Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016

Xuân Yêu Thương




XUÂN YÊU THƯƠNG

Hoàng Thanh Phước


Thưa vâng! Đây là tựa đề bài hát "Xuân Yêu Thương" nhạc ngoại quốc, lời Việt của Quỳnh Giang mà các anh chị em chúng tôi gồm có anh cựu hội trưởng Hà Ngọc Quỳnh, anh tân hội trưởng Võ Minh Vinh + chị Hiền (hiền thê), anh hội phó ngoại vụ Nguyễn Xuân Thanh + chị Hoa (hiền thê), anh Trần Hoàng Thân trưởng ban văn nghệ và cũng là Phó Ngoại Vụ của Gia Đình Nguyễn Huệ Bắc Cali, chị Thu Tâm, chị Phan My, chị Sáu và Thanh Phước đã trình diễn vũ khúc mở màn cho chương trình văn nghệ mừng xuân Bính Thân của Hội Ái Hữu Phú Yên Bắc Cali, được long trọng tổ chức vào chiều Thứ Bảy ngày 13-2-2016 vừa qua tại nhà hàng Grand Fortune, San Jose.

Chào cờ Hoa Kỳ và Việt Nam
(Click vào hình trong bài để xem rõ)

Phần tường thuật dạ tiệc mừng xuân đã được anh hội trưởng Võ Minh Vinh kể rõ từng chi tiết quá đầy đủ rồi. Ở đây Thanh Phước xin gởi gấm chút tâm tình và cảm tưởng của mình đến với quí vị đồng hương và thân hữu mà thôi. Có gì sơ sót xin niệm tình thứ lỗi cho.

Đặc biệt năm nay hội tổ chức mừng xuân mới sớm hơn những năm trước, nhằm vào ngày mùng 6 tháng giêng âm lịch. Không khí Tết vẫn còn đang rầm rộ, tưng bừng hào hứng và mặc dù ngày hôm đó có nhiều hội đoàn cùng tổ chức mừng xuân và vài nơi có hội chợ cho cộng đồng người Việt tại San Jose nhưng số đồng hương và thân hữu đến tham dự vẫn đông đủ, khoảng trên 200 người.

Thật ấm cúng, thật ân tình, có những đồng hương vì bận rộn việc gia đình, bận con cháu nên vắng mặt mấy năm trước, nay cũng hiện diện như thầy cô Nguyễn Khoa Đằng, thầy cô Ngô Càng Phương, anh chị Nguyễn Đình Cai, anh chị Đỗ Như Tại, chủ nhân nhà hàng Lá Sen ở Fremont v v... Rất mong quý thầy cô và các anh chị CHS Phú Yên tại vùng thung lũng hoa vàng hàng năm nhớ đến tham dự, chung vui với Hội AHPYBC, để càng ngày đồng hương chúng ta càng thắt chặt tình đoàn kết, thương yêu, lưu tâm đến nhau nhiều hơn.

Nhạc cảnh Xuân Yêu Thương

Cho tôi xin phép được nói thêm về anh chị Nguyễn Đình Cai một chút xíu. Anh Cai đương kim tổng thư ký của gia đình CHS Nguyễn Huệ Bắc Cali, anh chị vừa "trúng số độc đắc", hai đứa cháu ngoại mới chào đời cách đây không lâu, mặc dù ông bà ngoại tất bật phải lo cho cháu nhưng anh chị rất có lòng với Phú Yên nên không những tham gia đi dự hội xuân mà còn dành thì giờ đóng góp văn nghệ cho chương trình của hội thêm phần phong phú.

Để cho hoạt cảnh "Xuân Yêu Thương" được hoàn hảo, mặc dù những ngày cận tết quá bận rộn, vả lại các anh chị còn phải đi làm nên tối đến chúng tôi kéo đến nhà anh chị Thanh&Hoa tập dợt vài lần mới xong. Tuổi hạc đã cao nên tập trước quên sau, không được nhuần nhuyễn cho lắm. Nhân ngày mùng 4 tết nhà anh chị Thanh&Hoa cúng tạ đưa ông bà nên mời chúng tôi cùng "hưởng lộc" đầu năm, vui quá quên cả mệt nhọc. Anh Cai làm "đạo diễn", cứ mỗi lần anh hô lớn: "các bà nội, bà ngoại chuẩn bị..." thế là bọn tôi lại cười đau cả ruột. Chưa bao giờ vui như thế, thật gần gũi, ấm cúng, thân thương như một gia dình.


Chị Phan My & anh Đình Cai

Ban đầu chị Phan My, hiền thê của anh Đình Cai nói với tôi rằng: "em không lên sân khấu đâu, em ăn chay trường mà múa hát cái gì". Tôi bảo: "thì em cứ thử xem, nếu không thích thì thôi". Cuối cùng vui quá, mà chị My nhà ta lại là người múa dẻo và đẹp nhất. Thế mới hay. Không thử làm sao biết.

Cũng không quên cám ơn đến ông bà bác sĩ Đặng Phương Trạch, văn thi sĩ Nhã Giang Thu Tâm là những thân hữu đặc biệt của Hội AHPYBC đã ủng hộ tài chánh và giúp vui văn nghệ nhiều năm liền.

"Một cây làm chẳng nên non, ba cậy chụm lại thành hòn núi cao". Quả đúng như thế. Hội Tết của AHPY Bắc Cali năm nay thành công rực rỡ về hình thức, nội dung và tài chánh cũng nhờ vào sự đóng góp công sức của nhiều đồng hương trong hội, nhất là các anh chị trong ban chấp hành. Tất cả mọi người cùng "xắn tay áo" lao vào làm việc. Gia đình anh cựu hội trưởng Hà Ngọc Quỳnh, anh Hà Định, anh Hà Trí, Khúc Minh& Mộng Kha. Gia đình Nguyễn Xuân Thanh, chị Kim Loan, anh Nguyễn Bá Nhượng, chị Sáu Để, chị Đặng Nga v.v...


Phó nhòm: anh Hà Công Định

Những hình ảnh đẹp về sinh hoạt của hội là do công lao của hai "phó nhòm" anh tổng thơ ký Hà Công Định và chị Nguyễn Hiền phụ trách. Dĩ nhiên, người vất vả nhất vẫn là anh hội trưởng Võ Minh Vinh và anh trưởng ban văn nghệ kiêm MC Trần Hoàng Thân. Các anh rất xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Tôi thấy bóng dáng những tà áo đỏ thấp thoáng dưới kia, thì ra các chị Hiền, My, Sáu, Hoa ... ôm giỏ đi bán vé số gây quỹ cho hội. Thảo nào tiền thu vô có phần trội hơn những năm trước cũng là nhờ vào "những chiếc áo dài xinh đẹp". Chị Hiền là phụ tá đắc lực của anh hội trưởng, luôn sát cánh, ủng hộ phu quân hết mình. Cám ơn các chị.


Ông Bà Phan Thanh Hùng (Hội Trưởng Hội Tây Sơn Bình Định)

Thưa quí vị! Sự thành công nào cũng có cái giá phải trả. Trong hoạt cảnh "Bà rằn bà rí" do Thanh Phước và chị Thu Tâm thủ diễn, đang hát ngon lành không hiểu tại sao tôi quị chân ngồi bệt xuống sàn "ăn vạ" Phú Yên. Có lẽ do bận rộn chạy tới chạy lui nhiều, bụng đói chưa kịp ăn uống gì, cũng có thể vì tuổi già sức yếu, mỏi gối chồn chân nên không đứng lên được. Lúc bấy giờ quá bất ngờ tôi không nghĩ đến bản thân tôi mà thoáng qua tâm trí: "chết rồi, sao thế này???". May quá vừa lúc đó anh Duy Nhượng kịp thời chạy tới đỡ tôi lên, và có thêm người đàn ông nữa cũng lao tới. Thì ra đó là anh cựu hội trưởng Hà Ngọc Quỳnh. Anh Quỳnh thường ngày rụt rè, ké né lắm nhưng nay anh thật quá nhanh nhẹn, thể hiện bản lãnh của một người đàn ông. Xin cám ơn anh Quỳnh nhiều lắm. Anh đã quen lưu tâm đến hội viên của mình đang làm gì?! nghĩ gì?! và nhờ thế tôi đứng lên diễn tiếp. Hú hồn! không bị "bể dĩa" là may rồi.

Bà Rằn Bà Rí (Thanh Phước&Thu Tâm)

Nói dại, nếu chẳng may lúc đó nằm nhắm mắt xuôi tay luôn, tôi cũng mãn nguyện "ngậm cười nơi chín suối" vì tôi đã nói rất nhiều lần với mọi người là tôi đến với Phú Yên tới hơi thở cuối cùng. Vì nơi đây đã cho tôi một mái ấm gia đình hạnh phúc, yên vui với 8 người con vừa dâu rể và 9 đứa cháu nội, ngoại quây quần bên nhau. Xin cảm tạ ơn Trời, cảm tạ đất Phú thương yêu...

Riêng anh Duy Nhượng của tôi là thế đó. Bất cứ trong mọi tình huống nào hiểm nguy nhất vẫn luôn có anh bên cạnh nâng đỡ, chở che. Vì thế trong ngày lễ Valentine vừa qua tôi có viết bài thơ "Bờ Vai Anh" để cám ơn anh những năm tháng dài vất vả lo lắng cho tôi:


Anh Duy Nhượng

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .                                                                          
Anh là "Bách" là "Tùng" em nương tựa                                                                   
Bờ vai anh ấm nồng đêm trăn trở                                                                             
Tạ ơn anh trọn nghĩa bấy năm chờ                                                                       
Tình phu phụ, suốt đời em lưu giữ.

Bên cạnh đó cô em gái Mộng Kha, bào muội của anh Quỳnh mà chúng tôi thường gọi một cách thân thương là "Khúc Minh Mộng Kha, cặp đôi MC hoàn hảo" cũng vội vã chạy lên sân khấu tặng hoa và dìu tôi xuống khi màn diễn kết thúc.


Thanh Phước & Mộng Kha

Có ai đó đã nhanh tay chụp được tấm hình này, đã nói lên biết bao tình cảm trìu mến thương yêu...
"Chị ơi! chị có đau không?. Tội nghiệp bà chị của tôi quá...".

Tấm hình này với tôi quả là một món quà vô giá. "chị ngã em nâng", ngày xưa mình đã học. Cám ơn em nhiều lắm, Mộng Kha ơi!.
Tình người, tình đồng hương và "Xuân Yêu Thương" là ở chỗ cao quí này đây...

San Jose, xuân Bính Thân

Hoàng Thanh Phước








Lời Của Đêm

GIỚI THIỆU
Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy Cô, quý Đồng Môn và quý Thân Hữu
bài thơ LỜI CỦA ĐÊM của văn thi sĩ Nguyễn Tuyết Lộc, tác giả tốt nghiệp Khoa Triết đại học Đà Lạt, cựu giáo sư trường Phan Châu Trinh và Cao Đẳng Sư Phạm Đà Nẵng. 
Trân trọng giới thiệu.
NHHN



Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2016

Hát Khúc Nhạc Đời

GIỚI THIỆU
Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy Cô, quý Đồng Môn và quý Thân Hữu
Những dòng cảm nghĩ và bài thơ Hát Khúc Nhạc Đời của CHS Nguyễn Huệ Trần Hoàng Phước Hậu.
Trân trọng giới thiệu.
NHHN

"Sau khi đọc hai bài
- Bạn Tôi của Nguyễn Tuyết Lộc
- Dòng Sông Êm Đềm của Lê Nguyễn Hằng & Nguyễn Hữu Hoàng,
mình như được hòa vào trong cuộc sống của 2 câu chuyện cảm động ấy,
và mình có được nguồn cảm hứng để làm vài câu thơ hòa theo những dòng văn
diễn tả những mảnh đời thăng trầm theo những nốt nhạc của nhân sinh.

Xin gửi tậng bài thơ Hát Khúc Nhạc Đời đến với các tác giả của Bạn Tôi và Dòng Sông Êm Đềm,
đồng thời cùng kính mới quý thầy cô và đồng môn thưởng lãm."

Trần Hoàng Phước Hậu.




Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2016

Dòng Sông Êm Đềm



Tuy Hòa, nơi Nguyễn ở cách nay gần sáu chục năm, là một thành phố nhỏ hiền hòa nằm sát bờ biển, giống như nàng “Mỹ Nhân Ngư” phơi tấm thân kiều diễm trên bãi cát trắng tinh. Nàng dựa đầu trên núi Chóp Chài, đôi mắt mơ màng nhìn ra biển Đông, nghe gió thổi vi vu qua những bãi thùy dương dày đặc trên bãi biển Đại Lãnh, đầu đội vương miện hình Tháp.

Ai từng đi qua Tuy Hòa, nhìn lên Tháp Nhạn đứng hiên ngang trên đỉnh núi, soi mình bên dòng Đà Giang lững lờ trôi, đều ngậm ngùi cho nền văn minh một thời rất huy hoàng của nước Chiêm Thành. Cả một vương quốc đã mất hẳn dấu tích, chỉ còn lại vài cái tháp đứng trơ gan cùng tuế nguyệt!

Xa kia về phía nam là ngọn Thạch Bi Sơn (Núi Đá Bia) cao ngất quanh năm mây phủ, đánh dấu chiến công hiển hách của vua Lê Thánh Tôn một thời đại phá quân Chiêm Thành. Đó cũng là biên giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành thời Hậu Lê.

Nguyễn là một trong nhóm người Bắc di cư nhỏ nhoi, được may mắn định cư và lớn lên trên vùng đất tự do, ấm cúng Tuy Hòa nơi mà người dân có tiếng là chất phác, đôn hậu và nhiệt tình.


Di cư vào Nam năm 1954

Thời 54, chính quyền cho cất một xóm độ vài chục căn nhà tranh vách đất vây quanh cái giếng nước trên một mảnh đất khá rộng, để đón dân Bắc Kỳ di cư. Tất cả sinh hoạt của trại đều xảy ra ở đó, từ tắm rửa, giặt quần áo, xách nước về nhà để nấu ăn, chuyện gẫu, trai gái gặp gỡ làm quen. Đó đúng là một tụ điểm hội họp, giống như sân đập lúa ở một làng quê, bởi vì chẳng có một thứ giải trí nào khác.

Đời sống trong trại di cư khác thật xa với các trại của vùng kinh tế mới sau này. Đó là một đời sống tạm đầy đủ, êm đềm, tự do và tự tin cho tương lai của gia đình và đất nước. Trẻ con đều được đi học mà không phải trả bất cứ một khoản học phí nào. Nguyễn có những bạn cùng lớp đạp xe đi học từ những vùng thôn quê xa xôi. Bệnh viện đều miễn phí, rộng rãi và hợp vệ sinh. Xã hội có tôn ti trật tự và lễ nghĩa: kính trên nhường dưới. Cửa nhà không cần khóa hai ba lớp. Chẳng phải thời Nghiêu Thuấn, nhưng tương đối hạnh phúc yên bình cho tới khi những tai họa từ trên núi đổ xuống: ám sát, chặn đường, gài mìn, pháo kích, súng nổ khắp nơi. 

Ba Nguyễn dạy học mãi ngoài Hội An, nên Nguyễn ở lại Tuy Hoà với Ông Nội và hai bà cô để tiện bề học hành và hầu hạ Ông.  Nguyễn coi Ông giống như Cha, nhưng đôi khi cũng rất cô đơn, buồn và tủi thân. Bởi vì Ông già hơn Cha nhiều và khó gần gũi. Những lúc như vậy, hầu như Nguyễn chỉ có bé Uyên là người thân thích nhất.    

Uyên là “cô bé lọ lem” nhà hàng xóm, nhỏ hơn Nguyễn sáu, bảy tuổi gì đó. Ba Uyên là quân nhân, luôn vắng nhà. Mẹ Uyên thương Nguyễn như con bà vậy. Nguyễn chỉ biết ai cũng gọi bà là “Cô Ba Nam kỳ”. Lúc rảnh rỗi Nguyễn hay lại nhà em chơi. 

Bé Uyên thường theo Nguyễn đi nhà thờ. Đó là ngôi thánh đường rất nhỏ, gần một dòng sông, có những hàng cây keo cao ngất mọc bên bờ, đầy gai và hoa trắng nõn, dày cơm, ngọt lịm. Bé Uyên và Nguyễn hái hoa keo ăn chán chê, rồi ngồi trên bờ cát nhìn xuống dòng sông nhỏ bé lững lờ trôi, ngắm bày chim chiền chiện đuổi nhau trên đám cỏ lau kêu ríu rít, quên cả vô nhà thờ cầu nguyện.


Thánh đường Tuy Hòa

Hai đứa sống bên nhau như hai trẻ mồ côi lạc loài. Tất cả tình thương Nguyễn đều dành cho Uyên, chiều chuộng em như chính em ruột của mình. Uyên cũng cảm nhận được điều đó nên luôn mè nheo Nguyễn.

- Anh Hai, mấy con chim đó tên là gì dzậy?
- Người ta gọi là chim chiền chiện.
- Ai đặt tên cho nó dzậy?
- Anh hổng biết.
- Chắc má nó đặt tên cho nó phải hông?
- Chắc Ba nó đặt đó, giống như Ba đặt tên cho em dzậy.
- Ừ há.
- Bắt nó cho em đi, anh Hai.
- Nó chạy nhanh lắm, làm sao anh bắt được.
- Cẳng anh dài hơn cẳng nó mà.
- Nhưng nó có cánh.
- Thôi em hổng chơi dzí anh nữa đâu, anh lớn như dzầy mà hổng bắt được con chim nhỏ xíu đó.
- Để nó sống với ba má, bắt nó làm chi tội nghiệp, lỡ nó nhớ ba, buồn rồi bịnh chết mất sao.
- Anh Hai ơi, em nhớ Ba quá hà, bữa nào Ba dzìa, em nói Ba dẫn anh em mình đi ăn cơm gà siu siu nghe.
- Ừ phải đấy. 

Nguyễn thấy mắt em đỏ hoe và quên mất chuyện đòi bắt chim chiền chiện. Nguyễn ôm em thật chặt, và hôn lên tóc em. Nguyễn thương em và thương mình quá đỗi. 

- Ngoan đi, anh còn một đồng đây, anh mua bánh rán cho em ăn nghe?
- Hổng chịu đâu.
- Chè đậu dzán dzậy?
- Hổng chịu.
- Kẹo kéo nhá, quay số trúng, chịu hông?

Nghe quay số mắt em sáng lên nhưng phụng phịu:
- Em chỉ muốn ăn kẹo bột thôi.
- Kẹo bột là kẹo gì dzậy trời?
- Kẹo đường đen rắc bột trắng đó.
- Trời đất, kẹo đường cứt trâu đó hả? 


Em mở to mắt tròn xoe như hai viên bi thủy tinh và gật đầu lia lịa. 
- Mở miệng ra coi, còn mấy cái răng mà đòi ăn kẹo bột. Em có biết là ăn nhiều đường sẽ bị sún răng không? Con gái mà sún răng trông xấu lắm mà còn bị bạn “lêu lêu” nữa đó.
- Thiệt hông? Anh xạo, em mét má cho coi.
- Sao hổng thiệt, em sờ dzô thì biết, coi chừng răng sún cắt đứt tay đó nghen. 


Con bé có vẻ sợ thiệt, rơm rớm nước mắt. Nguyễn phải ôm Uyên dỗ dành. Có lẽ Nguyễn thương em nhất trên đời. Em ở ngay bên Nguyễn, an ủi Nguyễn, cần Nguyễn che chở, dẫn dắt, tất cả mọi thứ khác đều quá xa vời. 

- Em thấy anh Hai khóc nè!
- Đâu có, cát bay dzô mắt anh đó.
- Anh Hai xạo quá, rõ ràng em thấy tóc em ướt mà.
- Chắc con chim chiền chiện bay ngang nó tè trên đầu em, vì em đòi bắt nó đó.



Tháp Nhạn


Em cười rũ rợi, và đấm trên ngực Nguyễn liên hồi. Hai đứa quên hết muộn phiền. 

Muốn đến nhà thờ phải lội bộ ngang ga xe lửa rồi băng qua nhiều đồi cát, Nguyễn vừa đi vừa kể chuyện cho Uyên nghe, đó là những chuyện Nguyễn đọc được trong các trang báo thiếu nhi, hay những truyện nhi đồng như Bạch Tuyết Và Bẩy Chú Lùn, Cô Bé Lọ Lem, Cô Bé Quàng Khăn Đỏ, Thằng Người Gỗ... Nhiều khi vừa cõng em vừa kể chuyện, tới lúc cô bé đã ngủ gục trên vai Nguyễn lúc nào không biết. Mỗi lần đi ngang ga xe lửa, mùi cơm gà siu siu từ gánh hàng rong của chú Ba lại làm bụng hai đứa Nguyễn cồn cào, nước miếng thi nhau chảy ra như mưa rào. Ôi những miếng thịt gà vàng ngậy, bóng lưỡng nằm trên đĩa cơm nấu bằng nước gà luộc rồi chiên với mỡ gà.Lần nào đi ngang qua hàng cơm gà Uyên cũng dán mắt vào đó, chân bước đi không nổi.Nguyễn chỉ có mỗi ước mơ nhỏ bé, một ngày nào đó sẽ mua cho Uyên một dĩa cơm gà siu siu! 

Có lần cô Ba mắc đi sanh em bé, Cô xin phép Nội cho Nguyễn qua ngủ trông nhà và Uyên cho Cô. Cô phải vào nhà hộ sanh sớm, kẻo tối có chuyện gì đi không kịp.Tỉnh nhỏ làm gì có phương tiện chuyên chở như bây giờ, đêm hôm chỉ có nước lội bộ thôi.
Nguyễn dắt Uyên về Nội ăn cơm rồi hai đứa về nhà em ngủ.Dạo đó, Nguyễn đang học đệ lục (ngang lớp 7 bây giờ), kể cũng đã lớn rồi.Uyên còn nhỏ lắm.Buổi tối em nhất định đòi Nguyễn ngủ chung giường, Uyên nói: 

- Em ngủ một mình sợ lắm, em vẫn ngủ chung với Má.
- Nhưng anh là con trai, em là con gái không ngủ chung được.
- Thế Ba với Má vẫn ngủ chung đó sao.
- Ba với Má thì khác, lớn lên em sẽ hiểu.
- Em thấy khác gì đâu, em hổng chịu đâu. 


Giọng Nam Kỳ nhõng nhẽo, mếu máo, khiến Nguyễn không thể làm phật ý em được. Đợi khi em ngủ say, Nguyễn gỡ tay ra, trải chiếu, ngủ trên thềm nhà. Buổi sáng khi vừa mở mắt ra, đã thấy em nằm ngủ say sưa bên cạnh. Uyên ngây thơ và vô tư như thiên thần. 

Từ ngày có em bé, Uyên không còn được Mẹ chăm sóc như xưa, em quanh quẩn bên Nguyễn nhiều hơn, buổi tối thường ăn cơm chung với Nguyễn và đòi chỉ em làm bài tập. 

Năm cuối cùng trung học đệ nhất cấp, Nguyễn chuẩn bị đi Saigon học tiếp. Sẵn có tiền Nội cho, Nguyễn dẫn Uyên đi ăn cơm gà siu siu, đó là bữa ăn ngon nhất trên đời Nguyễn và em được ăn. Dù sau này đi khắp năm châu bốn bể, Nguyễn cũng không thấy bữa ăn nào ngon như thế.


Núi Đá Bia

Lúc Nguyễn lên đại học thì Uyên vừa vào trung học. Mỗi năm cứ vào dịp hè Nguyễn lại đáp xe lửa về Tuy Hòa thăm Nội và Uyên. Nguyễn hay dẫn em leo núi Nhạn hái trái sim màu tím thẫm ngọt lịm hay trái dú dẻ màu vàng tươi, thơm ngát. Đó là những ngày hè vui nhất trong đời. Uyên càng lớn càng xinh đẹp hơn, không còn là cô bé lọ lem ngày nào. Uyên và Nguyễn vẫn leo lên mấy đồi cát đi về phía nhà thờ bên dòng sông thời thơ ấu, nhưng em không còn bắt Nguyễn cõng và cũng không còn đòi ăn kẹo bột nữa. 

Đôi khi Uyên và Nguyễn ra ngồi ngoài bãi biển yên lặng nhìn mông lung về phía chân trời, mắt dõi theo những chiếc thuyền lững lờ trôi về nơi xa xăm. Sự tin yêu và thông cảm đã khiến hai người hiểu lòng nhau mà không cần phải nói thành lời. 

Chiến cuộc ngày càng khốc liệt hơn, đời Nguyễn rồi cũng sẽ như những chiếc thuyền vô định trên biển cả mênh mông kia. 

Những năm đại học thật vất vả, Nguyễn vừa phải lo kiếm sống vừa phải vùi đầu vào đống sách vở cao ngất ngưởng. 

Rồi vụ thảm sát Tết Mậu Thân xảy ra, thời hạn hoãn dịch vì học vấn không còn hiệu lực nữa. Nguyễn cầm Lệnh Gọi Nhập Ngũ mà lòng bâng khuâng khôn tả. Những ngày tháng mơ mộng của tuổi cắp sách đến trường đã chấm dứt. Cuộc đời Nguyễn đi vào một ngõ rẽ, đầy chông gai, và tương lai thì rất mịt mờ. 

Nguyễn đã 23 tuổi và có đúng một tháng để gói ghém tuổi học trò cất vào ngăn tủ khóa lại kỹ càng trước khi bước vào quân ngũ. 

Nguyễn trở lại Tuy Hòa thăm Nội và từ giã Uyên. Em vừa xong trung học đệ nhất cấp, chuẩn bị lên đệ tam (lớp 10). Uyên đã biết e lệ khi đi bên Nguyễn, con mắt to đen láy có bóng Nguyễn trong đó. Con đường đi lên đồi cát dẫn đến dòng sông tuổi nhỏ, Uyên và Nguyễn đã đi qua biết bao nhiêu lần, nhưng lần này thật mới, xa lạ, ngập ngừng, e thẹn. Nắng sớm mai trải dài trên những đồi cát, chỗ sáng chỗ mờ, tạo thành những đợt sóng cát vô tận, như những đợt sóng ngầm trong lòng hai đứa.


Sông Đà

Uyên và Nguyễn ngồi bên nhau, bên bờ sông dưới hàng keo rậm rạp, nhìn cặp kỳ nhông đầy màu sắc rượt đuổi nhau trên bãi cát. 

- Anh Hai kỳ ghê hà, sao nhìn em hoài dzậy?
- Anh muốn mang bé đi mãi mãi trong tim anh, dù có phiêu bạt tận chân trời góc biển nào đi nữa.
- Thôi hổng chịu đâu, anh Hai ở lại đây dzới em.
- Hổng được đâu, người ta nhốt anh trong tù thì sao?
- Em sẽ biến thành con muỗi, chui vô thăm anh mỗi ngày, chịu hông?
- Hổng chịu, muỗi chích đau lắm.
- Thôi làm con kiến dzậy, hổng được, con bươm bướm chịu hông?
- Chịu, người ta đưa anh lên rừng thì sao bướm bay cho nổi?
- Em sẽ hóa thành con chim bay theo anh.
- Người ta thảy anh xuống biển thì sao?

- Em sẽ hóa thành con cá lội theo anh. Thôi em hổng chơi dzới anh nữa đâu, tối ngày đòi đi này nọ, hổng chịu ở đây dzới em. 

Em thật ngây thơ, chuyện đời đâu phải cứ muốn là được. Nguyễn cũng như chiếc lá lênh đênh trên dòng sông dưới kia, trôi hoài trôi mãi, cố vẫy vùng cũng không thoát khỏi số phận. 

Rồi cũng đến lúc Nguyễn phải ra đi. Bước lên con tàu, nhìn Uyên ở lại sân ga, trong bộ quần jean áo trắng Nguyễn mới cho em, hai vạt áo chemise cột chéo vào nhau, dáng thật trẻ trung, đang sụt sùi lau nước mắt. Tiếng còi tàu thét lên, tim Nguyễn như vỡ ra từng mảnh, con tàu từ từ lăn bánh. 

Em ở lại ôm ấp mối tình ngây thơ, còn Nguyễn ra đi mang theo hình bóng em trên con đường vô định. 

Những năm tháng miệt mài với chiến trận, Nguyễn theo đoàn quân mũ nâu, lội khắp các tỉnh miền Trung rồi lên cao nguyên Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Phú Bổn, Phú Túc, Đức lập, Dakto, Ben Het, Quốc lộ 14, nhiều lắm kể sao cho hết. Nguyễn đi đến đâu cũng mang theo bé Uyên trong tim. Em như thiên thần hộ mệnh, giúp Nguyễn vượt qua bao gian nan, nguy hiểm, cho đến ngày Ban Mê Thuột thất thủ, Nguyễn trở thành tù binh.


Quân trường sĩ quan Thủ Đức

Những năm tháng tù đầy hình ảnh em luôn ở bên cạnh Nguyễn, có lúc là con muỗi, đậu ngoan ngoãn trên cánh tay Nguyễn, có lúc là con chim hót líu lo trên cành cây giúp Nguyễn quên đi những bó cây rừng nặng nề trên vai. Có lúc Nguyễn thẫn thờ thấy em là con bướm đang chập chờn trước mặt, cười cợt, khiến lòng Nguyễn quên đi bao nhiêu phiền não lo âu. Vâng, em đã giữ đúng lời hứa theo Nguyễn từng bước chân lưu lạc tù đầy. Nguyễn gọi tên em khe khẽ trong cơn sốt rét rừng lạnh run người, rồi nóng bỏng. Nguyễn thấy em mặc áo trắng toát, đuôi áo xòe ra tận chân trời. Nguyễn cầm tay em đi bên dòng sông tuổi nhỏ, những con kỳ nhông sặc sỡ bu đến bên em, rồi tất cả bay lên khỏi từng mây trong bầu trời nắng chan hòa, có những đàn chim chiền chiện nâng áo em như thể đang trong ngày cưới, ở một vùng trời thênh thang, xa hẳn cõi trần thế khổ đau. 

Rồi Nguyễn cũng được thả ra khỏi trại tù cải tạo của cộng sản. Qua bao khó khăn, trở ngại tìm đường trở lại Tuy Hòa, Nguyễn đau đớn thấy thành phố đã xa lạ, tan tác. 

Chú Ba với gánh cơm gà siu siu đã phiêu bạt nơi nào. Nội Nguyễn đã qua đời, cô Nguyễn đã có chồng vẫn còn trong trại tù nào đó tận đâu ngoài Bắc. Căn nhà Uyên ở nay đã thuộc về người khác, có lẽ là cán bộ từ miền Bắc vào. Em ở đâu, gia đình Nguyễn lưu lạc phương nào Nguyễn chẳng biết. Đúng là cảnh nước mất nhà tan. Thành phố nay đã thay đổi, chẳng nhìn thấy một nụ cười, phố xá xơ xác điêu tàn. 

Nguyễn tìm về dòng sông tuổi nhỏ, nơi Nguyễn và em đã từng đến để sưởi ấm tâm hồn. Những con chim chiền chiện vẫn còn đó, những hàng cây keo cao ngất vẫn còn đây, những con kỳ nhông vẫn vô tư đuổi nhau trên bãi cát. Nguyễn tự hỏi đã có bao nhiêu thế hệ chiền chiện bay ở đây? Bao nhiêu lần lá keo thay đổi, nhưng dòng sông thời thơ ấu vẫn còn y nguyên, như tấm lòng của Nguyễn đối với Uyên. Nước vẫn lững lờ trôi êm đềm, mang theo cả tuổi thơ của hai đứa Nguyễn đi mất. Nguyễn muốn khóc, cho em, cho Nguyễn, cho tất cả những người Việt Nam điêu linh, khốn khổ vì chiến tranh, vì hận thù. Nước mắt Nguyễn đã cạn khô từ những ngày trong lao tù tủi nhục. Linh hồn Nguyễn đã bay khỏi địa ngục trần gian, để lại một thân xác còm cõi, bơ vơ, rã rời. 

Nguyễn thấy mình cô đơn hơn bao giờ hết, hơn cả những ngày còn rất bé bỏng, trong một làng quê hẻo lánh bên bờ sông quê nội, thuộc “vùng Tề". 

Trong biến cố di tản miền Trung thời 75, Ba Mẹ Nguyễn may mắn thoát được về Saigon yên ổn, ở chung nhà Bà Cô. Nguyễn đoàn tụ với gia đình sau khi ra tù. 

Từng bước chân, từng cánh tay cử động cũng có những con mắt theo dõi. Trong nhà phải nói chuyện thì thầm với nhau tưởng như trong vách kia có cả trăm lỗ tai đang nghe ngóng. Những bữa ăn vội vã, một mắt nhìn vào bàn ăn còn mắt kia phải canh chừng ngoài cửa, công an khu vực có thể vào nhà bất cứ lúc nào, đi từ trước ra sau không cần hỏi han một tiếng. Nguyễn chưa từng tưởng tượng ra được có một ngày mình phải ở trong một hoàn cảnh tương tự và cũng chưa từng đọc được trong sách vở có một thiên đường hạnh phúc như vậy trên thế gian này. 

Nguyễn không thể sống trên quê hương giữa những người cùng máu mủ đồng bào mà lòng đầy hận thù chia rẽ. Cuộc sống thật sự không có ngày mai cho những người bị gọi là “Ngụy”. 

Sau hai lần vượt biên thất bại, cuối cùng Nguyễn cũng đến được Pulau Bidong Mã Lai trên con tàu mỏng manh, cùng với mấy chục con ma đói rách rưới, hôi hám, bẩn thỉu, không còn đủ sức lết ra khỏi thuyền.


Pulau Bidong

Có những đêm không ngủ được, nhớ Uyên, nhớ Nội, nhớ gia đình Ba Mẹ, bạn bè, chiến hữu đã từng cùng Nguyễn vào sanh ra tử, Nguyễn lần lên đồi tôn giáo, cầu nguyện. Nhìn xuống đám nhà thuyền nhân dưới kia, những cái được gọi là nhà đó chỉ là mấy nhánh cây rừng làm cột, lợp tôn mỏng, thùng giấy hoặc lá dừa. Hàng chục ngàn con tim đang thổn thức trong đó, có những người cố dỗ giấc ngủ như Nguyễn, có những người đang khóc thầm vì mất vợ, mất chồng, mất con, mất cha mẹ, anh em. Có những người đang tự trách mình vì đã bỏ rơi bạn bè, chiến hữu trong lúc thập tử nhất sinh. Họ đang cố gắng quên đi những tủi nhục một đời, tù đày, ức hiếp, hăm dọa, đánh đập, chiếm đoạt tài sản, rồi bị săn đuổi như một loài thú hoang, còn chịu nạn hải tặc, cưỡng hiếp... Ngoài biển mênh mông kia, biết bao nhiêu oan hồn còn vất vưởng vì nỗi oan khiên chưa được giải, chưa biết tỏ cùng ai, không thể mang xuống tuyền đài. Biết đâu trong đó có Uyên. 

Tim Nguyễn quặn đau, nghẹt thở. Nguyễn cầu xin Trời Phật dù thế nào cũng dẫn em qua cầu khổ đau, Nguyễn khấn nguyện ơn trên hãy mở tay cứu giúp các linh hồn còn vất vưởng ngoài biển khơi được về cõi vĩnh hằng. Nguyễn miên man nghĩ từng giả thuyết về em, đã chết trên đường vượt biên ư? Không, không thể được, em là thiên thần có Chư Thiên phò hộ, không thể chết được. Cũng có thể em còn ở Việt Nam hay đã đến một trong những trại tỵ nạn nào đó, hoặc biết đâu, đã đến được bến bờ tự do. Nguyễn an ủi mình, có thể lắm chứ, em là Thiên Thần mà! Nguyễn bị dày vò với bao nhiêu giả thuyết, Nguyễn điên rồi. 

Cơn điên cứ miên man như thế trong nhiều giấc mơ, theoNguyễn vượt qua biển Đông, về tận Tuy Hòa, leo qua những đồi cát bên dòng sông tuổi nhỏ. Nguyễn thấy Uyên và Nguyễn đang đùa giỡn bên nhau, rượt đuổi mấy con kỳ nhông, hay công kênh em trên vai để hái hoa keo hoặc vờ làm bẫy để bắt mấy con chim chiền chiện cho em. Nguyễn nghe tiếng em cười, tiếng em nhõng nhẽo đòi ăn kẹo bột. Nguyễn không còn nước mắt để khóc, nhưng nghe nghèn nghẹn trong tim rồi rơi vào giấc ngủ mê. Nguyễn thấy em đang chơi vơi giữa đại dương, hai tay dơ lên giữa những cơn sóng phủ đầu. Tiếng kêu cứu của em bị át bởi tiếng gầm gừ của đại dương: “Anh Hai, cứu em, cứu em, cứu em…” Nguyễn giật mình tỉnh dậy, mồ hôi vã ra như tắm, đầu hâm hấp nóng. Trời đã khuya, Nguyễn đọc kinh và thầm cầu nguyện cho em. Bầu trời trong vắt đầy sao, có lẽ em đã là một vì sao lấp lánh trên kia. Nguyễn lặng lẽ trở về căn chòi lá mà lòng đầy nghi vấn. Em đang ở đâu? Còn sống hay đã chết?


Hội Ái Hữu Phú Yên Bắc Cali (Tân Niên Bính Thân)

Đầu thập niên 80, Nguyễn đặt chân lên đất Mỹ, làm lại cuộc đời từ con số không. Kể như vẫn còn may mắn. Đời Nguyễn luôn luôn gặp may mắn, Nguyễn tin như vậy, cho nên Nguyễn vẫn để ý tìm Uyên khắp nơi. Đi dự họp mặt của các hội đoàn đồng hương, cựu quân nhân, các hội cựu học sinh, sinh viên … 

Nhiều năm qua đi. Ra trường rồi đi làm. Một hôm, theo người bạn cùng sở bay về Bắc California tham dự buổi họp mặt của một Hội Đồng Hương, Nguyễn đã gặp lại Uyên!
Uyên và Nguyễn ôm nhau giữa đám đông khóc mùi mẫn, khóc thoải mái, khóc tự nhiên, khóc thật to không cần dấu diếm, che đậy.Trong đám đông đồng hương này có biết bao nhiêu người cũng đã từng khóc như Uyên và Nguyễn. Khóc để trôi đi bao điều còn giữ kỹ trong lòng, không nói ra được. 

Khóc đã đời, Uyên và Nguyễn buông nhau ra. Nhìn mặt Uyên son phấn tèm lem như thời bé bỏng nghịch đất cát, Nguyễn bật cười. Em hỏi sao Nguyễn cười. Nguyễn nói: “Vui lắm vì đã tìm lại được tuổi thơ của chúng ta, báu vật đánh mất bao nhiêu năm trời”. Uyên muốn kể cho Nguyễn nghe những gian truân, gia đình tan nát, đổ vỡ, chết chóc, nhưng Nguyễn không muốn nghe. Nguyễn tìm thấy em là đủ rồi, những cái khác hãy quên đi, quên đi, quên đi…

7/2013
Đồng tác giả Nguyễn Hữu Hoàng

Tác giả Lê Nguyễn Hằng (áo dài vàng) 



Đại hội CHSPY kỳ III tại Houston

Thứ Năm, 25 tháng 2, 2016

Bạn Tôi

GIỚI THIỆU
Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy Cô, quý Đồng Môn và quý Thân Hữu
bài BẠN TÔI của thân hữu Nguyễn Tuyết Lộc. Tác giả là văn thi sĩ nổi tiếng của xứ Thần Kinh được rất nhiều độc giả mến mộ và cũng là bạn học cùng lớp ở trường Quốc Học Huế với thầy Trần Công Tín.
Xin trân trọng giới thiệu.
NHHN


Tác giả Nguyễn Tuyết Lộc

1975: năm đất nước chấm dứt chiến tranh, người thì vui mừng gặp lại thân nhân, đón chào hòa bình, người đau khổ vì đi cải tạo dài ngày, người thì lo lắng không biết số phận của mình sẽ thế nào, nhất là trong giới viên chức từng làm việc cho chế độ miền Nam trước 75. Ngoài số phải đi học tập cải tạo, số ở lại với ám ảnh được lưu dung hay không được lưu dung, âm hưởng không khác gì “to be or not to be” của Shakespeare.

Số phận trớ trêu có khi cười ra nước mắt, nhưng tôi nhớ nhất là những bạn thân cùng trường Quốc học, cùng lớp đệ nhất C. C1 (Pháp văn) có Trần Công Tín, C2 (Anh văn) có Lê Khắc Cầm mà tôi nhắc trong bài viết này, mỗi người rẽ một con đường khác nhau, và còn nhiều bạn bè cũ khác mang những cái tên thỉnh thoảng gợi lên bồi hồi trong ký ức tôi như Thân Trọng Sơn, Vĩnh Thái... mà trong chỉ một bài viết không thể nhắc hết được.

Trần Công Tín tuy chiều cao có phần “khiêm nhường”, bề ngoài không nổi bật giữa bạn bè, nhưng là mẫu bạn chân chất nhất, hiền nhất, “gạo” nhất trong nhóm của tôi. Vì hiền quá nên Sơn, Thái thường chọc ghẹo, thu cặp sách của Tín trong giờ học làm chàng ta không có vở ghi bài, mặt cứ ngẩn ra, dáo dác nhìn lui nhìn tới mà chẳng dám hé miệng hỏi, sợ bạn cười. Tín là người bạn rất tốt bụng, đã từng “cứu” tôi khỏi lâm vào tình trạng “thất tình” bỏ ăn bỏ học lang thang thất thểu xuống bờ sông Hương ngồi tương tư (mà không có can đảm nhảy xuống) làm cả nhà hoảng lên vì chỉ còn hai tháng nữa là đến kỳ thi tú tài toàn phần. Hàng ngày tôi ôm sách vở từ Cư xá giáo sư Đại học số 2 Lê Lợi xuống nhà Tín ở 6 Nguyễn Công Trứ ôn bài, hai đứa được ba mẹ Tín dành cho chiếc bàn dài trước hiên nhà để học. Học xong ra vườn hái mít cám ăn (ở quê Huế còn có cái tên mà nói ra “ốt dột” lắm là “mít dái” vì nhìn cứ y chang!). Tín thì chăm chỉ “tụng”, tôi thì được tiếng khá thông minh nhưng phải tội lơ đãng, bị Tín kềm thúc nhắc nhở hoài, và cũng nhờ bạn hiền tận tâm cùng ôn tập mà tôi đổ hạng bình thứ.

Trường Đồng Khánh

Xét về mặt học hành Tín chẳng thua ai. Từ giã trường Jeanne d’Arc, Tín tiếp tục học lớp 9è, 8è, 7è (tức lớp ba, lớp bốn, lớp năm bây giờ) ở trường tư thục Providence, đến trung học đệ nhất cấp thi vào trường công Nguyễn Tri Phương rồi lên đệ nhị cấp Quốc học, tháng nào cũng có bảng danh dự, năm nào Tín cũng “ôm” phần thưởng đầy ắp sách vở không nhất, nhì thì cũng hạng ba. Tín kể: “Lúc học ở Providence vui nhất là hàng tháng được cha hiệu trưởng Viry cao tới hai mét người Pháp, rất nghiêm khắc, khi phát bằng khen, cha thấy mình quá nhỏ bé nên bưng bổng, bồng nổi mình đưa lên cao cho bạn bè thấy và cười thật vui vẻ.”

Tốt nghiệp Đại học Sư phạm năm 67, Tín học thêm Cử nhân văn khoa, có thư khen thành tích học tập của Khoa trưởng Sư phạm Huế, rồi song song với việc giảng dạy tại trường trung học đệ nhị cấp Nguyễn Huệ - Tuy Hòa, Tín ghi danh học cao học Văn khoa Sài gòn năm 67 dưới sự hướng dẫn làm tiểu luận của giáo sư Nghiêm Toản, nhưng phải qua sự sát hạch và phê chuẩn của giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch.

Chuyện đời không đơn giản toàn màu hồng. Cầm sự vụ lệnh nhận nhiệm sở vừa được một năm, Tín tham gia chấm thi tú tài và chấm thi đệ thất lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng. Khoảng cuối tháng 9, 1968 nam giáo sư “toàn quốc” nhận lệnh tổng động viên nhưng lại được ưu tiên hưởng chính sách biệt phái, nghĩa là chỉ học ở quân trường 9 tuần rồi về dạy lại. Nhiều cán bộ miền Bắc, đặc biệt trong các vị quản lý ngành giáo dục, tưởng lầm rằng từ “biệt phái” chỉ một đối tượng đặc biệt, tin cậy, gài vào ngành để theo dõi, báo cáo về đồng nghiệp. Ngày nay hẳn các vị đã biết là… oan Thị Kính.

Quân đội Sài Gòn chưa thực sự cần những sĩ quan gốc nhà giáo hoặc không biết bắn súng, hoặc có khi bắn bia mười phát trúng một, đúng ra tình hình chiến sự chưa đến mức cần tới họ, nên huấn luyện qua loa để dành khi tổng động viên, gấp thì phiên chế đẩy thẳng ra sa trường cho gọn. Tín cùng các bạn lên đường vào quân trường Lam Sơn - Khánh Hòa để được huấn luyện cùng với bạn bè của 11 tỉnh thuộc vùng II chiến thuật, trong số đó có Tiêu Dao Bảo Cự, Trần Duy Phiên, Thân Trọng Sơn. Nhưng oái oăm là vừa đến nơi mới hay những người sinh năm 1943, 1944 thuộc tuổi đôn quân, sẽ không được biệt phái, mà phải tiếp tục được huấn luyện ra sĩ quan, rồi ra đơn vị hai năm. Đúng là tin sét đánh với Tín vì Tín nằm trong diện đó. Như vậy Tín phải học tại quân trường 8 tháng và ra đơn vị 16 tháng với lon chuẩn úy.

Lớp Đệ Nhị C Đồng Khánh - 1962 (tác giả đứng giữa tay cầm sách)

Đơn vị Tín được phân bố là phòng Nhất (coi về quân số) tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đóng ở Pleiku. Tín nói: “Tuy về đâyan toàn, nhưng mình không thích vì mình học văn chương nay phải vùi đầu vào những con số. Làm giáo sư đệ nhị cấp được dạy thêm, hưởng tiền phụ, hè đi coi thi, chấm thi, lại còn được phụ cấp đủ thứ như tiền chấm bài, tiền coi thi, tiền đi đường, tiền ăn ở trong khi thực tế mình ở nhà mình hay nhà bà con. Những ai có tú tài bán phần học 6 tháng quân sự cộng thêm 9 tuần ở Quang Trung hay Lam Sơn sẽmang lon chuẩn úy rồi cứ thế mà lên lon, 18 tháng đương nhiên lên thiếu úy, 2 năm lên trung úy dù không đánh đấm gì. Muốn lên đại úy phải có “công trạng”, còn không thì phải mất 7 năm. Được làm ở Phòng Nhất, không phải đi tác chiến, cũng mừng. Thực ra thì đa số trí thức (cử nhân trở lên) đều được phân bố về các văn phòng thuộc trường Võ bị Đà Lạt, trường Chiến tranh chính trị, trường Thiếu sinh quân, các quân trường. Mà dù có xui lắm ở đơn vị tác chiến đi nữa thì các ông lớn cũng sắp xếp để bọn mình ở hậu cứ và nhờ dạy kèm cho con cháu họ. Thời đó cử nhân trở lên rất hiếm. Theo quy chế tuy mình là chuẩn úy, chỉ số 250, lương khoảng 4000 đồng, mà mình lại được hưởng nguyên lương của một giáo sư đệ nhị cấp 8000 đồng, chỉ số 470 ngang với lương của đại úy.”

Thật không may vì mang danh sĩ quan, nên sau 75 Tín lại phải đi học tập cải tạo trước ở Sơn Định, sau xuống trại 53 Ngân Điền huyện Sơn Hòa gần hai năm. Như tôi đã nói, người ta quan niệm “biệt phái” nghĩa là do chính quyền cũ cài vào học đường để theo dõi, kềm kẹp giáo sư, học sinh… nên có tội, trong khi các bạn khác học 9 tuần là binh nhì, mà binh nhì thì được “xóa tội”. Học tập xong, Tín quay về trường cũ, trường không nhận, lại phải quay về Huế nương náu gia đình, đưa đơn xin việc, đến đâu cũng được trả lời “hết chỗ”, Tín tiếc đã bỏ công đèn sách gần hai chục năm, chữ nghĩa cuối cùng chẳng dùng vào đâu! Lên voi thì chưa lên mà xuống chó thì lắm lần, tang thương biến đổi không biết đâu mà lường. Thân phận con người hóa ra như bọt như bèo, thời cuộc đẩy đưa, không tự quyết được đời mình, khác xa nghìn dặm với những giấc mộng thanh xuân ngày còn ở ghế nhà trường.

Trường Quốc Học

Tín là người rất ham học, không chính kiến, không tham vọng quyền lực, trong con mắt bè bạn hiểu rõ Tín, thấy ước mơ lớn nhất, duy nhất mới tử tế khiêm tốn làm sao là được đi dạy để sử dụng kiến thức bao nhiêu năm “dùi mài kinh sử” của mình và cũng vì thương nhớ trường cũ cùng các em học sinh. So sánh nào cũng khập khiễng, nhưng nhớ tới hoàn cảnh tai bay vạ gió, hàm chuẩn úy không xin mà vẫn phải nhận và giấc mơ khắc khoải được đứng lớp mà bị từ chối.

Chưa dừng lại đó, hình như tất cả bất hạnh đều dành cho Tín, bạn hiền của tôi. Năm 2013 Tín phát hiện bị K đại tràng, di căn gan, có hạch trong bụng, tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc. Nằm viện 11 tháng, phẫu thuật 3 lần, hóa trị 6 đợt, uống Xeloda 5 đợt, mang hậu môn giả bên hông, thể xác vô cùng đau đớn, tinh thần lại hoang mang bấn loạn, hằng ngày “nhá” điện thoại cho bạn bè trong ngoài nước, hay học trò cũ vì sợ điện thoại hết tiền không mua kịp, rồi chờ họ trả lời, mong được nghe những lời an ủi để nghĩ là mình đang sống, đang hít thở và còn sự thương yêu quan tâm giữa con người với con người... Trong thời gian đi dạy được học trò yêu mến, khi đau ốm được bạn bè ân cần thăm hỏi hỗ trợ tiền bạc và tinh thần, vợ con hết lòng chăm sóc chu đáo, có lẽ Tín được trời Phật phù hộ và nhất là được bác sĩ, y tá khoa ung bướu ở bệnh viện Huế tận tình cứu chữa nên đẩy lùi được căn bệnh hiểm nghèo.

Chắc nhiều lần người bạn hiền lành của tôi cũng đặt câu hỏi không biết mình thực sự đã phạm tội gì. Có những điểm trong cuộc đời của Tín làm tôi nhớ lại anh chàng nông dân Iohann Moritz, nhân vật của tiểu thuyết Giờ thứ hai lăm của C.V.Gheorghiu. Tất nhiên không hoàn toàn giống hệt nhau, hoàn cảnh không cùng mức độ như nhau, nhưng xét cho cùng cũng là dư vị bi đát của những thân phận bất lực giữa bão táp lịch sử, xô dạt nhiều bề, cho đến khi nghiêng mình soi xuống dòng sông đời thì tóc đã điểm bạc.

Tôi lại lang bang nhớ tới Nguyễn Du với hai câu thơ thấm thía về số phận Thúy Kiều mà ai biết tiểu sử của ông cũng biết ông gẫm chính cuộc đời của mình:

Xưa sao phong gấm lụa là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Tín tuy không xuất thân trong một gia đình danh gia vọng tộc hưởng cảnh nhung gấm lụa là như Nguyễn Du viết, nhưng số phận lận đận thì có thể ví như thế. Và có phải vì thân phận lá hèn cỏ mọn, cầm bằng hạt bụi ven đường của những con người cô thế mà Tín phải chịu cảnh:

Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao

để có khi trong giấc mơ lúc đang nằm bẹp dí trên giường bệnh mà nước mắt bỗng dưng ràn rụa mừng tủi vì thấy mình được đứng lớp. Dù chỉ là mơ thôi!
Ngược lại với một Thân Trọng Sơn dạy ở Đà Lạt nay đã nghỉ hưu và Vĩnh Thái, chủ nhiệm luật sư đoàn ở Huế, cũng đến tuổi hưu trí, được song suốt trên đường đời và một Tín nhẫn nhục gặp nhiều đoạn trường da diết, không phản kháng thì Lê Khắc Cầm “nổi loạn”, sự nổi loạn của một trí thức yêu nước, dấn thân trước thời cuộc và biết lẽ xuất xử của một kẻ sĩ tự trọng.

Lớp Đệ Nhất C Quốc Học (1963)

Lê Khắc Cầm cũng là bạn cùng học chung lớp đệ tam, đệ nhị với Thân Trọng Sơn và Trần Công Tín ở Quốc học (trừ giờ ngoại ngữ phải học riêng vì không đủ học sinh). Khi lên đệ nhất vì đủ sĩ số học sinh nên được chia làm hai lớp, chúng tôi học C1 (Pháp văn), Cầm học C2 (Anh văn).

Lê Khắc Cầm là con trai út trong một gia đình gia giáo của cụ Lê Khắc Tưởngvà cụ bà Công Tôn Nữ Thị Nhung. Từ con cái của cụ như ông Lê Khắc Phò giáo sư đại học Huế, chị Lê Khắc Ngọc Khuê và chồng là anh Nguyễn Nguyên giảng dạy ở trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng, chị Lê Khắc Ngọc Mai, quản lý thư viện trường Đồng Khánh Huế, đến con dâu là chị Lê Liên, giáo sư trường Quốc học– vợ của thầy Lê Khắc Phò –, tất cả đều rất khí khái, có phong độ trí thức, được bạn bè và nhiều thế hệ học sinh sinh viên Huế quý mến.

Theo tập tục xưa mỗi khi nhận nhiệm sở ở một địa phương thì vị quan chức này thường tổ chức cuộc gặp gỡ với thân hào nhân sĩ, và ngược lại những nhân sĩ có học thức cũng có tục ra mắt quan địa phương mới. Một chi tiết rất đáng chú ý nói lên tính cách thâm trầm của cụ là trước khi xảy ra sự kiện tháng 8.1945 cũng như ở các địa phương khác, chính quyền Việt Minh có chính sách kêu gọi sự hợp tác của quan lại triều Nguyễn. Nhiều quan lại huyện xã “qua đêm” bỗng trở thành Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến chống Pháp. Thân sinh của Lê Khắc Cầm một mặt không phản đối việc trả lại chức vụ, quyền lực địa phương, một mặt thẳng thắn từ chối phục vụ chính quyền mới. Ngày đó một thái độ như vậy có thể dẫn tới những hậu quả vô lường cho bản thân và gia tộc. Điều ngạc nhiên với nhiều người là chính quyền Việt Minh làm ngơ cho cụ đưa gia đình quay về Huế an toàn. Cụ mất sau 1975, khi tinh thần vẫn còn minh mẫn.

Tôi được biết sau thời gian ngắn sống dưới chính quyền cộng sản, và rất có thể với kinh nghiệm tiếp xúc trước đó, cụ đã từng nhận xét “không biết răng thằng Cầm rất thông minh mà lại theo cộng sản… còn con cháu phải dặn nhau nhớ một điều không ai lật đổ được chính quyền cộng sản, đừng manh động với chính quyền cộng sản vì qua kinh nghiệm của bố, chính quyền cộng sản chỉ tự tiêu tự vong!”. Và đúng như lời cụ nói, chỉ vài năm sau đó các nước Đông Âu và Liên bang Xô viết quả nhiên “tự tiêu tự vong”. Cụ có một thái độ khá đặc biệt đối với cậu con út độc đáo của mình: ngoài việc thừa nhận trí tuệ, tri thức sáng láng của con, cụ lại tỏ ra lo lắng nhất cho con trai út mà cụ gọi là “khắc bạc”. Và chính Cầm một lần nhắc tới bố, bỗng loay hoay chỉnh kiếng cận – cử chỉ quen thuộc khi có gì bối rối của Cầm – tủm tỉm cười, nói: “Kể ra ông cụ moi nói cũng chính xác thôi!”.

Năm 1996, một hôm tôi nhận được điện thoại của nhà thơ Nguyễn Quốc Thái:
- Có đồng hương Huế muốn gặp Tuyết Lộc ở cà phê 27 Nguyễn Thị Diệu nè.
Tôi hỏi:
- Ai rứa anh?
- Tuyết Lộc đến thì biết.
- Không quen Lộc không đến.
Cuối cùng Thái bảo là Lê Khắc Cầm.
- À, Lê Khắc Ngọc Cầm.
Giọng Bắc mềm mỏng điệu đàng như giọng con gái của anh Thái, ngạc nhiên:
- Lạ nhỉ, sao lại có Ngọc Cầm nhỉ. Khắc Cầm chứ.
- Thì trong nhà Cầm, các chị ai cũng Ngọc. Ngọc Mai, Ngọc Khuê, Ngọc Giao… nên gọi luôn Ngọc Cầm cho vui.

Tác giả và ông Lê Khắc Cầm (bạn chung lớp)

Anh Nguyễn Quốc Thái là nhà thơ sáng tác từ những năm 60, vào độ tuổi chưa tới hai mươi. Nhiều người xem anh là một trong những nhà thơ phản chiến đầu tiên bên cạnh nhà thơ Thái Luân (tác giả Vùng tủi nhục). Anh từng có tên trong nhóm chủ trương các tạp chí Hành trình, Đất nước, Trình bầy, Nhà Văn nổi tiếng một thời. Thơ của Nguyễn Quốc Thái được đưa vào chương trình giảng dạy văn học ở một số trường đại học Mỹ và Anh.

Nghe anh Thái nhắc đến Cầm, tôi không ngạc nhiên lắm, vì thật ra tôi cũng đã có lần thấy Cầm từ xa ở chợ Tân Định. Khi nhận quà thuốc tây của anh Thạch, anh trai tôi, từ Pháp gửi về tôi hay ra chợ Tân Định tìm gặp Trần Gia Phụng để bán. Trần Gia Phụng và tôi cùng dạy Phan Chu Trinh Đà Nẵng trước 75. Phụng là người ham nghiên cứu, thẳng thắn, không xu thời như nhiều người khác. Những ngày đầu quân đội tiếp quản Đà Nẵng, chúng tôi phải dự các lớp học chính trị, nghe báo cáo về cuộc tiến công thần thánh của bộ đội miền Bắc vào Nam, nghe Mỹ chạy, ngụy nhào… trước khi dạy lại. Giới giáo chức trong lớp học ai cũng lo lắng về số phận của mình, trong lúc đó Trần Gia Phụng “dám”phát biểu:

- Miền Bắc trên danh nghĩa giúp Campuchia đem quân qua trấn đóng, như vậy theo tôi Miền Bắc đã xâm lược Campuchia.

Tôi dùng chữ “dám” vì thời điểm đó ai nói gì không đúng với tiêu chí học tập đều bị xem là “phản động”. Phản động đồng nghĩa với đi học tập cải tạo “mút mùa”. Tiếng người hướng dẫn buổi hội thảo tức giận, giọng Quảng Nam pha trộn lơ lớ giọng Bắc, gằn từng tiếng:

- Đồng chí nghĩ thế nào mà nói Việt Nam xâm lược Campuchia hả? Việt Nam không xâm lược ai hết, Việt Nam chỉ làm Nghĩa Vụ Quốc Tế. Rõ chửa?

Kể từ buổi hội thảo đó tôi không thấy Phụng đến trường nữa. Phụng“mất dạy”, vào Sài Gòn và định cư ở Canada. Mỗi lần nhớ lại câu chuyện này, tôi nghĩ rằng vấn đề không phải là ý kiến khác nhau về vụ can thiệp của chính quyền Hà Nội vào nội tình Campuchia – cho đến hôm nay những cuộc tranh cãi còn chưa thật sự ngã ngũ, chưa nói bản thân sự kiện tòa án Quốc tế kết án nhóm Pol Pot -Ieng Sary cho thấy một số dư luận phương Tây đã có thay đổi – mà ở sự khác biệt trong quan niệm về tranh luận và tìm hiểu vấn đề của hai phía. Những người sống với lối tư duy gần như một chiều ở miền Bắc không thể quan niệm nổi quyền tự do phản biện và phát biểu vốn rất quen thuộc với trí thức miền Nam.

Tác giả là người mẫu trong tranh (Họa sĩ Maria Mộng Hoa)

Tôi đưa danh sách thuốc cho Trần Gia Phụng, Phụng chỉ tôi:

- Tuyết Lộc biết anh Thọ dạy Toán Đại học Huế, Mai Duy Trung dạy Pháp văn trường Kiểu Mẫu, Lê Khắc Cầm dạy Anh Văn không? Cầm là tên Việt Cộng nằm vùng, trả thẻ đảng vào Sài Gòn trong lúc có triển vọng ở trong ban lãnh đạo thành phố Huế đó. Cầm, Trung và Thọ cũng đứng bán ở đây nè, kia kìa. Trí thức miền Trung sau 75 vào đứng bán ở đây nhiều lắm. Chợ này muốn bán thuốc tây phải đứng để khi công an rượt đuổi thì chạy cho dễ, chợ thuốc tây ở Tân Định còn gọi là “chợ đứng” hay “chợ chạy”.

Lê Khắc Cầm bỏ Huế vào Sài Gòn bán thuốc tây? Có gì phải ngạc nhiên, gặp thời thế, thế thời phải thế!Bán thuốc tây cũng là việc lao động hữu ích bình thường, mà xem ra còn rất phù hợp với khẩu hiệu “lao động là vinh quang” một thời ra rả trên đài phát thanh và truyền thanh. Hình ảnh Cầm nhắc tôi nhớ đến một khuôn mặt thân thuộc khác, Bửu Chỉ, em chị Hà Lãnh, vợ anh Hai tôi. Bửu Chỉ và Cầm cả hai đều là con út của những đại gia đình có nhiều người ăn học thành đạt. Hai bạn thường đùa với nhau cuộc dấn thân của họ là “cuộc nổi loạn của những đứa con út”.

Theo tôi, từ “nổi loạn” có lẽ thích hợp với Bửu Chỉ hơn vì Chỉ tuy học luật nhưng tính rất nghệ sĩ, có phần phóng túng và hoang dã, còn tính phản kháng của Cầm là của một người trí thức cẩn trọng có thiên hướng về lý luận, chặt chẽ hệ thống. Trong thời điểm sau 1975, một số người chạy đôn chạy đáo, vòng trong vòng ngoài, có người trên thì nịnh bợ quan chức có quyền, dưới thì chà đạp bạn bè đồng đội, cốt để lấy cho được một cái thẻ Đảng phòng thân, thăng tiến sự nghiệp. Ngôn từ của họ chỉ là một mớ đả đảo, hoan hônhững khẩu hiệu hợp thời. Còn nội dung lý luận, tri thức, nhận thức luận thì ô hô, trí thức ơi là trí thức! Với Cầm, từ tuổi hai mươi, anh chàng với thân xác còm cõi, cặp kiếng cận dày cộm này đã nghiên cứu triết phương Tây và say mê triết học Marx. Cầm đã thực hiện được giấc mơ của mình, lý tưởng của mình, hăng hái nồng nhiệt theo chủ nghĩa Marx. Có nghĩa là Cầm có suy nghĩ và có trách nhiệm với những gì mình hành động.

Vào những tháng đầu sau 75, Cầm được xem như một trong những trí thức trẻ tuổi có uy tín tại Huế. Đó là thời điểm của những kẻ đang say men chiến thắng, đó là giai đoạn thỏa nguyện của Cầm về sự nghiệp lý tưởng. Nhiều bạn bè hy vọng Cầm đang ở tuổi ba mươi đầy tâm huyết sẽ tiếp tục làm một điều gì đó đẹp đẽ góp phần xây dựng Huế vốn đã chịu nhiều khổ ải đau thương.

Lăng Tự Đức - Họa sĩ Maria Mộng Hoa

Một sáng ngủ dậy Cầm quyết định trả thẻ Đảng. Quyết định này chắc hẳn đã nung nấu, đã dự tính từ lâu trong Cầm chứ không thể một sớm một chiều (bạn bè của Cầm nhiều người vẫn thường nhắc câu trả lời ngắn gọn cho câu hỏi của cán bộ tổ chức Đảng về quyết định đột ngột của mình: “Tôi quyết định ra khỏi Đảng vì tuyệt vọng về bản thân mình!”, còn thực sự Cầm tuyệt vọng về ai, về cái gì thì chắc không đơn giản!). Quả thật Cầm không còn hào hứng với giáo điều kinh viện, nhận ra khoảng cách đáng sợ giữa sự thật và những giấc mơ đầy thiện chí cho dân tộc. Và quyết định bất ngờ nàythể hiện sự thất vọng với giấc mộng lấy triết học để giải quyết lịch sử. Thỉnh thoảng, bên bàn cà phê, Cầm tâm sự, dù “tuyệt vọng” với triết học, nếu buộc lòng phải chọn một triết học để giải thích thế giới thì Cầm vẫn chọn triết học Marx. Tôi học bộ môn triết, và dù không “sính” triết chính trị nhưng tôi rất thú vị với ý kiến và sự nhất quán của Cầm. Trong khi hàng ngàn người chỉ đọc vài trang triết học chắp vá đã lên giọng giảng đạo, tuyên truyền, buộc tội đồng bào bạn bè, nhắm mắt ngợi ca không tiếc lời những giá trị mà khi có sự thay đổi về không khí chính trị là họ quẳng đi không thương tiếc, không cần chứng minh, phân tích.

Cầm theo học Anh văn nhưng có thể khẳng định ngành Cầm quan tâm nhất chính là triết học. Vì vậy, bạn bè tri âm đều rất thích khả năng khái quát của Cầm, nói đúng chỗ, đụng vào vấn đề cốt lõi mà rất kiệm lời. Ví dụ, có dạo dư luận nói nhiều về việc anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường dính líu những vụ “ân oán” vào Tết Mậu Thân 1968 – tôi không có ý kiến riêng về vấn đề chính trị, nhưng nhiều người nói với tôi, thực sự anh Hoàng Phủ Ngọc Tường không có mặt vào thời gian đó ở Huế– thì anh Tường đã có ý phân trần với bạn bè và người quen là mình chưa bao giờ giết người, thậm chí giết con ruồi con muỗi còn không dám. Những người có mặt hôm đó kể lại rằng, Cầm đã đứng bật dậy bước ra khỏi bàn sau khi nói với Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Tôi tưởng anh đã đọc tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov của Fyodor Dostoyevsky rồi, và đã biết nhân vật Ivan…”. Còn sự thật “Ivan” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đọc Dos hay chưa, hay đọc kỹ rồi mà vờ vịt không biết thì Dieu seul le sait!

Một lần trong câu chuyện với bạn bè, có người đã dùng cụm từ “Chính quyền cách mạng” thì Cầm bỗng nhỏ nhẹ:

- Có lý luận cách mạng, phong trào cách mạng và nhà cách mạng, nhưng có lẽ không có chính quyền cách mạng. Chính trị khi đã được thiết chế hóa thành chính quyền thì e rằng không còn tính cách mạng nữa.

Lần khác, khi có vẻ phật ý vì một vài người cứ dài dòng trách móc việc bị đồng chí đồng đội cũ đối xử tệ bạc, Cầm xua tay, không muốn nghe:

- Thôi, đủ rồi, lịch sử xưa nay vốn không có tâm thức biết ơn.

Có hôm một ai đó nhắc đến tên tuổi một số bộ mặt tích cực trong phong trào chính trị trước 75, gọi họ là “những nhà cách mạng”, Cầm vừa chỉnh gọng kiếng vừa tủm tỉm cười bình luận:

- Thật ra những nhà cách mạng này cần một cuộc cách mạng hơn là cách mạng cần tới họ.

Tôi xem Cầm là một trong những người đối thoại sâu sắc và ý nhị nhất mà tôi từng tiếp xúc.

Với tôi, “ứng tác” gọn ghẽ, trực tiếp và đầy sức nặng của Cầm – chỉ trên dưới mươi chữ – làm tôi liên tưởng tới những giai thoại của một giáo sư triết có tiếng tăm, anh Nguyễn Trọng Văn. Là một trí thức khuynh tả, công khai chống chế độ cũ, Nguyễn Trọng Văn cũng là một người đầy can đảm, khí khái trước quyền lực tuyệt đối của chế độ mới. Khi dự đợt học chính trị cho “trí thức cốt cán miền Nam” sau 75, đang nghe ông Mai Chí Thọ lên lớp về “chuyên chính vô sản”, anh Nguyễn Trọng Văn đứng bật dậy, dõng dạc tuyên bố: “Trí thức miền Nam chúng tôi không sợ chuyên chính vô sản, chúng tôi chỉ sợ chuyên chính vô học!”.

Một lần khác, một lãnh đạo cộng sản, ông Võ Văn Kiệt – so với những lãnh đạo cùng thời khác thì được lòng dân miền Nam hơn – nóng lòng trước hiện tượng trí thức, chuyên gia miền Nam rủ nhau vượt biên – đã chủ trì một buổi gặp mặt các trí thức “Sài Gòn”, và có một câu nói nổi tiếng đại khái “Mong anh chị em kiên nhẫn thêm năm năm nữa. Sau năm năm, nếu chúng tôi không thành công, các anh chị hãy đi chưa muộn.” Không phải ai cũng biết câu trả lời tại chỗ, cũng nổi tiếng không kém của Nguyễn Trọng Văn: "Năm năm nữa, các ông không lãnh đạo được đất nước, thì các ông phải đi, sao chúng tôi phải đi!”.

Với tư cách là một người bạn của Cầm, tôi thường có ý nghĩ  trái ngược nhau về bạn mình. Những gì chàng công tử xứ Thần Kinh mà sức khỏe dưới trung bình làm được trong những năm tháng lịch sử đầy phức tạp, hay như từ mà Bửu Chỉ thích dùng “đầy quyết liệt”, thực đáng cảm phục. Cầm viết ít, nhưng những người kén đọc có văn hóa cao, đều nhận ra khả năng lý luận sắc sảo, trình độ tiếng Việt tinh tế, mỗi chữ đều có trọng lượng. Có người gọi Cầm là một dịch giả tài hoa (Cầm là người dịch tác phẩm Chúa đã khước từ in trước 1975) là một nhận xét công bằng.

Nhưng mặt khác, cùng với một số bạn bè tôi cũng có ý trách Cầm. Vì sao ở độ tuổi 30, giữa lúc trí tuệ đã chín, khả năng tiếng Anh tiếng Pháp thông thạo, Cầm đã không để lại cho đời những trước tác xứng với tầm trí tuệ thông mình của mình; nói rõ hơn, tôi cho rằng Cầm đã lãng phí mấy thập kỷ liền. Đến khi, theo tôi có lẽ Cầm nhận ra quỹ thời gian không còn nhiều, khởi động lại thì đã muộn, sức khỏe vốn không dồi dào gì của Cầm đã cản trở ý chí của chàng ta. Và đó chính là điều tôi tiếc nuối mãi.

Căn nhà tác giả đến học thi với thầy Trần Công Tín

Nhưng, liệu đó có phải là trường hợp của riêng Cầm không? Có vẻ như đó cũng là vấn đề của hàng loạt trí thức, nhà văn ở miền Nam sau 75. Sự trách cứ có khi chưa đủ công bằng mà kèm theo phải tìm cho được câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi: Vì sao họ đã đột ngột dừng sự nghiệp nghiên cứu, trước tác của mình giữa lúc sung sức nhất trước sự ngạc nhiên của các fan hâm mộ họ? Và tôi tin đó cũng là câu hỏi họ từng ray rứt đặt ra cho chính mình. Tôi không nghĩ mình là người đưa ra được câu trả lời thỏa đáng, nhưng điều chắc chắn hiện tượng này nên được xem là một trong những lãng phí lớn nhất mà bạn đọc và người yêu nghệ thuật, học thuật phải chịu thiệt thòi.

Cầm thất vọng, Cầm trả thẻ Đảng, đó là quyết định cá nhân của Cầm, nhưng không chỉ thế, hành động của Cầm đã làm thay và nói lên hộ ý muốn của một số trí thức, vì vậy họ khâm phục, hài lòng về Cầm. Nhưng hành động trả thẻ Đảng của Cầm cũng làm một số khác đã từng đặt kỳ vọng vào Cầm phải thất vọng. Trả thẻ Đảng, bán thuốc tây, tôi nghĩ may mà Cầm trả thẻ Đảng khi chưa nhận được nhà cửa biệt thự, khỏi phải mang tiếng phản bội vô ơn, chứ có những người tôi quen biết được Đảng nuôi Đảng quý, Đảng ban tặng cho mấy cái biệt thự, vậy mà trong phút giận lẫy Đảng, vội vàng một tay trả thẻ Đảng, còn tay kia thì khư khư ôm chặt biệt thự, kiên quyết không trả. Họ khôn thật! Khôn hơn Cầm, bạn của tôi rất nhiều!

N. T. L.