Thứ Năm, 26 tháng 10, 2017

Đường Vào Đông Âu

GIỚI THIỆU
Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy Cô, quý anh chị Đồng Môn và quý Thân Hữu
Bài ĐƯỜNG VÀO ĐÔNG ÂU, tác giả Trúc Giang/Cao Gia. Bài viết có tính cách lịch sử thế giới rất giá trị. Xin mời quý Thầy Cô và quý Anh Chị vào xem. Xin cám ơn văn, thi sĩ Trúc Giang rất nhiều.
Trân trọng giới thiệu.
NHHN



Đường Vào Đông Âu
(Cánh cửa Ba Lan mở toang chứng tích lịch sử)

 Bằng phi chắp cánh rời Rome
 Dáng thu thấp thoáng trên vòm trời Âu
 Rặng phong xanh nhốm úa màu
 Vàng phai sắc lá, nhớ nhau những ngày.

Hành hương Năm Thánh đó đây
Nghe hồn chan chứa đong đầy ân thiên
Trong tim có bóng Mẹ hiền
Nhậm lời con nguyện thiêng liêng vô vàn.

Rời Thánh Đô đến Ba Lan
Quê hương cha thánh Giáo Hoàng John Paul
Ngài như bậc thánh anh hùng
Dẹp phường Cộng sản vô cùng thiêng liêng.

Xứ Ba Lan tựa thần tiên
Những nàng xuân nữ dịu hiền thướt tha                               
Chao ôi đẹp! tựa tiên Nga
Thế mà hứng chịu can qua những thời.

Thời Hitler máu lệ tuôn rơi
Tiếp theo Cộng Sản một thời “tam vô”
Xâm lăng giầy xéo cơ đồ
Ba Lan vùng dậy, "tam vô" tan tành.@
                       
Trong chuyến hành hương Ba Lan cửa ngõ Đông Âu, vào những ngày cuối hạ sang thu tháng 9 năm 2016. Khung trời xanh biếc, rải rác những cánh mây trắng bềnh bồng sót lại lững thững như lưu luyến nuối tiếc những ngày tháng hạ tàn phai. Đất nước Ba Lan hiền hoà, thơ mộng trên dáng kiều diễm quyến rũ khách du; khiến tôi dán trên làn môi và đôi má ửng hồng như gái Đà Lạt. Tôi rất thích ngắm nghía nàng mỗi khi đối diện. Mỗi lần như thế, thoáng thấy nàng lộ nét bối rối ngập ngừng và né tránh ánh mắt đam mê của tôi. Đặc biệt với hương tóc quyến rũ màu hung hổ phách, óng mượt như tơ trời mùa thu thấp thoáng, ẩn hiện nét đa tình, lãng mạn kín đáo. Tựa hồ chú nai vàng ngơ ngác sa lưới tình hồi nào không hay thế mới biết “Mỹ nhân tự cổ như danh tướng - Bất hứa nhân gian kiếng bạch đầu”.Gái Ba Lan xinh đẹp hơn nhiều... so với gái Pháp và Bồ Đào Nha. Có thề nói chiếm giải nhất “Hoa Hậu” Âu Châu.

Đoàn hành hương lý thú nầy do LM John Trần Anh Thư rất tài hoa, ngài là nhạc sĩ của nhiều tác phẩm nổi tiếng, là cha bề trên Tổng Dòng Gioan Tẩy Giả do ngài tái phục hoạt sau hơn 40 năm bị chính quyền vô thần CS cưỡng đoạt tại Sài Gòn.Ngài là Trưởng Đoàn; tháp tùng là 6 Lm trẻ cùng Dòng, đang truyền giáo tại Trung Hoa Dân Quốc. Mùa thu vàng thơ mộng trên xứ Ba Lan; đây là cơ hội tôi có dịp viếng thăm quê hương của Đức Thánh Giáo Hoàng John Paul II, bậc vĩ nhân thời đại đi vào lịch sử của thiên niên kỷ Thứ II. Đã góp phần lớn lao xoá sạch chủ nghĩa Cộng Sản vô thần trên đất nước Ba Lan và toàn vùng Đông Âu qua bức “Tối Hậu Thư” lịch sử gửi TBT/CS Nga Mikhail Gorbachev (khi phong trào đấu tranh dân chủ nở rộ tại Ba Lan quê hương Ngài rằng: “Nếu ngài TBT/CS Gorbachev, cho xe tank tràn qua đàn áp các cuộc cách mạng dân chủ tại Ba Lan, Tiệp Khắc và các các nước trong vùng..  thì Ngài sẽ cởi áo, mão Giáo Hoàng để lại Rome, sẽ về Ba Lan làm chiến sĩ tự do cùng với dân tộc Ngài chiến đấu cho nền hòa bình và tự do, công lý. Chính bức “Tối Hậu Thư” nầy như một phép nhiệm mầu, khiến các chế độ CS vô thần toàn vùng Đông Âu, Đức và Nga bị xoá sạch trong thời gian kỷ lục.

Trong suốt cao trào ấy, Ngài đã hậu thuẫn mật thiết với người anh hùng Lech Walesa (chỉ là một thợ điện) nhưng tư tưởng phi thường của một bậc vĩ nhân thời đại. Walesa một tín đồ Công Giáo có niềm tin tuyệt đối rằng; cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc nhất định toàn thắng trước bạo tàn phi chân lý. Dù tập đoàn CS bản địa được trung tâm quyền lực CS quốc tế do Nga cầm đầu và điều khiển. Chi phối trong gọng kèm “tứ độc”: “độc đảng, độc tài, độc tôn và độc ác đến đâu đi nữa” thì cũng phải cáo chung theo quy luật đào thải, bởi chúng là lũ bá đạo và mỵ dân. CS dùng dân tộc như một thứ công cụ nô lệ để phục vụ tập đoàn thống trị. Tự ngàn xưa; ngạn ngữ có câu “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”, do đó; trong bối cảnh lịch sử ấy; dân tộc Ba Lan đã xuất hiện một vị Thánh Giáo Hoàng mà CS phải quyết tâm mưu sát, nhưng Ngài đã thoát lưỡi hái tử thần. Theo các nhà quan sát quả quyết rằng; Ngài thoát chết là một sự mầu nhiệm! Qủa thật; trong “Mệnh Lệnh Thư của Đức Mẹ Fatima” hiện ra với 03 trẻ mục đồng năm 1917, có phụ chú đầy đủ, rõ ràng tước hiệu về người “Giáo Hoàng Áo Trắng”. Trong cuộc giải phẩu,các BS vô cùng kinh ngạc khi gắp viên đạn ghim sát tim. Và không lâu thì bình phục; Ngài đến Bồ Đào Nha tạ ơn Mẹ Fatima với lời tuyên bố “kẻ sát nhân nổ súng giết Ngài, nhưng Mẹ Fatima đã lái viên đạn không trúng tim để cứu Ngài”làm tròn sứ mệnh với giáo hội và lịch sử nhân loại.

Ngoài ra; trong bối cảnh lịch sử ấy cùng xuất hiện vị anh hùng được nhắc nhở trên, đó là Lech Walesa. Walesa bước vào đời để thay đổi cục diện lịch sử bằng “bản trường ca tranh đấu”. Anh bất chấp ngục tù và xiềng xích kể cả mạng sống để đổi lấy ánh sáng tự do, công lý cho dân tộc Ba La. Nên suốt qúa nửa cuộc đời anh là đấu tranh và lao tù: vào tù, ra khóm -  ra khóm vào tù như cơm bửa. Chí khí kiêu hùng ấy khiến cho dân tộc Ba Lan vô cùng ngưỡng phục trong lặng thầm, chờ tàn đêm đen cho bình minh chân trời bừng sáng.

Quả thật và đúng thế! bình minh của chu kỳ lịch sử ló dạng; Khi Walesa ra khỏi ngục tù CS; anh chớp lấy thời cơ chín muồi của điền kiện khách quan qua sự cầu nguyện hiệp thông,hậu thuẫn & tình liên đới của Đức Giáo Hoàng John Paul II. Lập tức Walesa lãnh đạo phong trào cách mạng dân chủ của Công Đoàn Đoàn Kết cùng toàn dân vùng dậy, như nước vỡ bờ nhận chìm chế độ CS trước sức mạnh thiêng liêng, phi thường của dân tộc Ba Lan vào mùa Đông 1989. Từ cuộc cách mạng dân chủ ấy; đã mở đường cho các cơn bão cách mạng toàn vùng Đông Âu bùng lên quét sạch các bạo quyền CS. Hiệu ứng tràn qua Đông Đức rồi đến Nga điểm cuối cùng của chiếc nôi khai sinh ra cái quái thai chủ nghĩa CS, mệnh danh “cách mạng tháng10/17” trong thập niên 1990. Sự kiện nầy khiến cho nhân loại khắp thế giới ngỡ ngàng như một phép lạ nhiệm mầu.

Người anh hùng áo sô thợ điện Lech Walesa ấy, được nhân dân Ba Lan bầu vào chức vụ Tổng Thống đầu tiên; cùng với toàn dân Ba Lan kiến trúc ngôi nhà DÂN CHỦ - TỰ DO và NHÂN BẢN sánh vai, và đồng hành với nhân loại văn minh khắp thế giới.

Trong chuyến hành hương Ba Lan nầy; tôi được dịp ghé thăm trại Tử Thần Hơi Ngạt AUSCHWITZ sản phẩm tội ác của tên tội đồ thiên cổ Adolf Hitler, Đức Quốc Xã tội phạm diệt chũng chống nhân loại, tiêu diệt trên dưới năm triệu (5,000,000.00) người Do Thái lẫn tù nhân chính trị Ba Lan.

Trại Tử Thần Hơi Ngạt Auschwitz - Sản phẩm tội ác của tội đồ sát nhân chống nhân loại Adolf Hitler.

Trại tập trung Auschwitz

Trại tập trung Auschwitz (tiếng Đức: Konzentrationslager Auschwitz, hay KZ Auschwitz [kɔntsɛntʁaˈtsi̯oːnsˌlaːɡɐ ˈʔaʊʃvɪts]  là một mạng lưới các trại tập trung và trại hủy diệt do Đức Quốc xã dựng lên tại vùng lãnh thổ Ba Lan bị nước này thôn tính trong chiến tranh thế giới thứ hai. Trại bao gồm Auschwitz I (trại đầu tiên), Auschwitz II–Birkenau (tổ hợp trại tập trung và trại hủy diệt), Auschwitz III–Monowitz (trại lao động cung cấp nhân lực cho nhà máy của IG Farben), và 45 trại vệ tinh.

Auschwitz I ban đầu được xây dựng để giam giữ tù nhân chính trị Ba Lan, những người bắt đầu đến trại vào tháng 5 năm 1940. Đợt hành quyết tù nhân đầu tiên diễn ra vào tháng 9 năm 1941 và Auschwitz II–Birkenau đã tiến đến trở thành địa điểm thực thi chính của kế hoạch "Giải pháp cuối cùng cho vấn đề Do Thái". Giai đoạn từ đầu năm 1942 đến cuối năm 1944, những chuyến tàu vận chuyển đã đưa người Do Thái từ khắp mọi vùng lãnh thổ châu Âu do Đức chiếm đóng đến các phòng hơi ngạt của Auschwitz, nơi họ bị giết bằng thuốc trừ sâu Zyklon B. Có ít nhất 1,1 triệu tù nhân đã bỏ mạng ở Auschwitz, khoảng 90% trong số đó là người Do Thái; tính ra thì cứ 6 người Do Thái bị giết trong vụ Holocaust thì 1 người là ở Auschwitz. Những thành phần khác bị trục xuất đến trại gồm có 150.000 người Ba Lan, 23.000 người Di-gan, 15.000 tù binh chiến tranh Liên Xô, 400 tín hữu nhân chứng Jehovah, và hàng chục ngàn người sở hữu các quốc tịch khác nhau, trong đó có một số lượng không rõ người đồng tính. Hầu hết những người không bị giết trong các phòng hơi ngạt đã chết vì đói, lao động quá sức, bệnh tật, hành quyết đơn lẻ, và các thí nghiệm y khoa.

Trong chiến tranh, trại có 7.000 cán bộ nhân viên đến từ tổ chức Schutzstaffel (SS). Khoảng 12% trong số này về sau đã bị kết án phạm phải những tội ác chiến tranh. Một số người, trong đó có sĩ quan chỉ huy Rudolf Höss, bị xử tử. Quân Đồng Minh đã không tin vào các báo cáo ban đầu về những hành động tàn ác và việc họ không tiến hành ném bom Auschwitz hay các tuyến đường rây dẫn tới trại hiện vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Tổng cộng có 144 tù nhân đào thoát thành công khỏi Auschwitz được biết đến. Vào ngày 7 tháng 10 năm 1944, hai đơn vị Sonderkommando — những tù nhân xử lý phòng hơi ngạt — đã tiến hành một cuộc nổi dậy ngắn nhưng bất thành.
Vào lúc Hồng quân Nga đến Auschwitz trong tháng 1 năm 1945, hầu hết số người ở trại đã di tản và trải qua một chuyến đi tử thần. Ngày 27 tháng 1 năm 1945, thời điểm mà các tù nhân còn lại trong trại được giải phóng, nay là ngày tưởng niệm Holocaust quốc tế (International Holocaust Remembrance Day). Trong những thập kỷ tiếp theo, những người sống sót như Primo LeviViktor FranklElie Wiesel đã viết hồi ký về trải nghiệm của họ ở Auschwitz và khu trại đã trở thành biểu tượng  của Holocaust. Vào năm 1947 Ba Lan thành lập một bảo tàng tại vị trí của Auschwitz I và II trước đây và đến năm 1979 trại đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới.

Tù nhân bị thảm sát bằng hơi ngạt
Lịch sử & Bối ảnh        
Sự phân biệt đối xử nhằm vào người Do Thái bắt đầu ngay lập tức sau khi phe Quốc xã lên nắm quyền ở Đức vào ngày 30 tháng 1 năm 1933. Một đạo luật thông qua vào ngày 7 tháng 4 năm đó (Gesetz zur Wiederherstellung des Berufsbeamtentums; trực dịch: Luật vì sự phục hồi của ngành dân chính chuyên nghiệp) đã khai trừ gần như toàn bộ người Do Thái khỏi ngành pháp lý và dân chính. Pháp chế tương tự đã sớm tước bỏ quyền hành nghề của người Do Thái đối với các loại nghề nghiệp khác. Chế độ đã sử dụng bạo lực và áp lực kinh tế để động viên người Do Thái tình nguyện rời đất nước. Các hoạt động kinh doanh của người Do Thái bị tẩy chay và cách ly khỏi thị trường, quảng cáo trên báo bị cấm, và họ không được phép quan hệ với chính quyền. Ngoài ra người Do Thái còn phải chịu đựng sự sách nhiễu và những cuộc tấn công bạo lực.       
Vào tháng 9 năm 1935 các đạo luật Nuremberg được ban hành với nội dung ngăn cấm việc kết hôn cũng như những mối quan hệ ngoài hôn nhân giữa người Do Thái và người dòng dõi Đức và cấm thuê phụ nữ Đức dưới 45 tuổi làm người hầu trong các gia đình Do Thái. Luật tư cách công dân Đế chế tuyên bố chỉ những người gốc Đức hay dòng dõi liên quan mới được định nghĩa là công dân, bởi vậy người Do Thái và các nhóm dân tộc thiểu số khác đã bị tước bỏ tư cách công dân Đức. Cho đến thời điểm chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ vào năm 1939, đã có khoảng 250.000 trong số 437.000 người Do Thái Đức di cư đến Mỹ, Palestine, Anh và các quốc gia khác.
Ý thức hệ của chủ nghĩa Quốc xã quy tụ các yếu tố bài Do Thái, thanh lọc chủng tộcthuyết ưu sinh; kết hợp chúng với chủ nghĩa toàn Đức (Pangermanismus) và chủ nghĩa bành trướng lãnh thổ với mục tiêu chiếm được nhiều Lebensraum (không gian sống) cho dân tộc Đức. Chế độ Quốc xã nỗ lực giành lấy lãnh thổ mới bằng việc xâm lược Ba Lan, Liên Xô và dự định trục xuất hoặc tiêu diệt người Do Thái và người Slav sinh sống ở các quốc gia này, những đối tượng được cho là hạ đẳng so với chủng tộc thượng đẳng Aryan. Sau cuộc xâm lược Ba Lan trong tháng 9 năm 1939, lãnh tụ Đức Quốc xã Adolf Hitler đã ra lệnh tận diệt giới lãnh đạo và tri thức Ba Lan. Có khoảng 65.000 dân thường đã bị giết tính đến cuối năm 1939. Bên cạnh những lãnh đạo Ba Lan, Quốc xã còn sát hại người Do Thái, gái mại dâm, người Di-gan, và người mắc bệnh tâm thần. Vào ngày 21 tháng 9, SS-Obergruppenführer (trung tướng SS) Reinhard Heydrich, thủ lĩnh Gestapo, đã ra lệnh vây bắt tập trung người Do Thái vào trong các thành phố hệ thống  đường sắt đi tới đảo  Madagascar  ở Ấn Độ Dương

Vị trí trại tập trung

Sau khi một phần Ba Lan bị Đức Quốc xã thôn tính, thị trấn Oświęcim (Auschwitz) về mặt hành chính đã thuộc nước Đức, nằm ở tỉnh Thượng SilesiaThượng Đông Silesia, Landkreis Bielitz. SS-Oberführer Arpad Wigand đã lần đầu đề xuất nơi đây làm điểm xây dựng một trại tập trung dành cho những tù nhân người Ba Lan. Wigand là phụ tá của Erich von dem Bach-ZelewskiHöherer SS- und Polizeiführer (thủ lĩnh cảnh sát và SS cấp cao) của Silesia, người đang tìm kiếm một nơi chứa tù nhân khi mà các nhà tù địa phương đã không còn chỗ để tiếp nhận. Richard Glücks, người đứng đầu Cơ quan thanh tra các trại tập trung, đã cử cựu sĩ quan chỉ huy trại tập trung Sachsenhausen Walter Eisfeld đến để kiểm tra địa điểm. Lúc đó nơi này có 16 tòa nhà một tầng đổ nát từng là doanh trại quân đội của Áo và sau này là của Ba Lan, và một trại dành cho những lao động tạm thời. Vào tháng 4 năm 1940, Reichsführer-SS (thống chế SS) Heinrich Himmler, thủ lĩnh Schutzstaffel (SS), đã phê chuẩn địa điểm này và ý định ban đầu là dùng nó làm nơi giam giữ tù nhân chính trị. Việc xây dựng trại do SS-Obersturmbannführer (trung tá SS) Rudolf Hoss, sĩ quan chỉ huy đầu tiên, giám sát. SS-Obersturmführer (trung úy SS) Josef Kramer được bổ nhiệm làm phụ tá của Hoss. Auschwitz I, trại 
Cư dân địa phương, trong đó có 1.200 người sinh sống trong những căn lều xung quanh doanh trại, bị xua đuổi. 17.000 cư dân Ba Lan và Do Thái ở phía tây Oświęcim đã bị đuổi khỏi những nơi gần kề trại trong giai đoạn 1940-41. Giới chức Đức còn ra lệnh trục xuất người Ba Lan ở làng BroszkowiceBabiceBrzezinkaRajskoPławyHarmężeBór, và Budy đến Generalgouvernement. Công dân Đức sẽ được giảm thuế và hưởng những lợi ích khác nếu họ di dời đến khu vực này. Cho tới tháng 10 năm 1943, đã có hơn 6.300 người Đức đến đây. Quốc xã lên kế hoạch xây dựng một mô hình khu dân cư hiện đại dành cho người Đức chuyển đến, trong đó có trường học, sân chơi, và những tiện nghi khác. Một số kế hoạch vẫn tiếp diễn như việc thi công hàng trăm căn hộ, tuy nhiên phần nhiều trong số chúng không được hoàn thiện. Các vấn đề cơ bản như nước sạch và hệ thống xử lý nước thải không thỏa đáng và các bệnh từ nước là phổ biến. Những tù nhân đầu tiên (30 phạm nhân người Đức tới từ trại tập trung Sachsenhausen) đến trại vào tháng 5 năm 1940. Chuyến tàu lớn đầu tiên đến Auschwitz vào ngày 14 tháng 6 năm 1940 với thành phần gồm những người tù Công giáo, những người bị tình nghi thuộc phe kháng chiến, và 20 người Do Thái tới từ nhà tù ở Tarnów, Ba Lan. Họ bị quản thúc trong một tòa nhà ngay gần đó chờ tới khi trại sẵn sàng.
Số lượng tù nhân gia tăng nhanh chóng khi trại tiếp nhận những kẻ chống đối và giới tri thức Ba Lan. Tính đến tháng 3 năm 1941, số người bị giam giữ ở Auschwitz là 10.900, chủ yếu là người Ba Lan. Đến cuối năm 1940, SS đã thu hồi những khu đất quanh trại để tạo lập một vùng có diện tích 40 km2 bao bọc bởi hai hàng rào thép gai và những tháp canh.  Cũng như các trại tập trung khác của Đức Quốc xã, trên cánh cổng vào Auschwitz I có hiển thị câu khẩu hiệu Arbeit macht frei ("lao động mang đến sự tự do"). Auschwitz II-Birkenau
Cổng vào trại tập trung
Những thắng lợi ban đầu của chiến dịch Barbarossa vào mùa hè và thu năm 1941 trước kẻ thù mới Liên Xô đã dẫn tới sự thay đổi sâu sắc trong ý thức hệ bài Do Thái của Đức Quốc xã và lai lịch của những tù nhân bị đưa đến Auschwitz. Vào tháng 10 năm 1941, Auschwitz II-Birkenau khởi công xây dựng để giảm tải cho trại chính. Reichsführer-SS Heinrich Himmler dự định đây sẽ là nơi dành cho 50.000 tù binh chiến tranh, những đối tượng sẽ được dùng làm lao động khổ sai. Các kế hoạch hướng đến mục tiêu mở rộng trại để giam giữ ban đầu là 150.000 và cuối cùng là 200.000 tù nhân. Vào tháng 10 năm 1941 có 10.000 tù binh chiến tranh Liên Xô tới Auschwitz I, đến tháng 3 năm 1942 chỉ còn 945 người còn sống và bị chuyển đến Birkenau, và đến tháng 5 hầu hết trong số họ đã chết vì đói và bệnh tật. Trước đó Hitler đã đi đến quyết định tàn sát người Do Thái, cho nên Birkenau sở hữu thêm trách vụ , trở thành một tổ hợp trại khổ sai và trại hủy diệt

Người đứng đầu phụ trách việc xây dựng Auschwitz II-Birkenau là Karl Bischoff. Khác với người tiền nhiệm, Bischoff là một công chức có tài và khả năng. Trại Birkenau gồm bốn nhà thiêu và hàng trăm tòa nhà khác được lên kế hoạch và thực hiện. Bischoff ban đầu dự kiến bố trí 550 tù nhân mỗi doanh trại; về sau con số này tăng lên thành 744. Sức chứa của những công trình dùng làm chỗ cư ngụ cho tù nhân không lớn bằng sức chứa của những công trình dùng để tiêu diệt họ. Phòng hơi ngạt đầu tiên ở Birkenau là "nhà đỏ" (nhân viên SS gọi là Bunker 1), một ngôi nhà gạch được chuyển đổi bằng cách dọn sạch bên trong thành một khoang trống và xây gạch bít các cửa sổ. Bunker 1 hoạt động đến tháng 3 năm 1942. Ngôi nhà gạch thứ hai, "nhà trắng" hay Bunker 2, trở thành phòng hơi ngạt sau Bunker 1 vài tuần. Các công trình này phục vụ việc hành quyết hàng loạt cho tới đầu năm 1943. Trong các ngày 17 và 18 tháng 7 năm 1942, Himmler đích thân tới thăm trại. Y trình bày về việc hành quyết hàng loạt bằng phòng hơi ngạt ở Bunker 2 và tới thăm địa điểm mà nhà máy mới của IG Farben đang thiết kế tại thị trấn Monowitz gần đó.

Vào đầu năm 1943, Quốc xã quyết định tăng cường mạnh năng lực tàn sát của Birkenau. Nhà thiêu II ban đầu thiết kế làm nơi chứa xác với các nhà xác dưới tầng hầm và lò thiêu trên mặt đất đã được chuyển đổi thành một nhà máy giết người bằng cách tạo ra thêm những cánh cửa kín, những lỗ thông để đổ Zyklon B vào phòng, và thiết bị thông hơi để loại bỏ hơi độc sau đó. Tòa nhà bắt đầu hoạt động từ tháng 3. Nhà thiêu III áp dụng kiểu thiết kế tương tự. Các nhà thiêu IV và V cũng được kiện toàn trong mùa xuân năm đó. Đến tháng 6 năm 1943, cả bốn nhà thiêu đã đi vào hoạt động. Xét số nạn nhân bị giết thì hầu hết là ở bốn lò sát sinh này.
Chúng tôi đến một gian phòng khác còn sót lại khoảng 01 tấn tóc của phụ nữ Do Thái bị cạo trọc bỏ lại trước khi đẩy vào lò sát sinh. Số lượng tóc phụ nữ có thể lên đến trên dưới 05 tấn được chuyển vào các nhà máy dệt công nghiệp vải sợi hoặc dụng cụ phục vụ chiến tranh. Chúng tôi rùng mình trước những tội ác vô cùng dã man của tên tội đồ nhân loại Adolf Hitler trong thế kỷ 20 tại trại Auschwitz @.
Trúc Giang/Cao Gia

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét