Thứ Tư, 21 tháng 5, 2025

Thơ Của Đỗ Phủ - Bài 95, 96 Và 97

 


THƠ CỦA ĐỖ PHỦ - BÀI 95, 96 VÀ 97
Thầy Dương Anh Sơn

THƠ CỦA ĐỖ PHỦ

Bài 95

THUẬT HOÀI                                                                           述懷

Khứ niên Đồng Quan phá,                                                         去年潼關破,
Thê tử cách tuyệt cửu.                                                                妻子隔絕久。
Kim hạ thảo mộc trường,                                                           今夏草木長,
Thoát thân đắc tây tẩu.                                                               脫身得西走。
Ma hài kiến thiên tử,                                                                  麻鞋見天子,
Y tụ lộ lưỡng trửu.                                                                      衣袖露兩肘。
Triều đình mẫn sinh hoàn,                                                          朝廷愍生還,
Thân cố thương lão xú.                                                              親故傷老丑。
Thế lệ thụ thập di,                                                                      涕淚授拾遺,
Lưu ly chủ ân hậu.                                                                     流離主恩厚。
Sài môn tuy đắc khứ,                                                                 柴門雖得去,
Vị nhẫn tức khai khẩu.                                                               未忍即開口。
Ký thư vấn Tam Xuyên,                                                             寄書問三川,
Bất tri gia tại phủ?                                                                      不知家在否?
Tỷ văn đồng ly họa,                                                                   比聞同罹禍,
Sát lục đáo kê cẩu.                                                                     殺戮到雞狗。
Sơn trung lậu mao ốc,                                                                山中漏茅屋,
Thuỳ phục y hộ dũ?                                                                    誰復依戶牖?
Tồi đồi thương tùng căn,                                                            摧頹蒼松根,
Địa lãnh cốt vị hủ.                                                                      地冷骨未朽。
Kỷ nhân toàn tính mệnh?                                                           幾人全性命?
Tận thất khởi tương ngẫu?                                                         盡室豈相偶?
Khâm sầm mãnh hổ trường,                                                       嶔岑猛虎場,
Uất kết hồi ngã thủ.                                                                    鬱結回我首。
Tự ký nhất phong thư,                                                                自寄㇐封書,
Kim dĩ thập nguyệt hậu.                                                             今已十月後。
Phản uý tiêu tức lai,                                                                   反畏消息來,
Thốn tâm diệc hà hữu!                                                               寸心亦何有!
Hán vận sơ trung hưng,                                                              漢運初中興,
Sinh bình lão đam tửu.                                                               生平老耽酒。
Trầm tư hoan hội xứ,                                                                  沉思歡會處,
Khủng tác cùng độc tẩu.                                                             恐作窮獨叟。
(năm 757)

Dịch nghĩa:

Năm ngoái (quân ta) bị bại trận Đồng Quan, - Vợ con xa lìa rất lâu! – Nay mùa hè cỏ cây chóng lớn, - Thoát được thân, chạy về phía tây! (c.1-4)
Mang dép gai chầu vua, - Tay áo (rách) lộ ra hai khuỷu tay! – Triều đình thương xót còn sống trở về, - Người thân cũ thương cảm ông già xấu xí. (c.5-8)
Chảy nước mắt được trao cho chức thập di, - Bị trôi dạt chia lìa (nay) được ơn dày của vua. – Cửa nhà nghèo dầu được trở về, - Vẫn chưa nỡ mở miệng đến gần! (c.9-12)
Viết thư hỏi ở vùng Tam Xuyên, - Không biết là (vợ con) ở nhà có còn không? - Đến khi nghe nói cùng chịu tai họa, - Đến cả gà chó cũng bị giết phanh thây! (c.13-16)
Căn nhà lợp mái tranh trong núi bị nước thấm dột, - Cửa nhà y nhu cũ, ai là người (còn) dựa vào cánh cửa sổ (của căn nhà)? – Rễ cây tùng xanh thẫm đã bị thương tổn suy tàn, - Đất đai lạnh lẽo ,xương cốt chưa bị mục nát. (c.17-20)
Bao nhiêu người (được) toàn vẹn tính mạng đây? – Hết cả nhà há mong trọn vẹn cùng nhau? – Vùng núi cao hiểm hóc có cọp dữ, - Ta quay đầu lại, nỗi uất ức kết tụ xông lên! – (c.21-24)
Tự mình gửi một lá thư niêm lại, - Nay đã mười tháng qua rồi! – Rất lo có tin tức đáng sợ đến trở lại, - Rốt cuộc có còn đâu nữa tấc lòng! (c.25-28)
Số phận nhà Hán mới bắt đầu hưng thịnh trở lại! – Suốt đời cho đến già rất vui thú uống rượu. – Thầm nghĩ việc vui thú lúc gặp mặt nhau. – E ngại làm với ông già cô độc khốn cùng! (c.29-32)

Tạm chuyển lục bát:

NỖI LÒNG.

Đồng Quan vỡ trận năm rồi,
Vợ con cách trở xa xôi lâu ngày.
Hè nay mọc khắp cỏ cây,
Thoát thân gặp lúc, phía tây chạy dài!
Chầu vua, mang chiếc dép gai,
Lộ ra hai khuỷu nơi tay áo sờn.
Trở về còn sống xót thương!
Ông già xấu xí, đau buồn người thân.
“Thập di” nhận chức, lệ dâng,
Chia lìa, vua đã ban ơn sâu dày.
Dù đi gặp lúc cửa sài,
Đành lòng chưa mở miệng ngay tức thời.
Tam Xuyên thư gửi thăm người,
Cửa nhà chẳng biết còn nơi chốn này?
Nghe tin gặp họa gần đây,
Đến loài gà chó phanh thây cả rồi!
Nhà tranh trong núi dột thôi!
Cửa nhà như cũ, ai người về nương!
Tùng xanh rễ nát tổn thương,
Đất đai lạnh lẽo, cốt xương chưa tàn.
Mấy người mạng sống vẹn toàn?
Tình cờ hết cả nhà yên dám nào!?
Nơi vùng hổ dữ núi cao,
Ta quay đầu lại hận sầu lại dâng .
Tự mình gửi một thư phong,
Đã sau mười tháng nay hơn nữa rồi!
Sợ cho tin tức trở lui,
Có còn chi nữa ở nơi tấc lòng!
Vận nhà Hán mới lên xong,
Lão thường vẫn thích rượu trong cuộc đời!
Nghĩ thầm sum họp thường vui,
Sợ làm ông lão đơn côi khốn cùng!

Chú thích:

** Sau việc tướng An Lộc Sơn nhà Đường bên Trung Hoa nổi loạn đem quân bao vây Đồng Quan lại vây hãm Trường An (755), Đường Minh Hoàng tức Đường Huyền Tôn phải bỏ kinh đo chạy sang đất Thục, Dương Quý phi bị binh tướng bắt phải tự ải tại Mã Ngôi Pha mới chịu tiến quân. Đỗ Phủ cũng đem gia quyến ở nhờ tại Bạch Thủy và Phu Châu. Rồi con của Huyền Tôn lên ngôi tại Linh Vũ ,Cam Túc hiệu là Túc Tông. Năm 756, An Lộc Sơn bị con là An Khánh Tự và đồng bọn giết chết tự lập làm vua.Tháng 2 năm 757, Đường Túc Tông dời sang Phụng Tường. Đỗ Phủ từ Trường An về đây xin chầu vua được ban chức Tả thập di chuyên việc can gián. Khi tướng Phòng Quan bị bãi chức ,ông can ngăn vua Túc Tông không nên loại bỏ người hiền tài khiến Túc Tông giân dữ đòi bãi chức. May nhờ tể tướng Trương Hạo hết lòng tâu lên vua ông mới được phục chức.... Bài thơ này ra đời trong hoàn cảnh khi mới trở về triều đình được ban chức Tả thập di....
- thuật hoài 述懷: thuật lại hay kể lại những nỗi niềm xảy ra trong lòng như nỗi nhớ nhung, những lo nghĩ hay những thao thức trong lòng. Gọi cho gọn là “nỗi lòng”...
- Đồng Quan 潼關: đây là một thành quan trọng nằm phía tây Trung Hoa lập ra năm 196 ở Hoa Âm ,phía tây ải Hàm Cốc nhằm ngăn chặn các đợt xâm lấn của các bộ tộc phía tây . Vị trí này bốn phía có nhiếu núi non và các con sông vây quanh rất hiểm yếu che chở cho các vùng Thiểm Tây ,Sơn Tây ,Hà Nam. Năm 755 ,tướng Kha Thư trấn giữ Đồng Quan đã bị An Lộc Sơn vây hãm và đánh bại.
- phá 破: tan nát, vỡ ra, rách nát, hư hỏng, bại trận, vỡ trận... ma hài: chiếc giầy, hoặc dép làm bằng sợi cây đay, cây gai có sợi...
- tuyệt cửu 絕久: rất lâu dài....
- y tụ 衣袖: tay áo...
- trửu 肘: khuỷu tay, cùi tay...
- mẫn sinh hoàn 愍生還: thương xót còn sống để trở về...
- thân cố 親故: người thân, người quen gần gũi cũ...
- thế lệ 涕淚: nước mắt nước mũi tuôn trào, chảy nước mắt...
- thập di 拾遺: chức quan gồm tả và hữu thập di chuyên việc can gián, đưa nhận xét giúp vua trong công việc triều chính...
- lưu ly 流離: trôi nổi xa quê nhà, chia cách với người thân...
- chủ 主: người đứng đầu, vua, chúa, người làm chủ...
- ân hậu 恩厚: ơn huệ được yêu mến giúp cho nhiều đãi ngộ trân trọng...
- sài môn 柴門: nhà lợp tranh đơn giản, cửa nhà làm bằng những thanh củi nhỏ, chỉ sự nghèo khó và cuộc sống giản dị...
- Tam Xuyên 三川: làng ở vùng Phu Châu là nơi vợ con Đỗ Phủ đang sinh sống.
- phủ 否: cách nói phủ nhận hay để hỏi: không, có không.
- ly họa 罹禍: gặp tai vạ hay chịu thảm họa...
- sát lục 殺戮: giết rồi phanh thây...
- đáo 到: đến cả, cho đến, đủ khắp, tới nơi...
- lậu mao ốc 漏茅屋: nước thấm dột từ mái tranh, mái cỏ căn lều hay căn nhà tranh (mao) nhỏ...
- phục 復: đi rồi trở về lại, báo đáp...
- y 依: vẫn còn y như cũ, dựa vào, nương nhờ, nghe theo....
- hộ dũ 戶牖: căn nhà có cửa sổ mở ra (dũ), nhà có cửa sổ....
- tồi đồi 摧頹: thương tổn, bẻ gãy, đổ nát, suy đồi, sa sút, rụng tàn, gió dữ ...
- hủ 朽: mục nát, già cỗi, không dùng được...
- kỷ nhân 幾人: bao nhiêu người, chữ “kỷ” thường đặt trong câu hỏi số lượng...
- tận thất 盡室: hết cả gia đình, hết cả nhà...
- khởi tương ngẫu 豈相偶: há là tình cờ cùng nhau (được an toàn- tiếp ý câu trên)...
- khâm sầm 嶔岑: núi nhỏ cao và hiểm trở...
- uất kết 鬱結: nỗi uất hận tức tối không tan, nỗi uất ức xông lên kết thành nỗi hận...
- phản úy 反畏: lo sợ sự quay trở lại...
- Hán vận 漢運: vận mệnh nhà Hán. Đỗ Phủ làm quan cho nhà Đường nên dùng chữ nhà Hán để ngụ ý. Mặt khác, người Trung Hoa nhiều thế hệ vẫn xưng là “Hán nhân 漢人”, xem nhà Hán là mẫu mực của nước Trung Hoa từ đó về sau...
- đam tửu 耽酒: mê rượu, vui thích khi uống rượu, rất vui với rượu...
- trầm tư 沉思: suy nghĩ âm thầm , âm thầm nghĩ đến... hay nghĩ ngợi...
- xứ 處: nơi, chỗ, ở, thường, khi, lúc, đặt để...
- khủng tác 恐作: e sợ làm...
- cùng độc tẩu 窮獨叟: ông già cô độc trong hoàn cảnh khốn cùng...

Bài 96

TẦN CHÂU TẠP THI KỲ NHỊ                                                秦州雜詩 期二

Tần Châu thành bắc tự,                                                              秦州城北寺,
Truyền thị Ngỗi Hiêu cung.                                                       傳是隗囂宮。
Đài tiển sơn môn cổ,                                                                  苔蘚山門古,
Đan thanh dã điện không.                                                          丹青野殿空。
Nguyệt minh thuỳ diệp lộ,                                                         月明垂葉露,
Vân trục độ khê phong.                                                              雲逐渡溪風。
Thanh Vị vô tình cực,                                                                清渭無情極,
Sầu thì độc hướng đông.                                                            愁時獨向東。
(759)

Dịch nghĩa:

Ngôi chùa nằm hướng bắc thành Tần Châu, - Được truyền tụng đúng
là cung của tướng Ngỗi Hiêu. – Rêu (bám) nhiều ở cửa núi cổ xưa, -(Chỉ còn) những nét vẽ nơi điện hoang tàn trống vắng. (c.1-4)
Trăng sáng nơi giọt móc sương của chiếc lá buông rủ, - Đám mây đuổi theo cơn gió vượt qua khe suối. – Con sông Vị trong trẻo hết sức hờ hững, - Đây là lúc nỗi sầu riêng nhắm hướng đông xuôi về!

Tạm chuyển lục bát:

BÀI THƠ LẺ LÀM Ở TẦN CHÂU (Bài 2)

Ngôi chùa phía bắc Tần Châu,
Truyền là cung điện của trào Ngỗi Hiêu.
Chùa non, cổng cũ đầy rêu,
Điện hoang nét vẽ hắt hiu lặng buồn!
Sáng trăng ngọn lá giọt sương,
Mây theo cùng gió vượt dòng suối tuôn.
Hững hờ sông Vị lắng trong,
Lúc sầu cô quạnh phía đông xuôi về.

Chú thích:

- Tần Châu 秦州: một vùng đất nhỏ thuộc tỉnh Cam Túc 甘肃, Trung Hoa. Đây là nơi từng có cung điện của Ngỗi Hiêu. (xem bên dưới)
- Ngỗi Hiêu cung 隗囂宮: cung điện của Ngỗi Hiêu. Ngỗi Hiêu (?-33) có tên tự là Quý Mạnh, người huyện Thành Kỷ, quận Thiên thủy, tỉnh Cam Túc.
Thời trẻ từng làm quan cho nhà Tân do sự tiến cử của tể tướng Lưu Hâm. Hâm mất, ông xin về quê nhà. Khi Dương Quảng, Chu Tông mưu tính khởi nghĩa giúp nhà Hán chống lại nhà Tân (đầu thời Đông Hán bên Trung Hoa), đã đề cử ông là người có tiếng tăm, hợp lòng dân chúng lên làm thủ lĩnh nghĩa quân. Ông là vị tướng giỏi cầm quân, từng giúp Lưu Quang Vũ tức Hán Quang vũ đế bình định các cuộc nổi dậy của những thủ lĩnh khác, được phong tước vương. Nhưng Ngỗi Hiêu luôn muốn có riêng một giang sơn cho mình. Nhiều lần Hán Quang Vũ đế nhà Hán và Công Tôn Thuật nhà Thục chiêu dụ, phong tước vương cho ông để lôi kéo về phe mình nhưng Ngỗi Hiêu đều tìm cách từ chốí.Có khi trong thế trận, ông chịu xưng thần với nhà Thục được phong Sóc Ninh vương. Con trai là Ngỗi Tuân phải chịu làm con tin bên nhà Hán để buộc ông theo về với họ.
Sau này con bị giết nhưng ông vẫn giữ ý định hùng cứ một phương vùng Lũng Tây. Về sau, trong nhiều trận đánh, quân lính chết nhiều ,quân lương thiếu thốn. Do bụng đói lại ăn loại đồ ăn cũ, ông bị sình bụng và mất năm 33 (SCN)....
- đài tiển: 苔蘚 rêu mọc đầy...
- đan thanh 丹青: những nét vẽ thanh tao đơn giản...
- dã điện không 野殿空: cung điện hoang tàn (dã) trống vắng quạnh hiu (không)...
- thùy diệp lộ 垂葉露: sương móc cũng như nước từ lá cây rỉ ra chảy xuống đầu lá thành giọt móc(lộ) và làm cho lá buông rủ xuống(thùy)...
- trục 逐: cùng theo nhau, đuổi theo nhau, đi tìm, tranh giành, dần dần...
- Vị 渭: con sông Vị hay Vị Hà 渭河 hoặc Vị Thủy 渭水 là một trong những con sông đầu nguồn chảy vào Hoàng Hà ở tỉnh Cam Túc 甘肅 bên Trung Hoa...
- vô tình cực 無情極: rất đỗi hững hờ, khá là thờ ơ, không cần để ý đến tâm tình người khác...
- sầu thì 愁時: nỗi sầu lúc này, buồn sầu lúc bấy giờ...

Bài 97

TẦN CHÂU TẠP THI                                                             秦州雜詩
KỲ THẬP CỬU                                                                         期十九

Phụng Lâm qua vị tức,                                                               鳳林戈未息,
Ngư Hải lộ thường nan.                                                             魚海路常難。
Hậu hoả vân phong tuấn,                                                           候火雲烽峻,
Huyền quân mạc tỉnh can.                                                          懸軍幕井幹。
Phong liên tây cực động,                                                            風連西極動,
Nguyệt quá bắc đình hàn.                                                           月過北庭寒。
Cố lão tư phi tướng,                                                                   故老思飛將,
Hà thời nghị trúc đàn?                                                                何時議築壇?
(năm 759)

Dịch nghĩa:

Vùng Phụng Lâm giáo mác (chiến tranh) vẫn chưa ngưng lại! – Đường đi Ngư Hải thường khó khăn! - Tình hình khói lửa cấp báo ở đỉnh núi cao, - Quân lính đóng ở vùng sa mạc xa xôi, giếng nước đã khô hạn. (c.1-4)
Gió liên tiếp từ phía tây lay động mạnh mẽ! – Vầng trăng đi qua mạn phía bắc (biên giới) rộng lớn lạnh lẽo. – Ông già xưa nghĩ đến Phi tướng (biệt danh của tướng Lý Quảng), - Bao giờ sẽ bàn chuyện đắp đất xây đàn cúng tế?! (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

BÀI THƠ LẺ LÀM Ở TẦN CHÂU (Bài 19)

Phụng Lâm giáo mác chưa ngừng!
Đường đi Ngư Hải vẫn thường gian nan.
Tình hình lửa khói đỉnh non,
Giếng khô sa mạc,quân đồn xa xăm.
Gió tây nối tiếp mạnh căng,
Vùng biên phía bắc lạnh tràn trăng qua.
Nhớ ông Phi Tướng, già xưa
Dựng đàn bàn bạc bao giờ đắp xây?

Chú thích:

- Phụng Lâm 鳳林: thuộc vùng Cam Túc bên Trung Hoa, nơi vẫn thường có các bộ tộc vùng biên giới qua đánh phá - qua vị tức 戈未息: qua: chỉ chung giáo mác,đao kiếm là hình ảnh của chiến tranh vẫn chưa chấm dứt (vị tức).
- hậu hỏa vân phong tuấn 候火雲烽峻: ngày xưa bên Trung Hoa, các thành trì nơi quan ải xa xăm hay những nơi hẻo lành hiểm trở có núi cao thường làm “phong hỏa đài” để khi có giặc đến đốt lửa xông khói un lên để cấp báo cho các thành xa biết tiếp ứng...Hậu hỏa vân 候火雲: tình thế (hậu: tình hình, khí hậu, thăm dò, chờ chực, xem xét, hầu hạ, tiếp đón...) phải dùng đến lửa khói (hỏa vân) để báo tin gấp nhờ tiếp ứng cho đồn quân; phong tuấn 烽峻: đốt lửa làm hiệu (phong) để báo tin gấp có giặc xâm lấn ở những đài đặt trên núi cao cho dễ thấy (tuấn)
- huyền quân 懸軍: quân đóng đồn ở những vùng xa xôi cách trở (huyền 懸: cách xa, treo lơ lững, dở dang, sai biệt, không thật...)
- mạc 幕: sa mạc, lều bạt, trướng che, màn che, khai mạc, che phủ...
- tỉnh can 井幹: giếng nước bị khô hạn...
- phong liên 風連: gió thổi liên tiếp ,gió thổi nối nhau... Đây chỉ những đợt quân Hung Nô liên tiếp tấn công vùng biên giới phía bắc Trung Hoa...
- cực động 極動: chuyển động,lay động mạnh mẽ tột cùng...
- đình 庭: sân trước, chỗ trống trải rộng rãi trước nhà. Ở đây đình là biên đình 邊庭, là vùng biên giới (phía bắc). Đỗ Phủ 杜甫 trong bài thơ “Binh xa hành 兵車行” có câu: ”Biên đình lưu huyết thành hải thủy 邊庭流血成海水“ (Nơi biên giới máu đã chảy thành biển nước!)
- Phi Tướng 飛將: hay nói đầy đủ là Phi Tướng Quân 飛將軍, một biệt danh mà các tướng lĩnh và quân lính ca ngợi tướng Lý Quảng 李廣 (?-119 TCN), người vùng Thành Kỷ, Lũng Tây (nay là Cam Túc), một danh tướng dưới thời Hán Quang Vũ đế bên Trung Hoa, rất giỏi cưỡi ngựa và bắn tên trong chiến trận. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên, Lý Quảng rất nhiều lần ra trận để chống lại với quân Hung Nô, lập được nhiều chiến công. Hung Nô hay Thiền Vu là một bộ tộc giỏi cưỡi ngựa bắn tên và thường vào vùng Lũng Tây cướp phá. Quảng là tướng dưới quyền của Vệ Thanh 軍衛. Trong một lần đem quân đi đánh Hung Nô, Vệ Thanh đã cắt cử toán quân của Lý Quảng đi theo một hướng khác khiến ông đi lạc đường nên tập họp quân với Vệ Thanh chậm trễ để cho quân Hung Nô có cơ hội thoát khỏi cuộc tiến quân bao vây của Vệ Thanh. Thanh và các bộ tướng của y gây khó dễ khi đem ông ra xét xử trong quân. Lý Quảng cảm thấy mình bị sĩ nhục nên cắn lưỡi tự sát (119 TCN)....
- nghị 議: bàn bạc, thảo luận, thương nghị, bình luận, chê bai, kén chọn....
- trúc đàn 築壇: lấy đất ép chặt ,xây dựng (trúc) nên một đài trên bệ cao (đàn) dùng để cúng tế. Đây chỉ việc thời Hán Cao Tổ đã lập đàn cúng tế và ăn chay để phong chức cho Hà Tín giự chức đại tướng quân

(Lần đến: THƠ CỦA ĐỖ PHỦ- Bài 98, 99 và 100)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét