Đó là ông bà Lâm, ông 65 bà 60 tuổi. Đến
Mỹ không thân nhân, phải nhờ nhà thờ tin lành bảo trợ. Mấy người bạn HO. qua
trước mướn cho căn apartment một phòng. Giúp chở đi làm giấy tờ, xin Medical,
chở đi khám tổng quát. Bác sĩ nhãn khoa lấy hẹn cho ông đi mổ mắt ngay, vì võng
mạc bị tổn thương. Vừa chữa xong mắt, thì vào môt đêm ông bị xây xẩm mặt mày,
té nhào, may mà kêu xe cấp cứu đưa ông đến bệnh viện kịp thời, để bác sĩ thông
tim gấp. Sau mấy tháng dưỡng bệnh, ở nhà buồn quá lại không có tiền tiêu, nên
hai ông bà đến tiệm may xin việc làm.
Khi được biết ông bà qua Mỹ đơn độc không con
cái, mọi người đều xúm vào giúp đỡ. Mỗi lần có ai hỏi đến con cháu, bà
lại tủi thân nước mắt ngắn, nước mắt dài. Tôi phải hết lời an ủi, giải thích
với bà là ở bên Mỹ này, người già sống một mình là chuyện thường. Như bác Nhẫn
ngồi phía trước, có sáu người con ở bên tiểu bang Ohio hết, chỉ có bố mẹ về
sống tại Cali tìm hơi nắng ấm. Hoặc có người đông con cái ở cùng tiểu bang,
chúng cũng không thích sống chung với cha mẹ vì nhiều lý do. Bà Lâm hiểu ra,
không vừa làm vừa khóc như trước nữa. Buổi tối ông bà đi học lớp ESL ở trường
Westminster high school, để sửa soạn học thi quốc tịch. Đủ 5 năm có quốc tịch,
ông bà sẽ tìm người quen có income, giúp bảo trợ tài chánh, để bảo lãnh cho các
con sau này.
Nhưng làm được mấy tháng thì ông lại đổ
bệnh, phải nghỉ ở nhà, chỉ có mình bà mỗi sáng lủi thủi đón xe bus đến tiệm.
Sau này ông bà thuê phòng gần nhà tôi, cần kiệm để dành tiền, Tết
gửi về lì xì cho các cháu.
Cuối tuần chúng tôi thường chở ông bà đi
lễ. Chở bà đi chợ, đi làm, bà Lâm lại có dịp trải lòng mình. Nghe tâm sự của bà
tôi như lây nỗi buồn, vì những ngày loạn lạc đau thương ấy, ám ảnh tôi mãi.
***
Cho đến hôm nay, bà Lâm vẫn không sao quên
được quãng đời đã qua. Từ trước năm 1975, gia đình đang sống tại Ban Mê Thuột
một thành phố nhỏ bé, nhưng là một vị trí chiến lược trọng yếu đối với vùng cao
nguyên. Cũng là cái nôi kinh tế của miền đất đỏ, với những rẫy cà phê dài hun
hút, ngon nổi tiếng. Đồn điền cao su hàng chục ngàn mẫu. Những khu rừng là tài
nguyên quý giá, trở thành trung tâm khai thác lâm sản bậc nhất của quốc gia, về
các loại gỗ quý như: Bằng lăng, cẩm lai, gụ, lim... v...v…
Ban Mê Thuột còn có những thắng cảnh nên thơ
như: Đồi Cỏ Vàng, Suối Hẹn Hò, Thác Drayling… Những ngày nghỉ cuối tuần ông
thường chở vợ con đến Vườn Mộng ngắm cỏ úa mùa thu, hay những ngày hè nhìn hoa
phượng đỏ rực trong khuôn viên trường Tổng Hợp.
Nhưng tất cả những cảnh vật đó, và sự sống hiền
hòa của người dân, bị hủy diệt, bằng các trận mưa pháo, đại bác và hỏa tiễn của
quân Bắc Cộng, đem đến nỗi kinh hoàng, cho những người dân vô tội, trong
đó có gia đình ông bà Lâm. Trước hoàn cảnh đó, nhiều gia đình khá giả đã tìm
cách rời Ban Mê Thuột, để về Saigon hay ra Nha Trang, với giá máy bay rất đắt,
mà có khi không còn chỗ.
Trong lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, ông Lâm đang đóng
tại Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 8. Đứa con gái lớn mười sáu tuổi, đứa bé nhất
chưa đầy thôi nôi, bà Lâm cũng tìm cách đưa các con đi di tản, ở nhờ người quen
được vài bữa, sốt ruột, mẹ con lại bồng bế nhau về nhà chờ tin ông.
Đơn vị ông được điều động đến giải vây cho tiểu
khu Darlac, nhưng bị lực lượng Cộng quân từ Ngã Sáu tràn xuống, chặn đánh . Ông
bị tan đàn thất lạc đơn vị, như rắn mất đầu, suýt chết, cũng phải mấy ngày mới
chạy về tới nhà ở cư xá sĩ quan Thiết Giáp, nơi vợ con đang trông chờ.
Trong thâm tâm mỗi người dân Ban Mê Thuột, luôn
ghi nhớ lòng dũng cảm và tinh thần chiến đấu của những người lính Việt Nam Cộng
Hòa, trong giờ phút lâm nguy, đã hy sinh cố gắng hết sức mình để làm tròn
bổn phận. Đối đầu với chiến thuật biển người của Cộng Sản cho đến phút cuối cùng.
Để rồi ngày 11/3/1975, thị xã Ban Mê Thuột, tỉnh Darlac thất thủ, kéo theo sự
sụp đổ của Miền Nam Tự Do. Thảm khốc hơn, đã dẫn đến một khúc quanh lịch sử.
Thành phố hôm ấy như một bãi tha ma, những đống
tro tàn, bụi khói và gạch vụn, đầy mùi tử khí. Bộ đội chia từng toán nhỏ, lục
soát khắp các hang cùng ngõ hẻm. Côn đồ thời cơ đông lắm, đeo băng đỏ ở
cánh tay, đập phá các cơ quan công quyền, dinh thự, cửa tiệm, tư gia. Lục soát
các nhà thờ, trường học, lôi đốt hết các loại sách báo, tự điển, giáo khoa. Nhất
là những ấn phẩm văn học nghệ thuật, viết bằng Anh hoặc Pháp ngữ.
Cảnh hôi của lan tràn khắp nơi, đi ngang
qua cư xá sĩ quan có căn nhà ông bà Lâm, bọn du kích nằm vùng ập vào khám xét
lục lọi, xông xáo, như kẻ đang cầm trong tay uy quyền đầy hung dữ. Họ ra lệnh
cho mọi người trong nhà đứng dồn vào một góc để tự nhiên khuân đồ đạc, từ chiếc
xe Honda dame của bà, cái máy ảnh hiệu Canon của ông. Đến chiếc TV trắng đen,
bộ xa-lông cẩm lai, tủ khảm xà cừ, mà cha mẹ ông Lâm cho từ ngày mới cưới. vào
nhà trong khiêng từ cái giường, tủ quần áo, xuống bếp nhặt từ bộ nồi inox, bưng
cả chiếc bếp dầu… Như đua nhau xem ai lấy được nhiều hơn. Không chỉ nhà của ông
bà Lâm, mà tất cả các nhà trong cư xá đều bị tình trạng này, họ như đang tịch
thu những chiến lợi phẩm, sau một trận đánh khốc liệt, chứ không phải đang vơ
vét của cải mồ hôi nước mắt của những người dân lành.
Xã hội lúc bấy giờ không luật pháp, thảm khốc
diễn ra khắp nơi. Bộ đội tiếp tay với đặc công, trả thù, thanh lọc dân chúng,
truy lùng các viên chức chính phủ, sĩ quan và binh lính. Nhiều người bị đánh
đập, bị đấu tố, mà vợ con thân nhân không biết kêu vào đâu?!
Nhưng tất cả không đáng sợ bằng vào một buổi
tối, họ xông vào bắt ông Lâm đi. Bà Lâm bắt đầu cuộc việt dã đầy nước mắt. Tìm
ông đủ mọi nơi trong vô vọng. Vì trước ngày 1 tháng 5 năm 1975, Cộng Sản
chưa lập ra cái mà họ gọi hoa mỹ là trại “cải tạo”, nếu ai bị bắt thì vợ con
không biết đâu mà mò. Mãi cả năm sau, sức lực đã kiệt quệ thì bà nhận được thư
ông gửi về từ trại tù “cải tạo” Gia Trung, Gia Lai gần Pleiku.
Bà Lâm vừa lo cho tính mạng và sự an nguy của
ông, vừa lo cho đàn con dại, không biết rồi sẽ ra sao? Bà quay cuồng, xoay
sở để sống còn giữa muôn vàn khó khăn. Bao nhiêu âu lo bất định dồn dập, bà
lặng lẽ khóc mỗi đêm nhìn các con ngủ lăn lóc, trên những tấm chiếu cũ trải dài
không giường, trên sàn nhà. Mưa trên vùng cao nguyên rả rích, cũng không dầm dề
bằng nước mắt của bà Lâm, khi công an khu vực liên tục tới khuyến dụ:
- Những gia đình có chồng đang “cải tạo” nếu
tình nguyện đi “kinh tế mới”, thì cách mạng sẽ khoan hồng cho về sớm để đoàn tụ
với gia đình.
Biết được mục đích của Cộng Sản, là đuổi những
gia đình đang sống trong cư xá đi, để tịch thu nhà cửa, nên không ai hưởng ứng.
Thấy sự kêu gọi không kết quả, chính quyền mới liền ra thông báo:
- Bắt buộc tất cả vợ con “ngụy quân” trong cư
xá, phải lên văn phòng “đăng ký “ để lập danh sách đi vùng “kinh tế mới”. Mẫu
giấy đã để sẵn trên bàn chỉ việc ký tên, nếu ai đi sớm sẽ được cấp nhà cấp đất.
Nhà nước nói gì, nhân dân phải thi hành, đó là mệnh lệnh.
Vợ con các sĩ quan lúc bấy giờ ai cũng ngán Cộng
Sản, lại cả tin lời đường mật, đồng ý ký tên đi. Rốt cuộc mẹ con bà Lâm và một
số gia đình khăn gói lên đường đi “kinh tế mới”.
Sống khổ cực lầm than năm này qua tháng nọ, mà
người chồng người cha vẫn bặt tăm. Trong khi nhà cửa bị tịch thu để cấp cho gia
đình cán bộ cách mạng.
Thực ra “kinh tế mới” là chính sách “giãn dân”,
trong kế hoặch quản lý hành chánh, không liên quan gì đến những người đi tù
“cải tạo” được về nhà đoàn tụ với gia đình. Cộng Sản lại chơi một cú lừa ngoạn
mục nữa sau khi đã lùa hết các Quân, Cán, Chính của “ngụy” vào tròng.
Vào đầu mùa đông, cái lạnh vùng cao nguyên buốt
da nứt thịt, mẹ con bà Lâm và những người cùng xóm co ro cúm rúm trong manh áo
không đủ ấm, người khuân, kẻ vác, nào: nồi, niêu, chén bát, quần áo và
những đồ dùng cá nhân đủ thứ lỉnh kỉnh, lật đật lên xe cho kịp.
Một hàng xe dài lăn bánh, chở mọi người đến xã
Hòa Lê, Huyện Krong-Bong. Ra khỏi đường tráng nhựa đi vào đường đất đỏ, len lỏi
trong khu rừng cao su rậm rạp, dưới những tàn cây âm u che khuất mặt trời. Hai,
ba tiếng đồng hồ, không biết qua bao nhiêu khu rừng thì đến một chân đồi, xe bò
từ từ xuống khu đất gần một dòng suối.
Bỏ mấy chục gia đình xuống cạnh những dãy chòi
lợp tranh, chung quanh chưa có vách, trống trơn, rồi đoàn xe quay đầu lặng lẽ
bỏ đi. Ngày hôm sau được lãnh gạo theo nhân khẩu, mỗi gia đình vài chục ký gạo
mọt, nổi lều bều trong nước vì rỗng ruột. Đúng là “Đem con bỏ chợ”, hàng chục
gia đình ngơ ngác nhìn nhau. Không nơi thờ phượng, không trường học, chỉ
một trạm y tế nhỏ như lỗ mũi, đừng nói gì chợ búa. Mọi người phải mua rau cải,
bí, bầu, măng, mướp của người thượng ở làng bên, gùi đến bán.
Phải qua nhiều ngày mẹ con bà Lâm mới quen được
tiếng chồn cáo gọi nhau ăn đêm. Tiếng chim cú gáy, xa xa trong rừng sâu. Ban
ngày ồn ào với tiếng cây cối bị đốn hạ, chất thành đống chờ xe be đến chở đi.
Do đội thanh niên xung phong không biết khởi công từ bao giờ, chỉ thấy các em
mặt mũi non choẹt, hay ghé vào nhà dân xin nước.
Như câu thơ không biết xuất xứ từ đâu: Đôi dép
râu dẫm nát đời trai trẻ / Mũ tai bèo che lấp cả tương lai.
Biết bao gian nan khổ cực kể sao cho xiết, nhiều
nguời bỏ đi. Nhưng mẹ con bà Lâm xem ra không còn nơi nào để đến “tay làm
hàm nhai” bữa đói, bữa no. Trời thương! Nhờ vùng đất đỏ đầy màu mỡ, cây cối tốt
tươi, những luống rau xanh lớn nhanh theo giọt mồ hôi, nước mắt. Để mẹ con bà
Lâm đem bán, rồi mua đường, bột, mắm, muối, đi tiếp tế thăm nuôi ông.
Ông Lâm lê gót qua nhiều nhà tù từ Nam ra Bắc,
bảy, tám năm trời, cuối cùng cũng được thả về. Tìm vợ con ở vùng “kinh tế mới”,
vừa đi vừa hỏi thăm tên huyện Krông Bông, thị trấn Krông Kmar nghe là lạ, đường
đi chỉ thấy rừng xa hun hút, mặt đường đầy dấu bánh xe tải cày xới, đất đỏ nhão
nhoẹt thành từng vũng lầy nhớp nhúa.
Gặp lại vợ con, mừng mừng tủi tủi. Ra ngoài mà
cuộc sống cũng không khá hơn ở trong tù bao nhiêu. Trong thời gian quản chế,
ông không được đi đâu khỏi địa phương nếu chưa có giấy phép, không được buôn
bán hay làm nghề gì, ngoài việc cuốc đất trồng cây.
Tuy vậy tại đây hàng ngày ông không bị
công an khu vực đến “động viên” đi “kinh tế mới”, bị mời lên mời xuống, bị chặn
đường mượn tiền mua thuốc lá… như những người bạn còn ở trong thành phố. Nhưng
ở cái nơi tận cùng trái đất này, ông Lâm không được tiếp xúc nhiều, cũng không
thường xuyên về thăm anh em họ hàng ngoài thành phố Ban Mê Thuột, cách sáu, bảy
chục cây số, nên không biết gì về chương trình HO. (Humanitarian Operation) mà
thời đó không sẵn điện thoại hay internet như bây giờ. Gặp mấy người bạn cùng
ở “vùng sâu, vùng xa” cho biết thì ông lại không tin Cộng Sản cho
đi thật, nên không làm giấy tờ. Sau này thấy có người đi êm xuôi rồi, ông mới
tìm hiểu lo làm thủ tục giấy tờ xuất cảnh thì khá muộn.
***
Năm đó cả nhà ông bà Lâm không ai còn tinh thần
mà ăn Tết, vì ngày mùng bốn tháng Giêng năm 1997 ông bà đi Mỹ theo chương trình
tị nạn HO 36.
Gần cuối chầu, vì từ gia đình HO1 đầu tiên đặt
chân đến Mỹ là ngày 5 tháng 1 năm 1990, sự cứu xét cho đi rộng rãi hơn, có gia
đình đi được cả ba thế hệ. Nhưng “Chậm chân uống nước đục” từ tháng tư năm 1995
Cơ quan INS và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thay đổi, họ từ chối cha mẹ già, những
người con có gia đình hoặc còn độc thân mà trên 21 tuổi, không được đi theo
định cư tại Mỹ nữa.
Ông bà Lâm đi trơ trọi, buồn thiu, bỏ lại đàn
con tám đứa, năm gái, ba trai. Hai cô con gái và cậu trai lớn có gia đình, biết
thân biết phận không làm đơn theo. Nhưng còn năm đứa độc thân, đang sống chung
cùng hộ khẩu với cha mẹ, ra dịch vụ làm hồ sơ, vào thời điểm đang được chấp
thuận. Về ăn chay ở vậy hai ba năm trời chờ đợi, với hàng đống tin tức lệch lạc
cho đến ngày phỏng vấn. Rốt cuộc năm đứa “tu tại gia” đều bị từ chối. Bà Lâm
chép miệng, tội nghiệp nhất là Chi Mai cô con gái út, hai mươi mốt tuổi rưỡi
cũng bị lọt sổ luôn.
Để rồi nguyên đàn con cháu, cùng với anh em, bạn
bè, âm thầm kéo nhau đến phi trường Tân Sơn Nhất, đưa tiễn ông bà Lâm bằng một
cuộc chia ly đẫm nước mắt. Ông bà lưỡng lự mãi không nỡ bước chân đi. Nhưng nghĩ
lại những ngày tháng sống cơ khổ quá, đã thúc đẩy ông bà “ra đi tìm đường cứu
gia” hy vọng sau này có cơ hội bảo lãnh con cái.
Sở dĩ tôi phải kể dài dòng văn tự, để thấy cảnh
các con ông bà Lâm sống cực khổ làm vậy, mà khi cha mẹ ra đi “về miền đất hứa”,
con cái không được đi theo mới thấm nỗi khổ tâm của ông bà, bước chân ra đi mà
thương đàn con không ai lo toan, dạy dỗ chúng trong độ tuổi trưởng thành.
***
Khỏang giữa năm 2001, cả tiệm may bất ngờ
khi bà Lâm báo tin, bà xin nghỉ ba ngày để đi đón con từ Việt Nam qua. Rồi vài
tuần sau bà dắt con gái, cùng chồng và đứa cháu trai hai tuổi, đến tiệm giới
thiệu với mọi người và xin việc luôn.
Bà mừng rỡ nói huyên thuyên, đây là Chi Mai, con
gái út xinh đẹp, ngoan ngoãn của tôi, năm 19 tuổi cô yêu thương Lãng một anh
bạn cùng xóm, nhưng vì nghe lời cha mẹ, cô phải dứt khoát không liên lạc với
Lãng, để chờ đi. Anh chàng thất tình bỏ làng đi thật xa, hơn hai năm
trời, để quên mối tình đầu dang dở. Khi nghe Chi Mai phải ở lại Viêt Nam, Lãng
ta như mở cờ trong bụng trở về ca bản: “Về đây bên nhau ta nối lại tình
xưa…. Rồi sau cơn mưa, giông tố sẽ vượt qua.….” Thế là hai đứa làm đám cưới năm
1998. Cứ nghĩ rằng suốt kiếp chôn vùi tương lai nơi xó rừng.
Nhưng rồi
có “tin vui giữa giờ tuyệt vọng”. Đúng vậy, nhờ McCain Amendement đã là
cánh cửa mở ra cho các con ông bà Lâm và nhiều người con của các cựu tù nhân
Việt Nam Cộng Hòa, tưởng là hết hy vọng được đi định cư tại Mỹ.
Năm 1997, Tu Chính Án của Thượng Nghị Sĩ John
McCain, đã đề xuất một dự luật phục hồi quy chế tị nạn phụ thuộc, cho các con
em độc thân trên 21 tuổi của những cựu tù nhân, đã bị Bộ Ngoại Giao từ chối
không chấp thuận, cho phép qua Mỹ định cư cùng cha mẹ, từ sau năm 1995. Nay dù
những đứa con đó đã kết hôn, vẫn được nộp đơn để xin cứu xét đem theo gia đình.
Dự Luật này được Quốc Hội Mỹ thông qua và được Tổng Thống Bill Clinton, ký ban
hành ngày 1/5/1998, có hiệu lực đến 30/9/1999. Sau đó lại tiếp tục được Tổng
Thống kế nhiệm George W. Bush gia hạn thêm, đến 30/9/2003. Thật là “Tiền xung hậu
kiết”.
Thế nên năm người con của ông bà Lâm, từ lúc
nhận được giấy báo, chờ đợi, rồi giấy phỏng vấn cầm trong tay, mà cứ như mơ.
Hơn một năm sau, đã lần lượt đến Hoa kỳ đoàn tụ với cha mẹ già. Như một phép
lạ! Ông bà Lâm mừng khôn tả, mà những chuyến đi sau này lại có lời, thêm con,
thêm cháu. Chỉ tội nghiệp những người con của ông bà Lâm ở Việt Nam đã không có
phương tiện học hành, qua đến Mỹ thì tuổi đã muộn, lại không có trình độ căn
bản, nên vừa vất vả học Anh văn vừa học nghề, nhưng tương lai con cháu tươi
sáng trước mặt. Hiện giờ Chi Mai con út bà Lâm đang làm chủ tiệm nail khá lớn ở
Los Angeles.
Theo tôi được biết thì chương trình này, đã cứu
được gần hai chục ngàn người con, của các cựu tù nhân. Họ như những hạt giống
được gieo trong đất tốt. Sẵn đức tính hiếu học lại cần cù, nhiều người đã học
thành tài, đã thành công trên mọi lãnh vực, đóng góp nhiều cho Hoa Kỳ. Có người
đã ưu ái gọi những đứa con này là: “The children of John McCain”.
John McCain là ai? Ông là một Trung Tá Phi Công
của Hải Quân, bị bắn rơi trong một phi vụ oanh kích tháng 10/1967. Rồi sau đó
bị giam cầm ở Bắc Việt hơn 5 năm tại Hỏa Lò. Ông được trả tự do ngày
14/3/1973, sau khi Washington và Hà Nội ký hiệp ước trao trả tù binh.
Từng là một cựu tù nhân chiến tranh, chịu sự giam
cầm của Cộng Sản Bắc Việt, chịu đựng những hành hạ khổ nhục của Cộng Sản Việt
Nam. Với tấm lòng nhân hậu và cảm thông, Thượng Nghị Sĩ John McCain đã hăng hái
góp tay cùng các ông Shef Lawman nhân viên Bộ Ngoại Giao. Ông Robert
Funseth Phụ Tá Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách chương trình tỵ nạn, đã vận động
Tổng Thống Reagan và Quốc Hội Hoa Kỳ. Bên Lập Pháp còn có ông Thượng Nghị Sĩ
Robert Kennedy và phần đông những Nghị Sĩ, Dân Biểu, ngày xưa là cựu chiến binh
Hoa Kỳ họ hiểu hoàn cảnh của những người anh em, nên rất ủng hộ tiến trình cứu
giúp những tù nhân chính trị Việt Nam Cộng Hòa. Vận động chính phủ Mỹ và nhà
cầm quyền cộng sản Việt Nam đồng thuận trao đổi, để các cựu tù nhân và gia đình
được định cư tại Hoa Kỳ.
Ông Lâm vẫn nhắc nhở con cái: “Các con được như
ngày hôm nay, là nhờ sự can thiệp của ông John McCain, cùng nhiều vị
trong giới chức chính quyền, về diện tuổi của con em HO. mà nước Mỹ đã mở
lòng đón nhận. Các con phải ghi nhớ mãi mãi”.
Sau này, chúng tôi và ông bà Lâm không còn ở
cùng xóm như hồi mới qua, nhưng vẫn liên lạc và thỉnh thoảng ghé thăm. Ông bà
tuy lớn tuổi nhưng vẫn còn minh mẫn.
Hôm Thứ Bảy, ngày 25/8/ 2018. Trên thuyền thông
báo chí đưa tin ông John McCain từ trần, hưởng thọ 81 tuổi. Ông Lâm điện thoại
nói chuyện với nhà tôi, ông muốn được đến trước linh cửu ông Thượng Nghị Sĩ
McCain để nói lời cám ơn chân thành.
Trong ngày 29/8/2018, linh cửu của Nghị Sĩ
John McCain đã được đưa đến điện Capitol Arizona, ở thành phố Phoenix. Nhiều
người Mỹ gốc Việt, từ các cộng đồng việt Nam ở Arizona và California, đã có mặt để cùng với hàng ngàn người xếp hàng, chờ dịp được bày tỏ lòng kính phục
cố Thượng Nghị Sĩ. Ông Lâm cũng theo những người Việt đầu tiên từ Quận Cam trên
hai chuyến xe bus, mất sáu tiếng đồng hồ mới đến nơi, cùng dòng người Việt Nam
mỗi lúc một dài, để vào viếng và tiễn đưa ông lần cuối.
Nước Mỹ mất đi một thượng Nghị Sĩ kỳ cựu,
một người luôn tận tụy và hy sinh cho quốc gia. Cộng đồng người Việt Nam tại
Hoa Kỳ đã mất đi một người bạn tốt, một ân nhân. Nhất là đối với các cựu tù
nhân Việt Nam Cộng Hòa. Từ thế hệ cha ông đến thế hệ con cháu, đều được hưởng
ân huệ đổi đời. Việt Nam chúng tôi có câu “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Xin
cám ơn ông John McCain.
Vào ngày thứ sáu, linh cửu ông John McCain được
đặt ở tòa nhà Quốc Hội, tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, nơi các chính khách và người
dân được vào thăm viếng. Đến Chúa nhật, ngày 2/9/2018, ông được an táng tại
nghĩa trang trường Sĩ Quan Hải Quân ở Maryland, bên cạnh Đô Đốc Chuck Larson là
một trong những người bạn thân nhất của ông.
Chi Mai cùng anh chị là con của ông bà Lâm, cũng
có mặt trong nhóm con cháu hậu duệ HO. Để đến dự tang lễ Thượng Nghị Sĩ John
McCain ở Hoa Thịnh Đốn. Với hai tấm banners:
1. “Hậu duệ HO. ngàn đời không quên ơn Thượng
Nghị Sĩ John McCain”.
2. “The Vietnamese Political Prisoners’ Children
Will Never Forget The Man Who Saved Our Lives: Senator JOHN MCCAIN”.
Xin vĩnh biệt ông John McCain, người có tấm lòng
bao dung và nhân hậu. Chúng tôi là những gia đình HO. Không bao giờ quên
ơn ông.