc dù phài lo lắng chuyện học hành thi cử, nhưng đó là thời gian êm đềm, trong sáng và hạnh phúc nhất của mọi người.
Thư tới Hoàng muốn nói chuyện gì nhỉ?
Trong khi chờ đợi câu trả lời của Hoàng, tôi cầu mong bạn không bị “cai ngục” hành hạ như ở Guantanamo Bay, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, nếu bạn tình nguyện xin làm “tử tù”, Trời cũng không cứu được chứ lời cầu xin của tôi thì đi đến đâu.
Hằng
Hằng
Đại hội CHS Nguyễn Huệ tại Nam Cali năm 2009
Hằng mến,
Chúng ta thật may mắn lớn
lên và học hành trong một môi trường lành mạnh, tự do, nhân bản, lấy giáo điều
của Khổng Mạnh làm châm ngôn: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, nhất tự vi sư bán tự
vi sư, và quan trọng hơn cả “Tiên học lễ, hậu học văn”. Xã hội một thời tương đối
quy củ, thầy ra thầy và trò ra trò. Các Thầy Cô đã trang bị cho chúng ta một kiến
thức căn bản và một lương tâm trong sáng để xây dựng gia đình và xã hội vững chắc,
ngay thẳng. Những công ơn ấy phần lớn do học đường và các bậc thầy đã bỏ bao
nhiêu tâm huyết để đào tạo nhiều thế hệ người trẻ miền Nam Việt Nam thời đó. Thế
hệ chúng ta lớn lên thành nhân, ngẩng cao mặt hãnh diện là những cựu học sinh
Nguyễn Huệ cũng nhờ sự giáo dục tân tụy của các Thầy Cô, đó là điều không thể
chối cãi được.
Xin vinh danh các nhà
giáo, các vị thầy khả kính của chúng ta, nhất là các Thầy Cô trường Nguyễn Huệ
Tuy Hòa!
“Người ta trồng cỏ trồng
cây,
Thầy Cô Nguyễn Huệ về
đây trồng người”
Chứ không như bây giờ,
xã hội không lấy đạo đức làm đầu cho nên xẩy
ra bao nhiêu hệ lụy. Cho nên, thêm một lý do nữa chúng ta những hậu duệ của Quang Trung Nguyễn Huệ phải nhớ
công ơn của các Thầy Cô Nguyễn Huệ đã trồng được một đám rừng “Nhân” rậm rạp,
tươi tốt, mạnh khỏe, ngay thẳng trong đó có tôi và Hằng, và những Hạnh, Tấm, Cẩm,
Chính, Thơm, Nhượng, Hiền, Phổ, Phích, Hiền và biết bao nhiêu nữa kể ra không hết.
Tôi cũng cám ơn Trời đã
cho chúng ta sống trên một đất nước tự do, nhân bản để con cháu chúng ta được hấp
thụ một nền giáo dục lành mạnh, dựa trên công bằng bác ái.
Chúc Hằng những ngày
rong chơi hạnh phúc.
Hoàng
Hoàng
Bạn chung lớp trong đại hội 3 tại Houston năm 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét