NGUYỄN TRÃI - ỨC TRAI THI TẬP BÀI 18, 19 VÀ 20
Thầy Dương Anh Sơn
Bài 18
HẠ QUY LAM SƠN (KỲ NHỊ) 賀 歸 藍 山 (期二)
Ức tích Lam Sơn ngoạn vũ kinh, 憶昔藍山玩武經,
Đương thời chí dĩ tại thương sinh. 當 時志已在蒼生.
Nghĩa kỳ nhất hướng Trung Nguyên chỉ, 義旗一向中原指,
Miếu toán tiên tri đại sự thành. 廟算先知大事成.
Nhật xuệ nguyệt thành quy đức hóa, 日竁月城歸德化,
Hủy thường chùy kế, thức uy thanh. 卉裳榷髻識威聲.
Nhất nhung đại định hà thần tốc, 一戎大定何神速,
Giáp tẩy cung nang lạc thái bình. 甲洗弓囊樂太平.
Nguyễn Trãi 阮 廌
Dịch nghĩa:
Nhớ khi xưa nơi đất Lam Sơn nghiền ngẫm sách võ nghệ binh nhung - Bấy giờ nung chí chỉ vì dân đen trăm họ - Ngọn cờ nghĩa đã chỉ hướng về Trung Nguyên – Xin quẻ nơi miếu tổ tiên biết trước việc lớn sẽ thành (c.1-4) - Ở nơi cùng trời cuối đất xa xôi cũngchuyển hóa theo đức - Những người mặc áo cỏ , búi tóc quả chùy nơi vùng hẻo lánh cũng biết tiếng tăm oai nghiêm mà phục - Một trận ra quân đã dẹp yên sao mà mau chóng thế! - Rửa binh giáp, cất cung vào bọc, vui hưởng thái bình. (c.5-8)
Dịch thơ:
MỪNG VỀ LAM SƠN (Bài 2)
Lam Sơn chăm đọc binh nhung,
Xưa vì trăm họ chí nung bấy giờ.
Trung Nguyên về nghĩa theo cờ,
Sẽ nên việc lớn đoán sơ biết rồi.
Chốn xa theo đức đổi đời,
Búi chùy, áo cỏ tiếng khơi mọi miền.
Gọn nhanh một trận dẹp yên,
Thái bình vui hưởng, giáp tên cất vào.
Chú thích:
- ức tích 憶昔: nhớ xưa kia.
- ngoạn玩: nghiền ngẫm, thưởng thức, bỡn cợt, quý báu (ngoạn vũ kinh - vũ kinh 武經: nghiền ngẫm đọc kỹ (sôi kinh) kinh sách dạy võ nghệ, việc quân binh.
- thương sinh 蒼生: dân đen, trăm họ, dân chúng.
- chỉ 指 : hướng về, trỏ, chỉ, ngón chân.
- miếu toán廟算: xin quẻ nơi tông miếu tiên tổ để làm một việc quan trọng nào đó.
- tiên tri先知: biết trước.
- nhật xuệ nguyệt thành日竁月城: nơi mặt trời đào xuống đất (xuệ), nơi mặt trời mọc và nơi có thành mặt trăng: ý nói nơi “cùng trời, cuối đất” xa xôi. (có sách đề là “xuế” hoặc “xuyến”).
- quy đức hóa 歸德化: đức triều đình tốt đẹp lan tỏa đến miền xa xôi khiến các nơi này qui thuận.
- hủy thường 卉裳: áo bện bằng cỏ; chùy kế 榷髻: búi tóc hình cái chùy. Hai từ này chỉ các bộ tộc vùng rừng núi hẻo lánh ở xa cũng biết uy danh triều đình (thức uy thanh).
- đại định 大定: cuộc tấn công lớn đã bình định, dẹp yên và đuổi giặc ra khỏi bờ cõi.
- cung nang 弓囊: cất cung tên vào kho.
Bài 19
ĐỀ KIẾM 題 劍
Lam-Sơn tự tích ngọa thần long, 藍山自昔臥神龍,
Thế sự huyền tri tại chưởng trung. 世事懸知在掌中.
Đại nhiệm hữu quy thiên khải thánh, 大任有歸天啟聖,
Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong. 昌期一遇虎生風.
Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ, 國讎洗盡千年恥,
Kim quỹ chung tàng vạn thế công. 金匱終藏萬世功.
Chỉnh đốn càn khôn tùng thử liễu, 整頓乾坤從此了,
Thế gian na cánh sổ anh hùng. 世間那更數英雄.
Nguyễn Trãi 阮 廌
Dịch nghĩa:
Từ xưa, Lam Sơn đã có rồng thần nằm - Chuyện đời xa xăm đã biết trước như nằm trong bàn tay – Giao cho trách nhiệm lớn lao đã có trời mở ý cho biết - Gặp thời tươi sáng như hổ sinh thành gió(c.1-4) – Thù nước cả ngàn năm chịu sỉ nhục, đã được rửa sạch rồi – Công lao muôn đời rốt cùng đã được cất giữ vào tráp vàng - Việc sắp đặt đất trời đã xong xuôi – Cõi đời đếm được mấy bậc anh hùng.(c.5-8)
Dịch thơ:
ĐỀ VÀO KIẾM
Lam Sơn xưa có rồng thần,
Biết đời sâu thẳm trong bàn tay thôi.
Giao cho việc lớn: ý trời!
Hổ sinh thành gió gặp thời sáng tươi.
Nghìn năm thù nước rửa rồi,
Tráp vàng cất giữ muôn đời chiến công.
Đất trời xếp đặt đã xong,
Cõi đời đếm được anh hùng bao lăm.
Chú thích:
- tích 昔: xưa, trước, đã lâu.
- huyền tri 懸知 : cái biết xa xôi,sâu lắng chỉ có thể cảm nhận cho riêng mình
- đại nhiệm 大任: trách nhiệm, đảm trách việc lớn lao
- quy 歸: về, gom lại, giao về.
- thiên khải thánh 天啟聖: gọi chung là ý của trời đất, thánh thần ban xuống.
- xương 昌: tốt đẹp, sáng tươi, sáng sủa, thịnh vượng.
- sỉ 恥: nỗi nhục, hổ thẹn.
- kim quỹ 金匱 : tráp vàng. Hán Cao tổ khi lên ngôi cho ghi lại công trạng của những người có công lớn cho vào hộp vàng để ghi nhớ. Đây chỉ công lao to lớn ngàn đời sau ghi nhớ.
- chỉnh đốn 整頓: sắp xếp.
- na cánh sổ 那更數: đếm được bao nhiêu đâu.
Bài 20
HẠ TIỆP (KỲ 1) 賀 捷 (期一)
(Tân Hợi Thái Tổ chinh phục Lễ Châu / 辛亥太祖征復禮州)
Xuẩn nhỉ man tù cảm khấu biên 蠢爾蠻酋敢寇邊,
Tích hung nẫm ác dĩ đa niên. 積凶稔惡已多年.
Cửu trùng duệ niệm linh hà tục, 九重睿念忴遐俗,
Vạn lý loan dư mạo chướng yên. 萬里鸞輿冒瘴煙.
Sơn thú dĩ văn thu Ngụy Bác, 山戍已聞收魏博,
Thần Khuê hựu kiến khắc Yên Nhiên. 宸奎又見刻燕然.
Tùng kim tứ hải xa thư nhất, 從今四海車書一,
Thịnh đức phong công vạn cổ tiền. 盛德豐功萬古前.
Nguyễn Trãi 阮 廌
Dịch nghĩa:
Bọn tù trưởngnơi vùng biên giới bờ cõi xuẩn ngốc chúng bây dám làm chuyện loạn quấy - Chất hung dồn chứa các ác đã nhiều năm rồi – Vua ở chín tầng sáng suốt hiểu thấu thói tục vùng xa xôi - Đường muôn dặm kiệu loan vẫn đi đến nơi có nhiều chướng khí độc hại (c.1-4)– Đã nghe tin quân đồn trú vùng núi đã thu lại được vùng Ngụy Bác – Núi Yên Nhiên đã thấy khắc công sao Thần Khuê - Từ nay bốn biển kiểu xe và kiểu chữ đã là một - Đức thịnh và công lớn hơn hẳn muôn đời trước(c.5-8).
Dịch thơ:
MỪNG THẮNG TRẬN (Bài 1)
Cõi bờ xuẩn quấy lũ man,
Chứa hung, dồn ác nhiều năm lắm rồi!
Chín tầng hiểu thói xa xôi,
Xe vua khí độc vẫn xuôi dặm ngàn.
Quân thâu Ngụy-Bác tin loan,
Yên-Nhiên đã thấy khắc Thần Khuê đây.
Bốn phương là một từ rày,
So muôn đời trước đức dày, công to!
Chú thích:
- man tù 蠻酋: tù trưởng bộ lạc ít người ở biên giới.
- xuẩn nhĩ 爾: lũ, bọn bay ngu xuẩn.
- cảm khấu 敢寇: dám làm loạn, dám cướp.
- cửu trùng 九重 : chín bệ ,chín bậc bước lên chỗ vua ngự triều; chỉ nơi vua thiết triều ban lệnh.
- duệ niệm 睿念: thông, hiểu, hiểu thấu một cách sáng suốt (Kinh Thư: Duệ tác thánh (tinh thông là thánh - Hồng Phạm)
- hà tục 遐俗: thói tục, tập tục của các vùng xa xôi mà xưa thường gọi là man di.
- loan dư 鸞輿: xe vua đi.
- mạo chướng yên 冒瘴煙: dám đến nơi có hơi độc (chốn rừng rú).
- sơn thú 山戍: lính đồn trú, lính trú đóng ở vùng biên giới hoặc vùng cao xa xôi cách trở.
- Ngụy Bác 魏博: tác giả mượn câu chuyện trong sử T.H: Điền Thừa Tự được làm phiên trấn giữ Ngụy Bác nhưng làm phản, chống triều đình nên đích thân vua Đường đem quân đi dẹp. Đây chỉ châu Phúc Lễ (Lễ Châu) có Đèo Cát Hãn cầm đầu các bộ tộc chống đối triều đình nên Lê Lợi đem quân thâu phục năm Tân Hợi.
- Khuê 奎: vị sao đứng đầu 28 ngôi sao (nhị thập bát tú) chỉ vua Lê Lợi (Thần).
- Yên Nhiên 燕然: Bảo Hiến thời Hậu Hán bên Trung Hoa đánh đuổi quân Hung Nô thắng lợi cho ghi khắc, ghi khắc công lao ở một ngọn núi ngoại Mông. Đây chỉ việc Lê Lợi cho khắc văn bia ở Lai Châu và núi Thác Bờ ghi chiến công (Hoài Lai Cổ Bi và Hoài Tráng Cổ Bi) - câu 7: từ nay bốn biển xe chữ thống nhất làm một. Chỉ đất nước tự chủ, thống nhất.
- phong công 豐功: công to lớn như núi.
* * Bài thơ này Nguyễn Trãi làm sau trận đánh dẹp Đèo Cát Hãn năm 1432 do đích thân Lê Thái Tổ cầm quân. Vùng đất Mường Lễ của tù trưởng Đèo Cát Hãn được đặt tên là châu Phục Lễ tức vùng Lai Châu bây giờ.
(Lần đến : Bài 21 ,22 và 23)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét