Tuy Hòa luôn là thành phố tôi nhớ đến nhiều nhất, dù tôi đã từng
đi học xa ở Nha Trang, Phan Rang, Sài gòn… nhưng không nơi nào để lại nhiều
tình cảm bằng Tuy Hòa dù Tuy Hòa là một thành phố nghèo, cảnh quan không có gì
đặc biệt.
Vì sao
lại thế? Có lẽ vì tôi đã sống với Tuy Hòa ở lứa tuổi giàu cảm xúc nhất. Vào lớp
đệ lục ở trường Nguyễn Huệ cũ năm 12 tuổi, tôi như con bướm lột xác từ cái kén
bé xíu để trở thành một thiếu nữ 16 tuổi trước khi ngậm ngùi rời xa thành phố
đầy kỷ niệm.
Tuy Hòa không có gì đặc biệt nhưng con đường xe lửa 82 km từ
Ninh Hòa thật sự quá lộng lẫy. Nó đã làm cho đứa bé lần đầu xa mẹ bị mê hoặc và
tạm thời nguôi ngoai cơn sầu não. Sau khi con tàu có đầu máy chạy bằng hơi nước
chậm chạp bò qua cung đường đèo Cả chênh vênh như có thể làm rơi cả đoàn tàu
xuống biển, trời bắt đầu tắt nắng.
Nhìn những tảng đá xám buồn bã ẩn sau những chòm cây rừng heo
hút, nước mắt tôi lại lã chã rơi.
Thương ba tôi làm việc và sống một mình ở Tuy Hòa tôi đồng ý
chuyển trường để ở gần ông và quyết định đó quá sức với chính tôi.
Qua khỏi đèo Cả, tàu chui vào bóng đêm của địa phận Tuy Hòa và
mỗi lần tàu ngừng ở một ga xép vắng vẻ, tôi lại thò đầu ra cửa sổ để chỉ nhìn
thấy cây đèn dầu leo lét của người sếp ga đong đưa trong tiếng còi tàu thét
vang.
Đèo Cả quá dài so với đèo Rù Rì ở gần quê tôi và cây cầu Đà Rằng
thì cứ như bất tận.
Sao điều gì ở Tuy Hòa cũng mênh mông và điều này càng làm cho
nỗi sầu khổ của tôi thêm bao la.
Trời đã tối hẳn khi tàu vào ga. Trời ơi! Ga Tuy Hòa đây sao?
Khác với ga Ninh Hòa đẹp đẽ sang trọng, ga Tuy Hòa là một tấm vách đen thui, lỗ
chỗ vết đạn.
Tay xách cặp, tay xách một giỏ nhỏ lủi thủi theo bước chân cha,
tôi tự hỏi ngày mai tôi sẽ sống như thế nào đây ở một nơi thảm não như thế này?
Ngôi nhà của ba tôi quay mặt về hướng nam nên sáng hôm sau tôi
sững sờ nhìn thấy một ngọn núi mọc ngay trước mặt, giữa phố, trên đỉnh lạ lẫm
một cái tháp Hời.
Từ trái: Nguyễn Lệ Uyên, Khuất Đẩu, Huyền Chiêu, Thanh Hằng&Thân Trọng Minh
Rồi tôi quen dần với những bụi gai bàn chải mọc trên những đồi
cát hoang. Nhiều lần tôi cặm cụi lần từng bậc thang trèo lên đỉnh núi Nhạn để
từ đó ngóng về những đám mây trắng nơi xa lắm có quê nhà của tôi.
Cái nắng gay gắt của Tuy Hòa, mùa gió Lào thổi cát vào mắt,
những cơn mưa bão kinh hồn không làm héo úa nổi những bụi gai bàn chải và không
thể ngăn được tóc cô bé xanh mướt, mắt cô to ra và da cô trắng hơn. Tháp Nhạn
vẫn thế nhưng cô đã thay đổi.
Cho đến khi phải rời Tuy Hòa năm 16 tuổi cô mới biết mình thân
thiết với nơi này xiết bao.
Năm mươi năm trôi qua. Tháp Nhạn vẫn thế nhưng cô đã thay đổi.
Không có nắng gắt, không gió Lào, mưa bão nhưng tóc cô đã nhiều sợi bạc, mắt cô phải đeo kính và làn da đã nhiều nếp nhăn.
Và cô vẫn nhớ thành phố Tuy Hòa.
Không có nắng gắt, không gió Lào, mưa bão nhưng tóc cô đã nhiều sợi bạc, mắt cô phải đeo kính và làn da đã nhiều nếp nhăn.
Và cô vẫn nhớ thành phố Tuy Hòa.
Cho nên khi vợ chồng anh bạn từ Sài Gòn ra thăm rủ đi chơi Tuy
Hòa cô rất vui mừng.
Bạn tôi, anh Thân Trọng Minh, muốn về Tuy Hòa thăm anh bạn Nguyễn Lệ Uyên và rủ
anh cùng lên thăm đập Đồng Cam. Anh Thân Trọng Minh nói: “Cách đây 60 năm khi
tôi 13 tuổi, ba tôi làm thanh tra nông nghiệp khu vực miền Trung, đã một lần
dẫn tôi và đứa em trai lên tận đập Đồng Cam. Lúc đó thời ông Diệm, đập Đồng Cam
vừa sửa chữa lại. Tôi muốn nhìn lại nơi ba tôi đã từng đến công tác bây giờ ra
sao.”
Rượu Tây nhắm với nem Ninh Hòa
Sau khi ghé Hòa An thăm nhà anh Nguyễn Lệ Uyên, chúng tôi phải
vượt 23 km nữa để đến đập Đồng Cam. Trong đầu của tôi luôn ám ảnh mấy bụi gai
bàn chải của thành phố Tuy Hòa nên tôi vô cùng ngạc nhiên trước quang cảnh kỳ
vĩ của đồng quê Tuy Hòa.
Màu xanh của núi non ruộng đồng xinh tươi trải dài trước mắt.
Con đường lên cao dần, một bên là con mương dẫn thủy rung rinh ngập nước, chạy
men theo những sườn đồi thơ mộng, bên trái là con sông Ba mùa hè cát phơi trắng
xóa, ẩn hiện những nương bắp, nương khoai trù phú.
Nhìn không chán mắt, tôi mong con đường dài thêm nhưng xe đã đến
nơi muốn đến.
Chúng tôi lặng người nhìn dòng nước sông Ba chảy tràn như một con thác khổng lồ trên gần 700 mét bờ đập.
Chúng tôi lặng người nhìn dòng nước sông Ba chảy tràn như một con thác khổng lồ trên gần 700 mét bờ đập.
Anh Thân Trọng Minh nói: “Mình phải kính trọng lương tâm nghề
nghiệp của các kỹ sư Pháp. Con đập này người Pháp xây cách đây gần 100 năm, cho
đến giờ vẫn còn nguyên vẹn.
Tôi vẫn nhớ hình ảnh ba tôi dẫn tôi đi trên con đập, ba tôi nắm
tay thằng em còn tôi phải đi một mình, cảm giác sợ bây giờ như vẫn còn.”
Để ghi nhớ một chuyến đi có thể không bao giờ lặp lại, quý ông
trong đoàn ngồi bệt ngay tại đập rót rượu tây ra nhắm với nem Ninh Hòa trong
khi quý bà … chụp ảnh.
Trên đường về tôi nói với Nguyễn Lệ Uyên: “Quê anh đẹp quá
chừng!”
Anh Nguyễn Lệ Uyên trả lời giọng buồn buồn: “Chị thấy vậy chứ
miền quê Viêt Nam đã bị bỏ rơi, dưới những mái nhà êm đềm thơ mộng kia hầu như
chỉ còn mấy ông bà già. Ngày trước có em bé chăn trâu còn bây giờ chỉ có mấy
ông lão chăn trâu.”
– “Người trẻ đi đâu?”
– “Hột lúa không nuôi nổi dân làng, bọn trẻ tha phương cầu thực,
đi làm công nhân ở đâu đó…”
Chiều xuống dần, làng quê càng thêm lặng lẽ. Khói đã tỏa trên
những mái nhà cheo leo trên sườn đồi.
Một chuyến đi thì vui mà về thì cũng nhiều nghĩ ngợi.
Ước gì người dân Việt được sống với mảnh đất của mình một cách
an tâm, no đủ như người nông dân Hà Lan.
Bỗng
nhớ câu hát của Phạm Duy hồi đó:
“Chiều ơi! Lúc chiều về mọc ánh trăng tơ
Cho ngày mùa bài hát nên thơ, ơi chiều…”
(Nương
chiều – Phạm Duy)
Ngậm ngùi thương cho người dân Việt có Hòa Bình nhưng chưa có
hạnh phúc.
Huyền
Chiêu
Tháng 8-2016
Tháng 8-2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét