Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy, Cô, quý anh chị Đồng Môn và quý Thân Hữu
Bài ĐÂY THÔN VĨ DẠ, tác giả giáo sư Lê Đình Thông. Lịch sử bài thơ Đây Thôn Vĩ của Hàn Mạc Tử. Sưu tầm do giáo sư Trần Năng Phùng chia sẻ. Xin cám ơn giáo sư Lê Đình Thông và giáo sư Trần năng Phùng rất nhiều.
Trân trọng giới thiệu.
NHHN
78 NĂM ‘‘ĐÂY THÔN VĨ DẠ’’
GS.Lê Đình Thông
Tuổi đời của ‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’ cũng xấp xỉ 80. Theo Nguyễn Bá Tín, vào năm 1939, cô Hoàng Thị Kim Cúc gửi từ Huế cho Hàn Mặc Tử tấm hình nàng mặc áo lụa trắng, chụp ở thôn Vĩ. Nhà thơ đáp lễ bằng bài thơ ‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’ làm theo thể thơ mới 7 chữ, gồm ba khổ. Khổ đầu hiệp vận gián cách, khổ 2 và 3 : gieo vần cuối câu đầu và cuối các câu chẵn. Cách bố cục khá chặt chẽ, giống như thơ Đường : Khổ 1 phá đề và thừa đề, khổ 2 : thực luận, khổ 3 : kết lại cả bài. Bài thơ được coi là một tuyệt tác của phong trào thơ mới. Sau đây, chúng tôi ghi lại một số cảm nhận vụn vặt, riêng tư về bài thơ.
Trước khi nói về tác phẩm, thiết tưởng cũng nên nói khái quát về thơ. Poetry/poésie trong các ngôn ngữ tây phương do cổ ngữ hy lạp ποίησις hoặc động từ ποιεῖν đều có nghĩa là sáng tạo. ‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’ đổi mới không những về ngôn ngữ, mà còn vẽ nên bức tranh quê, điểm xuyết bằng nốt nhạc sầu. Với bài thơ này, Hàn Mặc Tử không chỉ là thi nhân mà còn là họa sĩ nữa. Nào ta cùng thưởng ngoạn bức tranh của Hàn Mặc Tử, trước khi trở về với cõi thơ.
Khổ 1 là bức tranh màu xanh, khiến ta liên tưởng bức họa Le Paysage Bleu của Marc Chagal. Màu xanh trong khổ đầu là toàn bích, vì có ‘‘nắng lên’’ từ biển Đông. Nhà danh họa Caspar David Friedrich (1774-1840), khuynh hướng hội họa lãng mạn, dùng chất liệu ‘‘nắng mới lên’’ (les rayons naissants du soleil) để thực hiện bức vẽ sơn dầu ‘‘Thiếu phụ Nắng sớm’’ (Femme au soleil du matin). Trong thơ Hàn Mặc Tử, thiếu phụ nắng sớm hóa thân Hoàng Cúc. Nắng sớm là ánh sáng tâm lý, nói lên niềm ước mong mới mẻ. Nắng sớm còn được thể hiện trong hội họa, bảng màu (palette) pha trộn màu phấn vương nhẹ. Nắng chuyển màu sắc sáng dần. Với câu 3, ta có thang màu lũy tiến (échelle de couleur progressive) như sau :
mướt → xanh → ngọc
Màu xanh ngọc bích là tuyệt phẩm của trời đất ban cho cõi nhân gian ở thôn Vĩ Dạ. Trong bức họa, Hàn Mặc Tử vẽ hàng cau theo chiều dọc. Bố cục họa phẩm còn cần thêm một chiều ngang. Vì vậy mới có câu thơ : lá trúc che ngang. Che ngang cho thấy người thiếu nữ e ấp, núp sau cành trúc, có khuôn mặt chữ điền. Đây cũng là một nét chấm phá mới, vì sau hai chiều dọc - ngang, còn cần thêm một hình vuông nữa. Theo quan niệm của người xưa, người con gái có khuôn mặt chữ điền thường đoan trang, thùy mị. Qua câu thơ, Hàn Mặc Tử muốn phác họa nét tinh anh (portrait moral). Khổ 3 có thêm vầng trăng là tuổi trăng tròn của thiếu nữ.
Khổ thơ thứ 2 không còn nắng lên, mà là màn đêm buông xuống ; gió và mây chia lìa hai lối khiến dòng nước buồn lây, hoa bắp lay động ngẩn ngơ. Bến sông Trăng (viết hoa) là bến ngự, niềm mong ước chở trăng hẳn là dang dở, chỉ hoài công dã tràng.
Trong khổ 3, bảng màu chuyển qua sắc trắng của tà áo. Nếu trong khổ 1, màu sắc là lũy tiến gồm 3 cấp độ, bảng màu của khổ 3 vẫn gồm 3 cấp độ, nhưng cứ nhạt dần đi :
Sương <- Khói <- Mờ
Màu sương tuy đục nhưng còn thấy được. Đến làn khói bay đã là hư ảo. Sau cùng chỉ còn là đám bụi mờ.
Với bức họa chuyển cảnh từ nắng sớm đến đêm tàn, ta tạm khép lại mảng hội họa trong thơ Hàn Mặc Tử đế bước qua lãnh vực ngôn ngữ.
Trước hết là cơ cấu của bài thơ (structure du poème). Bài thơ gồm 3 khổ. Cơ cấu như sau :
(khổ 1) : thực → (khổ 2) : mộng → (khổ 3) : ảo
Ba khổ thơ là sự chuyển biến từ thực đến mộng, từ động đến tĩnh, từ ngoại cảnh đến nội tâm, được diễn tả bằng màu sắc, thanh âm, bằng ngôn ngữ và bằng cả các dấu chấm (ponctuation).
Về mặt hội họa, trong mỗi khổ thơ, thi nhân chọn cho mình ba thang màu (gamme de couleurs) khác nhau. Về cách chấm câu, ba khổ thơ là ba dấu hỏi :
- Khồ 1 (câu 1) : Sao anh không về thăm thôn Vĩ ?
- Khổ 2 (câu 4) : Có chở trăng về kịp tối nay ?
- Khổ 3 (câu 3) : Ai biết tình ai có đậm đà ?
Ta sẽ bàn cách sử dụng từ ngữ (champs lexicaux) của nhà thơ. Ở đây, có thể đặt chung một câu hỏi cho cả ba vế nói trên: thi nhân hỏi mà không phải là hỏi. Các câu hỏi chỉ nói lên sự trăn trở, khắc khoải của ‘‘khách đường xa’’.
- Câu hỏi trong khổ đầu : tuy vẫn biết thôn Vĩ là thiên thời (nắng mới lên), là địa lợi (vườn cau), có cả nhân hòa (mặt chữ điền), nhưng làm sao nhà thơ có thể bỏ trại phong để về thăm ?
- Vầng trăng trong khổ 2 là ảo ảnh, không khác gì vầng trăng Lý Bạch:
Rằng hay thì thật là hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.
- Cuối khổ 3 chỉ còn là nghi vấn. Trong khổ cuối, nhà thơ thổ lộ nỗi buồn đau, thất vọng. Musset cho rằng ‘‘Sự thất vọng chua cay nhất là bài ca đẹp tuyệt vời’’.
‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’ còn là lưu thủy hành vân của cổ ca đất Thần Kinh. Bài thơ Art poétique của Verlaine mở đầu bằng đôi vần thơ nói lên nghệ thuật thi ca :
De la musique avant toute chose,
Et pour cela préfère l'Impair.
Et pour cela préfère l'Impair.
Đây Thôn Vĩ Dạ hội đủ hai yếu tố vừa kể. Cũng vì thơ vần lẻ, Đây Thôn Vĩ Dạ là bài thơ 7 chữ (lẻ), 3 khổ (lẻ).
Còn về nhạc tính (musicalité) thì sao ? Sau đây là mấy vần thơ, như những nốt nhạc, trong bài Đây Thôn Vĩ Dạ :
- nắng / nắng :
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
- gió / gió, mây / mây :
Gió theo lối gió, mây đường mây.
- lối / đường :
Gió theo lối gió mây đường mây.
- Trăng (viết hoa) / trăng :
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
- Khách đường xa / khách đường xa :
Mơ khách đường xa khách đường xa
- ai / ai / ai :
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó
Ai biết tình ai có đậm đà.
Về thể văn (style), nhà thơ sử dụng nhiều ẩn dụ (métaphore) : mây và gió chia lìa hai lối, dòng nước để chỉ sự vô thường, con thuyền là chữ tâm (心: ngoài ba chấm, phần còn lại giống như con thuyền), hoa bắp lay vì ‘‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’’, nhân ảnh nói lên kiếp sống phù du, ‘‘mờ mờ nhân ảnh’’.
Ngôn ngữ trong bài thơ đều rất quen thuộc. Đây cũng là dụng ý của nhà thơ, muốn diễn tả cái đẹp chỉ bằng nét hồn nhiên, giản dị. Trong 12 câu thơ, tác giả dùng chữ ‘‘anh’’ và chữ ‘‘em’’, mỗi chữ một lần. Câu thơ cuối bài, tác giả viết hai lần một chữ ai:
Ai (1) biết tình ai (2) có đậm đà ?
Thông thường, ai (1) là thiếu nữ, ai (2): thi nhân. Nhưng ai (1) cũng thể là người xem thơ, ai (2) là nhà thơ. Nếu thời gian của ý nghĩa nguyên thủy là hiện tại, thời gian của sự suy diễn sau này hướng về tương lai. Ai cũng biết ý tứ trong thơ Hàn Mặc Tử bóng bẩy mà thâm trầm, giản dị mà sâu thắm. Sự đậm đà của bài thơ gợi ý cho chúng tôi làm 5 bài thơ lấy ý từ lau sậy, vì thôn Vĩ Dạ là sự biến âm của Vi Dã Thôn. Hình thức của cả 5 bài là thơ mới 7 chữ. Cấu trúc vẫn gồm 3 khổ, mỗi bài khai triển ý nghĩa khác nhau của lau lách. Năm bài thơ nói lên sự ‘‘đậm đà’’ của người thơ, nét phong phú của ý thơ, thể hiện qua bài Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. Năm bài thơ, như 5 biến điệu (variation) trong âm nhạc, như sau :
Paris, tiết Thanh minh Đinh dậu 2017
GS.Lê Đình Thông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét