Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2025

Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du - Tập 3: Bắc Hành Tạp Lục

 


THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - TẬP 3: BẮC HÀNH TẠP LỤC - BÀI 16, 17 VÀ 18
Thầy Dương Anh Sơn 

THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU

TẬP 3 : BẮC HÀNH TẠP LỤC

Bài 16

TAM GIANG KHẨU ĐƯỜNG DẠ BẠC                               三 江 口 塘 夜 泊

Tây Việt trùng sơn nhất thủy phân,                                            西粵重山一水分,
Lưỡng sơn tương đối thạch lân tuân.                                         兩山相對石磷峋.
Viên đề thụ diểu nhược vô lộ,                                                    猿啼樹杪若無路,
Khuyển phệ lâm trung tri hữu nhân.                                          犬吠林中知有人.
Tứ vọng vân sơn nhân độc lão,                                                  四望雲山人獨老,
Ðồng chu Hồ Việt các tương lân.                                               同舟胡越各相親.
Thập niên dĩ thất hoàn hương lộ,                                               十年已失還鄉路,
Ná đắc gia hương nhập mộng tần.                                             邢得家鄉入夢頻.

Dịch nghĩa:

Một dòng sông đã phân chia dãy núi Tây Việt, - Hai hòn núi đá lônhô lởm chởm cùng nhìn nhau. - Vượn hú trên các ngọn cây, tưởng như không có lối đi đến đó, - Ở giữa rừng rú khi có tiếng chó sủa vang là biết có người. (c.1-4)
Nhìn quanh bốn phía đều là núi và những đám mây, riêng người trơ trọi già hẳn đi, - Đi chung thuyền với kẻ Hồ người Việt đều là thân quen cả. - Mười năm trời đã quên đi đường trở về làng xưa, - Làm sao được đi vào trong giấc mộng cùng với chốn quê nhà đây?! (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

ĐÊM ĐỖ THUYỀN Ở CỬA VŨNG TAM GIANG

Chia non Tây Việt một dòng,
Lô nhô đá núi hai hòn nhìn nhau.
Cây cao không lối, vượn gào!
Có người chó sủa ồn ào biết ngay.
Già người, riêng giữa núi mây,
Chung thuyền Hồ Việt cũng rày thân quen.
Mười năm làng cũ đường quên,
Làm sao vào mộng về bên quê nhà?!

Chú thích:

- đường 塘: ao nước, vũng nước lớn.
- bạc 泊: đỗ thuyền nghỉ lại, chỗ neo thuyền. 
Tây Việt:西粵: tên đất Việt cổ thuộc tộc Bách Việt nằm giữa hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây nước Trung Hoa. Đồng thời cũng là tên riêng của tỉnh Quảng Đông.
- lân tuân 磷峋: đá núi nhọn lởm chởm, lô nhô. 
- diểu 杪: ngọn cây cao.
- Hồ Việt 胡越: cách nói để chỉ người Hán ở Trung Hoa và người nước Việt. 
- thập niên 十年 : mười năm kể từ khi vua Gia Long lên ngôi triệu tập Nguyễn Du ra làm quan (1802) và đến khi đi sứ Trung Hoa (1813) hầu như Tố Như luôn bận việc quan phải xa quê nhà.

Bài 17

VÃN HÁ ĐẠI THAN TÂN LẠO
BẠO TRƯỚNG CHƯ HIỂM CÂU THẤT
晚下大 灘 新 潦 暴 漲 諸 險 俱 失

Ngân hà tạc dạ tự thiên khuynh,                                                銀河昨夜自天傾,
Giang thuỷ mang mang giang ngạn bình.                                  江水茫茫江岸平.
Vị tín quỉ thần năng tướng hựu,                                                 未信鬼神能相佑,
Tẫn giao long hổ thất tinh linh.                                                  盡教龍虎失精靈.
Bình cư bất hội giảng trung tín,                                                 平居不會講忠信,
Ðáo xứ vô phương tề tử sinh.                                                     到處無妨薺死生.
Cánh hữu hiểm hi nhiêu thập bội,                                              更有嶮巇饒十倍,
Ngô tương hà dĩ khấu thần minh.                                              吾將何以叩神明.

Dịch nghĩa:

Nước từ sông Ngân đêm qua từ trời nghiêng trút xuống, - (Làm)nước sông lênh láng khắp nơi dâng ngập bờ sông. - Chưa tin là quỉ thần sẽ giúp được, - (Ở vào cảnh này) khiến cho loài rồng loài hổ cũng hết sự linh thiêng. (c.1-4)
Sống thường không chăm học sự trung tín thẳng ngay, - Đến khi gặp chốn cùng cực không thể xoay trở được đành xem sự sống còn, mất mát như nhau! - Sẽ có nhiều gấp mười lần những hiểm nguy trở ngại, - Hỏi rằng ta sẽ lấy gì để cầu khẩn thần linh đây? (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

CHIỀU VỀ XUÔI DÒNG ĐẠI THAN,
NƯỚC LŨ MỚI DÂNG NHANH 
NGẬP HẾT NHỮNG NƠI HIỂM TRỞ

Sông Ngân trời trút đêm rồi,
Bờ sông lênh láng tơi bời nước dâng.
Chưa tin thần quỉ giúp cùng,
Linh thiêng dầu ở cọp rồng cũng không.
Sống thường chẳng học tín trung,
Đến khi sống chết lúc cùng giống nhau.
Mười mươi hiểm trở biết bao,
Lấy gì ta cúi lạy cầu thần minh?!

Chú thích:

- bạo 暴: mạnh bạo, nhanh chóng, thình lình, hao tổn, ngạo ngược...
- câu 俱: đều, cùng, giống...
- mang mang 茫茫: mênh mông, trải khắp, lênh láng nơi nơi.
- hựu 佑: giúp đỡ, cứu giúp.
- tẫn 盡: âm của “tận” (hết, tất cả, chết...) .“Tẫn”có nghĩa là: mặc cho, khiến cho, dầu cho...
- tinh linh 精靈: sự linh thiêng, linh hiển, sự kỳ diệu của linh hồn hay thế giới vô hình không thể diễn tả được hết.
- bất hội giảng 不會講: không tập trung, họp lại để học hỏi, không được giảng giải học tập.
- trung tín 忠信: lòng thành thật ngay thẳng, lòng tin tưởng thật lòng.
- vô phương 無妨: bế tắc, không còn chỗ để xoay trở...
- hiểm hi 嶮巇: (hay hi hiểm) đường núi hiểm trở nguy hiểm và khó đi.
- nhiêu thập bội 饒十倍: nhiều (nhiêu) gấp mười lần (thập bội) .
- khấu 叩: cúi đầu cầu xin, cúi lạy để cầu ơn trên.

Bài 18

HÁ THAN HỈ PHÚ                                                                   下灘喜賦

Tâm hương bái đảo tướng quân tì (từ),                                      心香拜禱將軍祠,
Nhất trạo trung lưu tứ sở chi.                                                     一掉中流肆所之.
Ðáo xứ giang sơn như thức thú,                                                 到處江山如識趣,
Hỷ nhân xà hổ bất thị uy.                                                           喜人蛇虎不施威.
Vạn chu tùng thụ tăng nhân ốc,                                                 萬株松樹僧人屋,
Nhất đái hàn yên Yến Tử ky.                                                     一帶寒煙燕子磯.
Tịch tịch thuyền song vô cá sự,                                                 寂寂船窗無箇事,
Ngư ca giang thượng khán tà huy.                                             漁歌江上看斜暉.

Dịch nghĩa:

Nén hương lòng xin bái lạy nơi đền ông tướng, - Một mái chèo buông
lỏng giữa dòng nước chảy. - Đến chốn nào cũng như đã từng quen biết sông núi rồi, - Mừng người, loài rắn hổ không ra oai. (c.1-4)
Nơi có muôn gốc cây tùng chính là chỗ ở của các nhà sư, - Một dãi khói lạnh lẽo kia là hòn Yến. - Bên cửa sổ thuyền ta lặng lẽ ngồi chẳng có việc vàng nào cả, - Nghe tiếng dân chài ca hát trên sông và ngắm nhìn bóng chiều tà. (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

LÀM THƠ MỪNG KHI XUỐNG GHỀNH

Vái đền ông tướng hương lòng,
Mái chèo buông lỏng giữa dòng sông trôi.
Đến đâu sông núi quen rồi,
Đâu cần cọp rắn mừng người ra oai.
Nhà sư: muôn gốc tùng đây,
Kia là hòn Yến lạnh bày khói giăng.
Lặng ngồi thuyền chẳng việc vàng,
Nghe chài ca ngắm chiều tàn trên sông.

Chú thích:

- phú 賦: làm thơ, thể “phú” của thơ văn cổ kết hợp văn vần với văn xuôi, cấp phát, giao cho, binh lính, ban bố, nạp thuế...
- than 灘: ghềnh nước có đá lởm chởm, bãi cát bày lộ ra khi nước rút.
- tứ 祠: buông lỏng, thả lỏng ra, không ràng buộc, bày ra, thử qua...
- thức thú 識趣: quen biết và nhiều thích thú.
- ky 磯: bãi đá ở giữa sông, hòn đá giữa nước, vách đá kè bờ sông, ngăn nước.
- tịch tịch 寂寂: lặng lẽ, yên tĩnh...
- vô cá sự 無箇事: không có việc gì cả (cá :trợ từ ,đếm,ước chừng...)

(Lần đến: BẮC HÀNH THI TẬP – Bài 19, 20,2 1 và 22)

Dương Anh Sơn 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét