Anh
thân mến!
Văng vẳng trên không trung là tiếng động cơ của chiếc phản lực đang bay xa dần
thành phố, mang theo những người vừa rời bỏ quê hương thêm một lần trong đời,
và có khi không còn dịp quay về lần nào nữa cả, cùng lúc mang theo một ít người
lần đầu tiên được ngồi máy bay tìm đến vùng đất mới, để cho người ở lại muôn
vàn nỗi nhớ thương, thèm thuồng, ước muốn. Như người bạn mà em vừa đưa tiễn ra
đi, dù cô ấy khóc, nhưng giọt nước mắt lại lóng lánh niềm vui, cô ra đi theo diện
đoàn tụ gia đình, một người đàn ông tốt bụng, tuy có hơi lớn tuổi, về quê nhà
cưới vợ và đã làm đơn bảo lãnh cô ta đem sang xứ Mỹ.
Em
ra về hòa nhập vào lòng đường ngổn ngang, bận rộn. Người đâu mà đông quá, kẻ
lên người xuống dập dìu, tấp nập, ồn ào không lúc nào ngưng nghỉ. Đủ mọi loại
xe cộ chen lấn nhau, từ chiếc xe đạp cà tàng, chiếc xe Honda hai bánh, chiếc xe
vận tải chất đầy hàng hóa, đến chiếc xe hơi đắt tiền mới tinh, những chiếc tắc-xi
mang cùng bảng hiệu… tất cả đều tranh giành lối đi bóp còi inh ỏi. Bụi đất, khói
xăng chờn vờn, lởn vởn đầy khắp không gian khiến những người đàn bà, con gái,
thậm chí có những đứa nhỏ cũng bịt cả mặt mày, chỉ chừa có hai con mắt y như những
tay võ sĩ NIN-YÀ trong phim kiếm hiệp.
Người
đông, đất hẹp, nắng bụi, mưa lầy lội, nước ngập thành sông, dơ bẩn v.v.v., là
những gì mà những người nghèo khổ, bình dân đang hứng chịu ở cái thủ đô này,
nơi mà em vừa đến đây để tiễn đưa một người bạn ra đi nước ngoài, và cũng để chờ
đón một người bạn từ xa về thăm lại quê nhà ăn tết. Dù người bạn có vô tình
than vãn: “sao bà ở chi trong hẻm để tôi phải tìm mãi mới tới được nhà?”, em chỉ
biết cười nhưng cổ họng thì nghẹn cứng nên tiếng cười tắt lịm, để rồi sau đó một
làn sương mỏng tự giăng ngang tầm mắt, đôi tay không lạnh nhưng cứ run run như
người đang lên cơn sốt rét kinh niên. Em cầm phong thư trong tay nhưng hồn lại
bay bổng đâu đâu, nửa tin nửa ngờ, nhưng cuối cùng cũng phải chấp nhận một sự
thực phũ phàng.
Cảnh lưu thông trên đường phố Saigon (internet)
Nhưng mãi đến hôm nay, sau ngần ấy năm dài không nhìn thấy nữa, em lại nhận được
lá thư tay này, lá thư do người bạn tìm đến trao tận tay, kèm theo một tấm thiệp
cưới và hai tờ giấy bạc một trăm đô la Mỹ. Em mừng! mừng lắm anh ạ! nhưng hai
hàng nước mắt cứ lăn dài xuống má, làm mặn cả bờ môi, làm chẹn ngang vòng khí
quản. Phải chăng đây là một lần chợt nhớ từ ngõ ngách nào đó của trái tim anh
còn sót lại? một xót xa, áy náy, một an ủi đắp bù? Và rồi em lại ngậm ngùi nuối
tiếc: phải chi những đồng tiền này có thể mua được thời gian! Anh biết đó: “Thời
gian, thời gian luôn vô tình đối với cuộc sống thế gian, nhưng lại dài vô tận đối
với người mong đợi!”. Em vô tình nên chẳng nhớ được câu nói đó của ai.
Mới
đó mà đã hơn một phần ba thế kỷ trôi qua, kể từ buổi sáng anh hốt hoảng tìm đến
nhà em để từ giã ra đi, phi đoàn anh phải “di tản” sau một thời gian dài biệt
phái rồi bị cuốn hút vào cơn trốt xoáy. Đã bao phi vụ “cứu lính, cứu dân”, cuối
cùng anh cũng phải buông xuôi, anh đi xa vẫn còn ngoái cổ lại nhìn để thấy em
chôn chân tại chỗ, ngẩn ngơ, ngơ ngẩn như kẻ không hồn. Khi giật mình tỉnh ra,
em đã phóng xe Honda chạy vội theo, dù đường sá lộn xộn, người chạy tới kẻ chạy
lui tìm đường lánh nạn, lính từ xa đổ về thành phố quá đông, và nạn cướp giật,
bắt hiếp đàn bà con gái đã xảy ra ngay trên đường phố nên nguy hiểm trùng
trùng. Vậy mà em cũng đã chạy đến nơi, đến để thấy cổng phi trường đóng chặt, để
thấy cả rừng người chen lấn, dẫm đạp lên nhau, để nghe những tiếng la hét, kêu
réo, khóc kể, hăm dọa, dữ dằn với nhau, để thấy mạng sống con người vô cùng nhỏ
bé, thừa thãi trước họng súng đen ngòm, để thấy nỗi bất lực, tuyệt vọng khi người
thân yêu phải chia cắt nhau chỉ có mỗi một cổng rào, và bàn tay thì quá ngắn để
nắm lấy bàn tay. Em co ro đứng lặng nhìn những chiếc phi cơ gầm rú, quặn mình rời
bãi đậu cuối cùng đến hun hút đường bay, và cũng ngần ấy năm em cứ mỏi mòn
trông mong dù trong vô vọng. Em biết! nhưng sao cứ mãi ngóng chờ.
Tấm
thiệp cưới quá đẹp, anh gửi bạn mang về để báo tin sắp gả con gái lấy chồng. Em
mừng cho cháu gái, cho hạnh phúc của cả gia đình anh, nhưng sắt se, tê dại cả
cõi lòng mình. Kỷ niệm xưa không mời gọi sao cứ mãi hiện về, ước mơ nào không
xóa sao đã vội tan, phải chăng vì những dòng chữ cứ hoài nhảy múa nên em không
nhìn rõ, chỉ lờ mờ thấy được tên anh và những tên người hoàn toàn xa lạ, em đâu
có muốn khóc, em sợ cả những giọt nước mắt dù tủi hờn hay nuối tiếc.
Cũng tại em ngày đó đã quá ngu ngơ, khờ dại, đã sợ sệt vu vơ, do dự trù trừ nên
đã để vuột mất anh. Em đã không nỡ từ bỏ gia đình cha mẹ anh em, từ bỏ quê
hương, để rồi chính trên quê hương, nơi từng cưu mang nuôi lớn em, đã giết em lần
mòn trong lo âu, sợ hãi. Giờ còn lại gì ngoài một tấm thân tàn tạ và một tình
yêu trống vắng? Dù em có gọi tên anh đến ngàn lần thì cũng là những tiếng kêu
trong gió, có ngọn gió nào dài hơi giúp mang những tiếng kêu của em vuợt cả một
đại dương, hay sẽ rơi rớt vào lòng biển cả?
Không
biết vô tình hay cố ý mà người bạn ngồi kể cho em nghe về cuộc sống “đời thường”
của anh bên đó. Người Pilot Trực thăng thuở nào, em đã rất hãnh diện được ngồi
sau yên chiếc xe Honda, cùng anh rong chơi khắp mọi nơi, khoe với bạn bè rằng “người
hùng không gian” của ta như thế đó. Bạn nói anh bây giờ là “Ông chủ cửa hàng tạp
hóa” nhưng em vẫn chưa hình dung ra nổi, cô ấy còn khen anh là một ông “nội trợ
tài tình”. Em gặng hỏi mãi chỉ nghe được tiếng cười dòn và câu đùa: “số mày xui
nên không được Ổng nấu cơm cho ăn hàng bữa!”.
Thật thế sao anh? Ngày đó, mỗi lần anh đến nhà chơi, những bữa cơm nhà em đã là
điều mơ ước trong anh, em sẽ là người vợ đảm đang “cơm bưng nước rót” để bù với
những bữa cơm nhà bàn trong những tháng ngày huấn luyện ở quân trường, và những
gói gạo sấy, những gói mì nước nóng sau những hôm đi bay về muộn. Vậy mà…!
Bao năm qua em vẫn ao ước được biết tin tức về anh, hay mơ ước xa hơn là được gặp
anh một lần trong đời, để được gục đầu trên vai anh mà khóc, mà kể lể hết những
nỗi nhớ mong, những vui buồn đau đớn, xót xa tủi nhục trong những tháng ngày
nghiệt ngã ở quê nhà, những tháng ngày các anh ra đi bỏ lại phố thị tiêu điều,
hoang vắng.
Em
nhớ quay quắt những kỷ niệm trong suốt thời gian phi đoàn anh ở nơi đây, ngày
nào anh cũng đến tìm em, sau những phi vụ hành quân, để cùng em gục đầu khấn
nguyện cho những đồng đội vừa anh dũng hy sinh khi chiếc trực thăng bị bốc cháy
giữa lưng chừng trời, để kể cho em nghe những giờ phút thắm thiết tình người, rằng
các anh đã bay trong rừng để tìm kiếm những đoàn người đi lạc, hướng dẫn cho họ
đường về đến NT, rằng các anh đã “bốc” không biết bao nhiêu người trên đường đi
đã kiệt sức. Có những hoàn cảnh thật thương tâm, sau hơn tuần băng rừng lội suối
theo đoàn quân “di tản”, đoàn người rồng rắn kia, đã thành mục tiêu cho đạn
pháo của giặc cộng sẵn sàng bắn xả vào, không cần biết lính hay dân, người chết
thì đã chết nằm vất vưởng dọc đường, người bị thương sau cơn lê lết không người
trợ giúp cũng khó sống còn, cộng thêm với cái lạnh của núi rừng, với sự đói
khát, cuối cùng một gia đình năm người, chỉ còn lại em bé trai lên năm tuổi, vừa
bị đẩy đi tới, vừa gào khóc kêu mẹ kêu cha đến lạc giọng, lả người. Các anh
thương xót đã “bốc” đem về nuôi trong căn cứ. Có người đàn bà đang mang thai,
dù chưa tới ngày sinh, nhưng trên đường chạy loạn, lại sanh con rơi rớt dọc đường
chẳng có mụ bà hay cô đỡ v.v.v., Em đã chia xẻ, an ủi anh vượt qua những ngày
tháng đau buồn đó. Nhiều hôm anh trở về mặt mũi bơ phờ, như hối tiếc ân hận, vì
trực thăng quá nhỏ, anh không thể nào cưu mang hết cả một đoàn người, nên vừa định
đáp xuống đã phải vội bay lên như trốn chạy.
Cũng như những ngày ở thành phố, những chiếc trực thăng đã là bạn thân thiết của
dân, nhất là những khi cộng quân nã pháo vào ban đêm, tiếng “xành xạch”của trực
thăng cất cánh bay lên, làm người dân mừng rỡ, tin tưởng và vững lòng đi vào giấc
ngủ muộn. Ngày đó anh vẫn tự hào: “Pilot trực thăng là người đến bãi đáp đầu
tiên và là người rời chiến trận cuối cùng”. Cuối cùng của cuộc chiến đó sao
anh?
Những ngày các anh từ giã ra đi, thành phố tiếp với nỗi đau mà người ở lại phải
chịu đựng, sợ hãi từ những kẻ phía bên kia vừa la oang oang chiến thắng, để đến
nỗi những người may mắn được ra đi cùng một lượt với các anh, đã làm “lễ truy
điệu” cho thành phố đã chết, (khi họ về thăm lại chốn xưa đã kể cho nghe) trước
khi cả nước bị chôn mất hoàn toàn.
Nhưng thôi anh ạ! Dù tưởng rằng em đã chết mà không chết thật sự ngoài đời từ
tháng Tư năm đó, thì trong anh, em cũng đã chết tự lâu rồi. Lời thư muộn hôm
nay, với em, khác chi ngọn đèn dầu bất lụn chợt bùng lên và sẽ tắt ngấm tức
thì…
Bây giờ biển quê em vẫn rạt rào tiếng sóng, anh có còn nhớ biển Nha trang, nơi
chốn một thời anh đã được thụ huấn và trở về đóng quân trước khi về miền Nam nước
nổi?, Và đã bao nhiêu lần chúng mình hẹn hò nhau, nơi bắt đầu cho một mối tình
của chàng SVSQKQ và cô nữ sinh áo trắng!.
Ngày đó, những ngày thơ mộng nhất, đã bao năm qua em vẫn ấp ủ những kỷ niệm yêu
thương như là những báu vật lớn nhất trong đời. Mỗi chiều về, nếu có chút thời
gian rảnh em thường tìm ra bãi biển, để tìm lại dấu chân trên cát, để nhớ ngày ấy
anh hay nhìn làn sóng lăn tăn vuốt nhẹ đôi chân trần, đôi bàn chân anh vẫn mân
mê, ve vuốt và ước ao có một ngày, dù chỉ là lời dỗ ngọt bông đùa rằng “anh sẽ
xây hồ bán nguyệt cho em vào rửa chân”. Anh còn nhớ không? và cũng đôi bàn chân
ấy bây giờ em đang dẫm bừa lên làn cát mỏng, dẫm đạp luôn lên cả những hang ổ của
con dã tràng, những con dã tràng cứ thích xây lâu đài trên cát, và anh thì
thích nhìn em chạy bắt đem về nâng niu, vuốt ve, và thì thầm vào tai chúng:
“sao chúng mày quá dại?”
Em và con dã tràng hình như có quá nhiều điểm tương đồng. Dã tràng vẫn kiên tâm
xây lâu đài trên cát dù biết rằng chỉ một cơn sóng mạnh từ ngoài khơi ập vào là
lâu đài tạo dựng bao lâu sẽ đổ ụp tan tành, rồi bị dòng nước biển cuốn ra xa mất
hút. Còn em, sao cũng một mình đi trên biển vắng để nghe đắng cay xé nát tim
mình, em thích đến nơi này vào mùa biển động anh ạ! có mấy ai trọn tình lại
thích nhìn biển dậy sóng bao giờ?...
Lê Thị Hoài
Niệm
(viết
tặng cho người bạn..., một vài dữ kiện được thay đổi, để... tránh
phiền hà.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét