Thứ Hai, 2 tháng 9, 2019

Nếu Như Ngày Ấy...

GIỚI THIỆU
Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy, Cô, quý Đồng Môn và Thân Hữu
Câu chuyện NẾU NHƯ NGÀY ẤY của CHS Liên Trường Phú Yên Lê Đức Luận.
Bài viết biên soạn rất công phu, tuy khá dài nhưng rất sâu sắc, chí tình. Nếu như  'Phía Bên Kia' sau khi chiếm được Miền Nam Việt Nam (VNCH) thực hiện chính sách như sự mong muốn của tác giả thì dân tộc Việt Nam sau ngày "thống nhất" đã hết điêu linh, người dân hết thống khổ, được hưởng tự do, hạnh phúc. Đây chỉ là "giấc mơ", không bao giờ trở thành hiện thực, vì cộng sản lúc nào cũng là cộng sản.
Trân trọng,
NHHN



NẾU NHƯ NGÀY ẤY...
Lê Đức Luận


Tôi trở thành người bạn vong niên của ông Tư từ mấy năm nay. Tôi với ông Tư hợp nhau ở chỗ là không thích nhậu nhẹt, chỉ nhâm nhi cà phê, nước trà… ngồi lại với nhau trao đổi những kiến thức và kinh nghiệm sống ở đời. 

Ông Tư tuy đã gần tám mươi tuổi, nhưng trí nhớ của ông tuyệt vời – Ông kể những sự tích trong truyện Tàu thời Xuân Thu (771 – 476 trước CN) và thời Chiến Quốc (403-221 trước CN). Ông thường bàn về cách xử thế, những mưu lược của người xưa dù cách nay đã trên năm thế kỷ trước Công nguyên vẫn còn để cho người đời nay suy ngẫm và áp dụng. Ông bảo đó là một phần “túi khôn” của nhân loại. Ông cũng kể những chuyện vui buồn, vinh nhục trong gần tám mươi năm hiện hữu trên đời.

Còn tôi kể những chuyện thời sự nóng bỏng, chuyện tiến bộ về khoa học - kỹ thuật, chuyện lạ bốn phương qua những lần du lịch, chuyện vui buồn “trong nhà ngoài phố”.

Cứ thế, đôi bạn vong niên chuyện trò với nhau quên hết thời gian, vài tuần không gặp lại thấy nhớ.

Sáng nay, đến thăm ông Tư, thấy ông có vẻ buồn, tôi hỏi: “Hôm nay trông anh có vẻ không vui ?” “Ờ, tôi mới đọc câu chuyện: ‘Giòng Lệ Khô Của Người Vợ Lính’ của bà Giao Kim Kiều và chuyện ‘Cái Chết Trong Lao Tù Của Cựu Trung Tá Ngô Hoàng’ của ông Trần Kim Khôi đăng trên Đặc San Ức Trai - Kỷ niệm 50 năm ngày ra trường của mấy ông SVSQ/ĐH CTCT/ĐL – làm tôi cảm thấy buồn – không những buồn cho số phận của những người vợ lính, của những người phục vụ trong chế độ cũ mà buồn cho thân phận của cả một dân tộc.

Ông Tư ra chiều tư lự, nói tiếp: “Phải chi ngày ấy – Ngày 30-4-1975- ‘phía bên kia’ có một người biết suy nghĩ và hành động như Tướng Ulysses Simpson Grant, Tư lệnh quân miền Bắc trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ (American Civil War 1861-1865)  thì tránh biết bao cảnh tang thương và chúng ta không phải hổ thẹn trước những lời bình phẩm của thế giới văn minh rằng ‘dân Việt Nam còn bán khai, mọi rợ’ vì những việc làm tàn ác, đốn mạc của những người ‘phía bên kia’ đối với sĩ quan, công chức của chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong các trại tâp trung cải tạo .

“Tôi nói là ‘phía bên kia’ chứ không  dùng chữ ‘bên thắng cuộc’ như cái thằng bố láo Huy Đức - hắn chưa đọc hết lịch sử cuộc chiến tranh Việt Nam mà chỉ có cơ hội được gần gũi phỏng vấn các tên đầu lãnh bên này, bên kia để viết những chuyện có vẻ ‘thâm cung bí sử’ rồi đặt tên sách:‘Bên Thắng Cuộc’. Vậy mà có một lúc chữ này trở nên ‘thời thượng’ được một số người dùng để xác định bên thắng, bên thua.

“Ông nên nhớ rằng: Cuộc chiến tranh lần thứ hai kéo dài gần hai mươi năm trên quê hương chúng ta giữa những người theo chủ nghĩa Quốc gia-Dân Tộc và những người theo chủ nghĩa Cộng sản đã đánh nhau đến trời long đất lở, gây cảnh huynh đệ tương tàn. Cuối cùng tất cả đều THUA - Nước Việt Nam thua – Dân tộc Việt nam thua. ‘Bên Thắng Cuộc’ là Tàu và Mỹ.

“Đọc lịch sử ta thấy trên thế giới có nhiều cuộc chiến tranh đã xảy ra: Có sự phân  chia lãnh thổ, có hiệp ước hòa bình, có cách thức chấm dứt chiến tranh và giải quyết các vấn đề thời hậu chiến. Mỗi một cuộc chiến tranh đều có một tên gọi để xác định nguyên do và mục đích của nó. Riêng cuộc chiến tranh Việt nam thì rất nhiều tên gọi: Cuộc chiến ý thức hệ, cuộc chiến tranh ủy nhiệm, cuộc nội chiến, cuộc chiến tranh xâm lược, cuộc chiến tranh giải phóng v…v… mà mỗi người đứng ở góc nhìn của mình trong từng thời điểm để xác định một trong các ‘tên gọi’ nêu trên đều không sai.

“Nhưng tổng thể và đứng trên tinh thần Dân tộc Việt nam thì không có tên gọi nào đúng cả. Phải nói đó là một cuộc ‘chiến tranh phi nghĩa’ - một cuộc chiến tranh ‘không cần thiết’ cho đất nước và dân tộc Việt nam, nhưng hệ lụy của nó là những tai họa vô lường còn lưu lại đến ngày nay và có thể còn kéo dài trong nhiều thế hệ mai sau trên đất nước thân yêu của chúng ta.

Ông Tư nhấp một một ngụm cà phê rồi tiếp tục nói như một một giáo sư đang giảng bài lịch sử thế giới:

“Xem cuộc Nội chiến Hoa kỳ có nhiều điều khiến ta suy ngẫm: Sau khi ông Abraham Lincoln đắc cử Tổng Thống muốn xóa bỏ chế độ nô lệ để thể hiện tinh thần đạo đức và nhân bản trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ (ngày 4 tháng 7 năm 1776) rằng: ‘Mọi người sinh ra đều bình đẳng, họ được Tạo hóa ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc’. Nhưng điều đó gây bất lợi cho các chủ nông trại, chủ đồn điền người da trắng ở miền Nam vì mất lao động nô lệ trong ngành trồng cây bông vải, nên 11 Tiểu bang miền Nam tuyên bố ly khai khỏi chính phủ Liên bang. Như vậy là có sự mâu thuẫn quyền lợi giữa các Tiểu bang miền Bắc và miền Nam - Cuộc chiến tranh bùng nổ.

“Cuộc nội chiến kéo dài 4 năm. Liên quân miền Bắc thắng trận. Sự thống nhất đất nước để xây dựng một quốc gia hùng mạnh và bảo vệ lý tưởng cao cả trong Bản Tuyên ngôn Độc lập là mục đích, là nhu cầu tối thượng của toàn thể nhân dân Mỹ. Cho nên sau khi bại trận, những chủ nô da trắng Miền Nam đã đồng lòng hợp lực cùng miền Bắc xây dựng  Quốc gia. Họ đã thiết lập một thể chế dân chủ - ‘một chính quyền của dân, do dân, vì dân’- Nhờ đó mà Hoa Kỳ đã được cường thịnh như ngày nay.  

“Điều tôi muốn nói với ông là xem cách kết thúc chiến tranh và giải quyết các vấn đề thời hậu chiến của những người văn minh, quân tử.

- Xem cách nguời Mỹ kết thúc chiến tranh:

Khi Tướng Robert E Lee, Tư lệnh quân miền Nam quyết định đầu hàng quân miền Bắc. Ông viết lá thư riêng gởi cho Tướng Ulysses Simpson Grant - Tư lịnh lực lượng Liên quân miền Bắc - yêu cầu thu xếp cuộc họp mặt. Tướng Grant nhận được thư hết sức vui mừng và bỗng nhiên thấy hết cơn bịnh nhức đầu ghê gớm đã hành hạ ông.

Trưa ngày 9-4-1865, Tướng Lee cùng một Đại tá tùy viên cỡi ngựa vượt qua phòng tuyến đến điểm hẹn tại làng Appomattox Court House, Virginia. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của lính miền Bắc thổi kèn đón chào. Vị tư lịnh miền Bắc (thắng trận) đã ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc không được tỏ ra hành vi vô lễ với vị tướng tư lệnh miền Nam bại trận.

Nửa giờ sau, tướng Grant và đoàn tùy tùng đến. Hai người ngồi trong phòng khách của ông Mc Lean hàn huyên thân mật, nhắc lại những kỷ niệm trong cuộc chiến tranh Mexico. Câu chuyện kéo dài đến nỗi tướng Lee sốt ruột, phải ngỏ lời trước để đề cập đến mục đích của cuộc gặp mặt là bàn về việc đầu hàng (sau này khi đắc cử Tổng Thống thứ 18 của Hoa Kỳ- từ năm 1869 đến năm 1877- ông Grant tâm sự: Lúc đó, ông không biết mở lời với tướng Lee như thế nào – ông rất ngại và hổ thẹn nói đến chữ đầu hàng).  Theo yêu cầu, tướng Grant lấy bút viết những điều thỏa ước: ‘Quân lính miền Nam phải giải giới – tước bỏ khí giới và quân dụng- Không bị coi là phản quốc và được trở về nguyên quán sinh sống như người dân bình thường’. Ông trao cho tướng Lee xem. Mặt tướng Lee tươi hẳn lên và phát biểu: - Như vậy là tốt cho mọi người, nhưng thêm hai yêu cầu: - Cho phép binh lính miền Nam mang lừa ngựa về để sử dụng trong nông trại vì đây là tài sản riêng của họ đã mang theo khi gia nhập quân đội. Điều thứ hai là xin cung cấp lương thực cho hơn một ngàn tù binh miền Bắc ông đang giam giữ. Họ cũng như các binh sĩ của ông đang đói.

Tướng Grant đồng ý. Riêng yêu cầu thứ hai, tướng Grant ra lịnh xuất ngay 25.000 khẩu phần ăn. Tướng Grant hỏi: Như vậy, đủ chưa?. Tướng Lee trả lời: Thưa Đại tướng, như vậy là quá đủ. 

Nói xong tướng Lee đứng dậy bắt tay tướng Grant, chào mọi người rồi bước ra khỏi phòng họp. Bên ngoài các sĩ quan, binh sĩ miền Bắc đều đứng nghiêm đưa tay chào kính cẩn.

Sau này, khi nói đến cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, người ta thường bảo: “Văn bản đầu hàng là một thõa hiệp của những người quân tử - The Gentlemen’s Agreement”.

Cách hành xử và những câu nói của tướng Grant và hình ảnh của tướng  Lee thể hiện khí phách anh hùng dù bại trận như một huyền thoại…

- Bây giờ ta xem cách người Mỹ giải quyết các vấn đề thời hậu chiến:

Khi hay tin miền Nam đầu hàng, quân sĩ miền Bắc định bắn đại pháo chào mừng. Tướng Grant ra lịnh ngưng ngay và huấn thị cho các sĩ quan dưới quyền: ‘Chiến tranh đã kết thúc, giờ đây họ là đồng bào của chúng ta, chúng ta không nên reo mừng trên nỗi đau của họ’ – ‘Hai bên không còn là kẻ thù’.

Người ta cũng không quên một câu chuyện thể hiện nhân cách của những người quân tử: Tướng Joshua L. Chamberlain  của miền Bắc được chỉ định tiếp nhận binh sĩ miền Nam qui hàng đã phát biểu: ‘Giờ phút đó làm tôi xúc động thực sự… Đối với chúng tôi, họ là những chiến binh bại trận nhưng can trường và là biểu tượng cho tinh thần trượng phu… Không có lý do gì để những đấng nam nhi ấy không được hội nhập vào Hiệp Chủng Quốc vững vàng của chúng ta’.

Sau này tướng Gordon, một vị tướng giỏi của quân miền Nam thua trận đã ghi lại: ‘Trong giây phút đó không hề có một tiếng kèn, tiếng trống, không tiếng reo mừng, không một lời nói ngay cả tiếng thì thầm – Không! Tất cả đều im lặng! Ông Chamberlain là người sĩ quan hào hiệp nhất của quân đội miền Bắc’.

Tinh thần đó đã gieo vào lòng người Mỹ qua bao thế hệ rằng: ‘Một người Mỹ bị sỉ nhục, dù miền Bắc hay miền Nam, dù kẻ thắng hay người thua đều là người Mỹ bị sỉ nhục’. Nhờ vậy mà khi Tổ quốc lâm nguy, người Mỹ đã cùng đứng lên chung vai sát cánh bảo vệ Tổ quốc và danh dự của người Mỹ làm cho thế giới nể nang, kẻ thù khiếp sợ.

Bằng chứng là qua vụ ‘9/11’ – 90% dân Mỹ ủng hộ Tổng thống George W. Bush và cùng vị lãnh đạo của mình quyết tâm tiêu diệt quân thù.

Sau chiến tranh, họ không bàn ai chính nghĩa, ai không – ai thắng, ai thua mà chỉ nghĩ : Làm sao hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng đất nước.

Tài sản của những người miền Nam được bảo vệ (chỉ không còn sở hữu lao động nô lệ miễn phí) . Dân miền Nam tiếp tục phát triển nông trại, đồn điền của mình.

Cứ hỏi những người quản thủ Thư viện - Bảo tàng viện được xây dựng khắp miền Đông Nam Hoa Kỳ (có đến hằng trăm ‘Bảo tàng viện đầu hàng’) họ sẽ nói: ‘Lịch sử không muốn ghi lại các hình ảnh xấu xa của bất cứ phe nào’. Đặc biệt hình ảnh của phe bại trận được lưu ý. – Lá cờ rách của miền Nam thua trận treo tại Thủ đô Richmond trong ngày tàn cuộc chiến, bây giờ trở thành bảo vật hào hùng của Bảo Tàng Viện Đầu Hàng. Tại đây hình ảnh, tượng đài, những câu chuyện về vị tướng thua trận – Robert E Lee - được viết ra và được chiêm ngưỡng còn nhiều hơn cả phe thắng trận.

Các nghĩa trang dành cho liệt sĩ bắt đầu được dựng lên cả hai miền Nam Bắc đều trang trọng ngang nhau. Ở miền Nam có hằng ngàn nghĩa trang lớn nhỏ chôn cất tử sĩ phe bại trận, trên đó luôn có lá cờ ‘gạch chéo’ của miền Nam.

Nước Mỹ có nghĩa trang nổi tiếng Arlington. Các liệt sĩ miền Nam cũng được đưa vào cải táng một khu đặc biệt gọi là Confederate Memorial, Arlington. Trên đỉnh tượng đài là hình ảnh bà mẹ có con trai trong phe bại trận đã hy sinh trong cuộc chiến, dưới chân tuợng đài có bài thơ (tạm dịch tiếng Việt) đại ý như sau: “Ở đây chẳng có vinh quang hay tưởng lệ/ Ở đây chẳng phải binh đoàn hay cấp bậc/Ở đây chẳng có tham vọng hay mưu cầu/ Ở đây chỉ đơn thuần là nhiệm vụ/Những người nằm ở đây đã hiểu rõ/ là họ trải qua gian khổ, đã hy sinh/đã liều thân và sau cùng đã chết”.

Những con người quân tử đã cho ta thấy thế nào là cách hành xử văn minh, nhân bản. Đó là nguồn cảm hứng bất tận cho phim ảnh, hội họa, văn chương … Tiêu biểu là tác phẩm bất hủ: Cuốn Theo Chiều Gió ( Gone with the Wind, tác giả Margaret Mitchell, xuất bản năm 1936 – được nhiều lần quay lại thành phim)- một bộ tiểu thuyết ‘tình cảm, lịch sử’viết về những việc xảy ra trong thời kỳ nội chiến và thời kỳ tái thiết. Đó cũng là niềm hãnh diện cho con dân Hoa Kỳ mỗi khi nhắc nhớ đến cách hành xử của cha ông họ trong cuộc Nội chiến và đã để lại cho hậu thế một bài học làm người văn minh và làm người quân tử…

Ông Tư ngừng một chút, rồi nói tiếp: “Kết thúc cuộc Nội chiến Hoa kỳ là thế, còn kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam thì sao? Ông vừa là nạn nhân vừa là chứng nhân, tôi không phải dài dòng những chuyện trong trại tù cải tạo – nghe nhiều rồi, cũng có nhiều sách báo viết ra rồi. Ông chỉ nhớ câu nói của Phạm Văn Đồng, Thủ tướng chính phủ miền Bắc: ‘Cho chúng nó vào nơi rừng sâu, nước độc, làm nhiều, ăn ít rồi chúng nó sẽ chết dần chết mòn, chớ có giết chúng nó hằng loạt sẽ bị thế giới lên án’ là đủ thấy sự tàn độc của chế độ cộng sản.

“Nhiều tài liệu ghi lại những chi tiết đã xảy ra trong ngày 30-4-1975 - Ngày chính thức chấm dứt cuộc chiến hai mươi năm -  đã thể hiện cách đối xử tồi tệ của những người man rợ: Trong khi  TT Dương Văn Minh và Nội các của ông ngồi trong Dinh Độc lập chờ phía bên kia vào làm lễ bàn giao thì bên ngoài xe tăng uĩ sập cổng chính Dinh Độc lập, một nhóm người có trang bị vũ khí cá nhân tiến vào Dinh gặp TT Dương Văn Minh. Tên Chính ủy Bùi Văn Tùng nói với TT Dương Văn Minh: ‘Ông không còn gì để bàn giao, ông chỉ có thể đầu hàng vô điều kiện’. TT Dương Văn Minh bị áp tải sang Đài phát thanh đọc lịnh đầu hàng đã được viết sẵn. Còn Nội các của ông bị giam lỏng trong Ding Độc lập.

Ông xem thái độ và cách hành xử của bọn Việt cộng với TT Dương Văn Minh rồi thử đặt cho nó một cái tên. Riêng tôi thì gọi đó là cách kết thúc chiến tranh của những con người‘man rợ, tiểu nhân, hèn hạ”. Tôi nói như thế ông thấy có quá đáng lắm không?

Không đợi tôi trả lời, Ông Tư tiếp tục: “Bất hạnh cho đất nước và dân tộc chúng ta bị một lũ người thiển cận, tham lam nhân danh này nọ để giành ‘độc quyền yêu nước’ làm cho Việt Nam mất nhiều cơ hội bằng vàng để xây dựng đất nước. Ông biết không, ngày mà quân cộng sản Bắc Việt tiến chiếm Sàigon, Kissinger đã vui mừng giơ hai ngón tay và nói: ‘Chúng ta đã chiến thắng rồi’ -  Chiến thắng vì Mỹ ‘xù’ 3 tỷ 2 bồi thường chiến tranh cho Việt Nam.

“Nếu như ngày ấy, Việt cộng cứ từ từ... Mỹ đã bắt tay với Trung cộng, cắt hết viện trợ cho Miền Nam - súng đạn, xăng nhớt không còn thì lấy gì mà đánh lại với quân đội Miền Bắc được Nga Tàu viện trợ dư thừa súng đạn, thì làm gì không thắng. Khi đã chiếm trọn Miền Nam rồi thì vội vàng làm chi  mà ‘xóa sổ’ Mặt trận Giải phóng Miền Nam cho mang tiếng ‘phản bội - cướp công - tham lam ăn trọn’ và khiến các ‘đồng chí miền Nam ôm hận’. 

Của cải dân chúng miền Nam còn đó - mất đi đâu mà vội mà vàng. Cứ từ từ thực thi ‘hòa giải hòa hợp hòa giải dân tộc’ để lấy 3 tỷ 2 tiền bồi thường chiến tranh của Mỹ mà xây dựng miền Bắc nghèo khó... Làm gì phải giở trò ‘ăn cướp’ như  đổi tiền, đánh tư sản để lại một ấn tượng xấu trong lòng dân chúng miền Nam và để đời những câu điếm nhục: Bọn Bắc kỳ ‘hai nút’ đói khổ ‘vào vơ, ra vét’ hay  ‘người miền Nam nhận họ, người miền Bắc nhận hàng’.

“Cách giải quyết các vấn đề hậu chiến đối với dân chúng Miền Nam cả ngưởi sống lẫn người chết cho ta thấy cái tồi tệ của những con người tiểu nhân mà mỗi lần nhắc đến ta không không khỏi hổ thẹn với thế giới văn minh.

- Đối với người chết: điển hình là Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa - Tượng Tiếc Thương trước cổng vào Nghĩa trang bị giật sập; những mộ phần tử sỉ bên trong chẳng những không được tu tảo mà còn bị đập phá, cấm đoán thân nhân viếng thăm.

- Đối với thương binh của Quân đội VNCH, đang nằm điều trị bị đuổi ra khỏi Quận y viện sau ngày 30-4-1975.

- Đối với những sĩ quan, công chức chế độ cũ thì bị đưa vào các trại tập trung cải tạo, dùng những từ ngữ miệt thị ‘ngụy quân, ngụy quyền’ để phân biệt đối xử. Họ bị mất quyền công dân ngay trên quê huơng xứ sở của mình. Con cái của họ cũng bị ảnh hưởng bởi lý lịch cha ông: thi vào đại học hay đi xin việc làm không xét theo năng lực mà căn cứ vào lý lịch. Điều này chỉ xảy ra trong chế độ cộng sản.  

- Đối với dân chúng thì việc ‘ngăn sông cấm chợ’ chỉ gây thêm phiền nhiễu trong sinh hoạt bình thường của dân miền Nam. Làm ăn tập thể - lâm vào cảnh ‘cha chung không ai khóc’. Công cụ sản xuất bắt buộc đưa vào Hợp tác xã để rồi ‘Xã viên làm việc bằng hai/ để cho chủ nhiệm mua đài mua xe'. Chiến dịch cải tạo công thương nghiệp mang bí số X1 khởi đầu ngày 04/9/1975 và  X2 tiến hành vào tháng 12 năm 1976  có nội dung là ‘cải tạo kinh tế tư bản’ -  dân chúng quen gọi là ‘Đánh tư sản’-  thực chất của chiền dịch này là đuổi dân thành phố về quê  hay vùng kinh tế mới để tịch thu nhà cửa và tài sản. Kinh tế mới là chuyện dài viết cả ngàn trang không kể hết những nỗi bi thương… ‘Những nỗi buồn không ai muốn nhớ, nhưng khổ nỗi không thể nào quên!’

Nếu như ngày ấy đừng có những chính sách phản dân hại nước thì Miển Nam Việt Nam không thể từ chỗ văn minh phồn thịnh trở nên một xứ bị xếp vào hạng lạc hậu, nghèo đói nhất thế giới lúc bấy giờ.

Nếu như ngày ấy đừng vì lòng tham vô độ của những người cộng sản - giành những đặc quyền, đặc lợi cho phe đảng và không có sự phân biệt đối xử quá đáng (thứ nhất con lai - thứ hai con ngụy) thì sẽ có sự hợp tác toàn dân, cùng chung sức xây dựng nước nhà và phong trào vượt biên, vượt biển sẽ không xảy ra, làm Việt Nam mất nhiều chuyên viên và nhân tài để tái thiết quốc gia.

“Nhìn sang nước Nhật, ba mươi năm về trước, họ đã đứng dậy trên đống tro tàn mà buồn cho thân phận nước ta. Ngày ấy - ngày 2/9/1945 Tướng MacArthur(Mỹ) đại diện lực lượng Đồng Minh ký văn kiện chấp nhận sự đầu hàng của Nhật trên chiến hạm Missouri của Mỹ đậu trong Vịnh Tokyo. Khi đó MacArthur 65 tuổi được cử làm Tư lịnh tối cao Quân đội Đồng minh. Ngày 27/9/1945 Thiên Hoàng Hirohito đến gặp Tướng MacArthur lần đầu tiên. Sau đó Thiên Hoàng đến gặp MacAthur mười một lần với thái độ khiêm cung tiếp thu các chủ trương của Mac Arthur, đồng thời thuyết phục ông tướng này giúp đỡ dân Nhật bớt cảnh lầm than sau chiến tranh và phục hưng nước Nhật.

Ngày 1/1/1946, Hirohito đã đọc Bản Tuyên ngôn Nhân gian (Ningen-sengen) trên đài truyền thanh, lần đầu tiên trong lịch sử nước Nhật, Thiên Hoàng tuyên bố: - Thiên Hoàng chỉ là người thường, không phải thần thánh, nghĩa là từ bỏ địa vị nắm quyền tối cao của Quốc gia. Như vậy MacArthur là người lãnh đạo tối cao nước Nhật lúc bấy giờ. (Người Nhật gọi đức vua của họ là Thiên Hoàng - tiếng Nhật gọi Tenno, tiếng Hán gọi là Kana - vì họ tin rằng gia tộc nhà vua là dòng dõi của Thiên Chiếu Đại Thần tức Thần Mặt Trời, được cha truyền con nối).

Vì MacArthur chỉ huy cả đương kim Thiên Hoàng Hirohito nên người Nhật gọi ông là Thái Thượng Hoàng. Hirohito đã quên thân phận của mình để cứu dân, cứu nước. Do vậy mà MacArthur đã hết lòng giúp Nhật Bản: Trước tiên ông yêu cầu chính phủ Mỹ viện trợ khẩn cấp luơng thực để tránh nạn đói. Sau đó lần lượt xây dựng nước Nhật, đưa nước Nhật từ chế độ quân phiệt phong kiến lên chế độ dân chủ tân tiến mà ông thường bảo: Biến Nhật Bản thành một ‘Nước Mỹ lý tưởng’ và chỉ hai mươi năm sau, từ đổ nát điêu tàn, Nhật Bản đã tiến lên hàng cường quốc. (Người Nhật nhớ ơn ông nên đã đưa tên tuổi Mac Arthur vào danh sách Mười Hai Người tạo dựng nước Nhật - The Twelve Men Who Made Japan).

Điều may mắn cho nước Nhật là có vị minh vương, và có ‘quí nhân phù trợ’. Buồn thay cho nước Việt Nam ta chỉ có mấy ông ‘bình vôi’ hãnh tiến, xưng công mà không tìm ra con đường ‘ích quốc lợi dân’, cứ đứng hô khẩu hiệu: ‘tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ nghĩa Xã hội’ mà chẳng biết tiến làm sao – cứ ‘đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt’ (chữ của TCS). Cái tật của mấy ông Việt cộng là cứ làm liều, rồi – Sai thì sửa! Làm mãi mà vẫn thấy sai thì ‘Đổi mới!’. Đổi mới mà không thành công thì đổ thừa: ‘Các thế lực thù địch phá hoại hay do hậu quả của chiến tranh mặc dù cuộc chiến đã chấm dứt trên 40 mươi năm’.

“Ông còn nhớ, sau 1975 các ông ‘bình vôi’ đã  để lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1977,  khi ông Jimmy Carter mới lên làm Tổng Thống Hoa Kỳ đã đưa ra kế hoạch bình thường hoá khá mềm dẻo, trong đó có một đìều có lợi cho VN là: Mỹ có thể đóng góp khôi phục VN qua phát triển thương mại - cung cấp trang thiết bị và các hình thức khác…. Không chớp lấy thời cơ để rơi vào cái ‘bẫy’ của Đặng Tiểu Bình, khiến tình hình chính trị xoay chiều bất lợi cho VN. Đăng Tiểu Bình xúi dục và yểm trợ cho Khmer Đỏ đánh phá giết hại thường dân các tỉnh biên giới phía Tây Nam, buộc VN phải đánh trả. Nhưng bị thế giới lên án,  phải chịu 10 năm cấm vận của Liên Hiệp Quốc. Đặng Tiểu Bình còn lấy cớ đó gây cuộc chiến tranh Biên giới 1979 và ngạo mạn bảo rằng: ‘Dạy cho VN một bài học’.

“Ôn lại lịch sử nước nhà, ông sẽ thấy Việt Nam có nhiều cơ hội vươn lên, nhưng ‘Ma đưa lối, quỷ đưa đường/ Cứ tìm những lối đoạn trường mà đi’ (Kiều) các ông lãnh đạo đảng cộng sản đã làm cho đồng bào lầm than, đất nước bại vong.

Ông Tư nhấp ngụm trà, ra chiều tư lự… nói tiếp: Ông nên nhớ trước năm 1930, Việt Nam ta chỉ có một khối đại đoàn kết dân tộc, lấy tinh thần yêu nước, và độc lập dân tộc làm nòng cốt chống ngoại xâm: Hết đánh Tàu rồi đến đánh Tây. Từ khi ông Hồ Chí Minh đem Chủ nghĩa Cộng sản vào, theo chỉ đạo của Cộng sản chủ trương Thế giới Đại đồng - vô Tổ quốc, vô Gia đình, vô Tôn giáo đã gây ra phân hóa khối đại đoàn kết dân tộc. Gây mầm cho các cuộc chiến tranh ý thức hệ sau này.

“Nếu như ngày ấy - Ngày 17-8-1945, Việt Minh không lợi dụng cuộc biểu tình của công chức và nhân dân Hà Nội ủng hộ Chính phủ Trần Trọng Kim để cướp chính quyền, cứ để Chính phủ Trần Trọng Kim tiếp tục điều hành việc nước sau khi Nhật trao trả Độc lập cho Đế Quốc Việt Nam, và nếu như Vua Bảo Đại không vội vã thoái vị thì lịch sử Việt Nam đã được ghi lại một cách khác - có thể Việt Nam theo chế độ Quân Chủ Lập Hiến như Anh quốc, Thái Lan hay Nhật Bản, cũng có thể vừa giành được Độc lập vừa xây dựng một thể chế dân chủ như một số nước khác trong vùng.

“Phải nói trong những năm 1945-1946 diễn biến chính trị ở nước ta vô cùng phức tạp: Bọn thực dân Pháp muốn tái lập chế độ thuộc địa ở Đông Dương (nhất là phe de Gaulle). Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) nhân cơ hội Đồng Minh giao nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật ở phía Bắc (từ vĩ tuyến 16 trở ra) điều đình với Pháp ký Hiệp ước Hoa-Pháp (ngày 28-2-1946) để trao đổi một số quyền lợi của hai bên - trong đó có một điều khoản liên quan đến Việt Nam là Trung Hoa Dân Quốc đồng ý cho quân Pháp thay thế họ giải giới quân Nhật tại miền Bắc VN.

“Trong bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (lúc đó gồm nhiều thành phần - có thể gọi là Chính phủ Liên Hiệp) cương quyết chống lại việc Pháp tái lập chủ quyền ở Đông Dương. Nhưng sau đó Hồ Chí Minh (Việt Minh hay rõ hơn đảng viên Đảng Cộng Sản Đông Dương) xé lẻ ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt, ngày 6-3-1945 với Jean Sainteny, đại diện  Chính phủ Cộng Hòa Pháp, trong đó có điều khoản quan trọng là đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế 200.000 quân Tàu. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5 năm.

Điều này đã gây nhiều tranh luận: phe Việt Minh cho là một quyết định sáng suốt của Hồ Chí Minh - muợn tay Pháp đuổi 20 vạn quân Tàu, phe chống đối kết tội Hồ Chí Minh đã ký Hiệp định bán nước và âm mưu hòa hoãn để tiêu diệt các Đảng phái Quốc gia để Việt Minh chiếm độc quyền lãnh đạo.

Đúng, sai tùy theo chỗ đứng và góc nhìn của từng cá nhân. Tôi dài dòng nêu lên các sự kiện lịch sử để ông thấy sự bất hạnh của đất nước và dân tộc Việt Nam. Trong khi các quốc gia trong vùng lấy lại Độc lập một cách dễ dàng: Ấn Độ (1946), Phi Luật Tân (1947) Nam Dương (1949) Mã Lai và Miến Điện (1947) thì Việt Nam lâm vào cảnh nội bộ phân hóa. Các thành viên trong Chính phủ lâm thời không ở trong phe Việt Minh như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh rời bỏ chính phủ sang Trung Quốc, từ đó chấm dứt thời kỳ hợp tác giữa Việt Minh và các Đảng phái Quốc gia như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt. Và rồi, cũng từ đó Tổng bộ Việt Minh chủ trương tàn sát các thành phần đối lập mà họ gọi là ‘Việt gian’, cụ thể là vụ án phố Ôn Như Hầu. Đó là sự đau lòng và là vết nhơ trong lịch sử dân tộc.

Nhưng chưa hết, bọn ‘Pháp thực dân’ âm mưu thống trị Việt Nam lâu dài, đã phản bội những điều ký kết trong Hiệp định sơ bộ 6-3-1946. buộc ông Hồ Chí Minh phải kêu gọi ‘toàn quốc kháng chiến’ - ngày 19/12/1946 - mở đầu cho cuộc chiến tranh (tạm gọi là cuộc chiến tranh lần thứ nhất) gian khổ trong 9 năm. Nhưng than ôi! Trong khi đất nước cần sự đoàn kết, thống nhất ý chí toàn dân để chống lại thực dân Pháp thì trước đó Việt Minh đã tiêu diệt tiềm năng của các Đảng phái Quốc Gia, đồng thời vẫn tiếp tục đố kỵ các thành phần yêu nước có tinh thần Quốc gia Dân tộc để chiếm độc quyền lãnh đạo cho đảng Cộng sản làm tản lực đấu tranh chống Pháp nên cuộc chiến mới kéo dài 9 năm, gây nên biết bao thống khổ!

Vì Việt Minh đẩy các Đảng phái Quốc gia đến con đường phải tự vệ để sống còn, nên các lực lượng chính trị bao gồm: Cao Đài, Hòa Hảo, Việt Nam Cách mạng Đồng Hội, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng liên kết thành lập Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp quyết định ủng hộ Cựu hoàng Bảo Đại đàm phán với Pháp về nền Độc lập của Việt Nam. Ngày 7/12/1947, trên tàu chiến Pháp đậu ở Vịnh Hạ Long, Bảo Đại và Pháp ký kết ‘Hiệp ước Vịnh Hạ Long’ để thành lập Quốc Gia Việt Nam - Bảo Đại làm Quốc trưởng và ra tuyên cáo nền độc lập của Quốc Gia Việt Nam được Pháp công nhận và sau đó trong Hôi nghị San Francisco tổ chức từ ngày 5 đến ngày 8/1951 tại San Francisco, California (Mỹ), có 51 Quốc gia  tham dự đã công nhận Việt Nam là một Quốc gia đôc lập có chủ quyền. Một sự kiện quan trọng là Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Quốc gia Việt Nam (Chính phủ Bảo Đại) Trần Văn Hữu tham dự Hội nghị này đã tuyên bố khẳng định chủ quyền đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Quốc Gia Việt Nam. Tuyên bố của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam đã không có sự phản đối nào của các nước tham dự, tức là công nhận chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo này.

Từ sau năm 1945, Việt Nam đã 3 lần ra tuyên ngôn Độc Lập: Lần thứ nhất, ngày 11/3/1945, Hoàng đế Bảo Đại ra tuyên cáo Đế Quốc Việt Nam độc lập. Lần thứ hai, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Lần thứ ba, vào tháng 1/1949, Quốc trưởng Bảo Đại ra tuyên cáo độc lập của Quốc Gia Việt Nam.

Tuy ba lần ra Tuyên ngôn Độc lập, nhưng cho đến ngày nay (gần 75 năm sau) dân tộc Việt Nam vẫn chưa được hưởng một nền Độc lập thực sự. Ông cứ nhìn vào thực tế của đất nước mình hiện nay sẽ thấy điều tôi nói không ngoa - Đất đai, biển đảo bị Tàu xâm chiếm, ngư dân bị Tàu hà hiếp, cướp bóc giết hại ngay trên vùng biển của cha ông mà nhà cầm quyền đương cuộc không dám lên tiếng phản đối, chỉ nói xa xa là ‘tàu lạ’; Ải Nam Quan mất rồi, bây giờ bãi biển Nha Trang, Đà Nẵng đâu cỏn là nơi để dân mình hưởng gió mát, trăng thanh – Chúng bán cho Tàu hết rồi ông ơi!

Nếu như ngày ấy … ba cái ‘ông bình vôi’: Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư), Đổ Mười (Chủ tịch hội đồng bộ trưởng-Thủ tướng), Phạm Văn Đồng (Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng) đừng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên trong ngày 3-4 tháng 9 năm 1990, ký với Giang Trạch Dân (TBT Đảng Cộng sản Trung Quốc) và Lý Bằng (Thủ tướng Quốc vụ viện) những điều gọi là ‘bí mật Thành Đô’- đến nay dân  Việt Nam chẳng biết những điều gì trong đó, chỉ nghe đồn rằng năm 2020 Việt Nam sẽ chấp nhận trở thành khu Tự trị thuộc chính quyền Trung ương Bắc Kinh như Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Châu. Nghe qua mà thấy rụng rời tay chân và nhìn vào thực tế thấy bọn Tàu vào nước mình mỗi ngày một đông, mua đất đai, uy hiếp dân ta thì những lời đồn đoán này biết đâu sẽ thành hiện thực (!?).

Ngược dòng lịch sử để xem những chuyện bê lề của Hội nghị Geneve khai mạc ngày 8/5/1954 và chấm dứt ngày 21/7/1954 bằng một Hiệp định đình chiến được ký kết ngày 20/7/1954- thường gọi là Hiệp Định Geneve 54 - chia cắt đất nước ta tại vĩ tuyến 17, mới thấy nỗi đau cho số phận của một nước nhược tiểu đã bị các cường quốc định đoạt (Nga-Tàu và Pháp).

Sau Thế chiến thứ hai, thế giới bước vào thời kỳ ‘chiến tranh lạnh’- Sự tranh giành ảnh hưởng của hai phe Tự do Tư Bản và Cộng Sản ở các nước chậm tiến Á Phi ‘tăng tốc’. Lãnh đạo một số nước sáng suốt, đứng ngoài vòng tranh chấp đó lập thành khối ‘Phi liên kết’ tránh được tai họa cho Quốc gia.   

Bất hạnh cho dân tộc Việt Nam, là những nhà lãnh đạo miền Bắc xung phong lập ‘Đội tiền phong’ đi làm ‘nghĩa vụ quốc tế vô sản’ đề bành trướng Chủ nghĩa Cộng sản theo chủ trương của Đệ Tam Quốc tế Cộng sản. Phe Tự Do, đứng đầu là Hoa Kỳ đâu có chịu ngồi yên để phe Cộng sản bành trướng xuống vùng Đông Nam Á, nên triệt để áp dụng học thuyết Domino do Tổng Thống Hoa kỳ Dwight D. Eisenhower đề xướng, theo đó: nếu Hoa kỳ không can thiệp để cộng sản chiếm Nam Việt Nam (là quân bài domino đầu) sụp đổ thì Lào, Campochia, Thái Lan, Miến Điện sẽ sụp đổ theo; rồi các nuớc trong vùng ảnh hưởng của Hoa Kỳ như Philippines, Malaysia, Nhật Bản, Úc, New Zealand cũng lần lượt rơi vào tầm ngắm của Cộng sản. Do đó Nam Việt Nam trở nên trọng điểm đối với Hoa kỳ- phải bảo vệ - và thường được ‘ví von’ là ‘tiền đồn chống cộng của Thế giới Tự do’.

Khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm, biết ý định của Hoa kỳ sẽ tìm cách đưa quân đội vào Nam Việt Nam, Ông cương quyết không chấp nhận vì biết sẽ gây cảnh tang thương cho đất nước. Ngoài Bắc, ông Hồ Chí Minh cũng biết điều đó và nếu Mỹ can thiệp vào cuộc chiến tranh thì đoàn quân đi làm ‘nghĩa vụ quốc tế vô sản’ của ông sẽ tan tác... Cho nên Ông Diệm lẫn Ông Hồ muốn hiệp thương - tiến đến thống nhất đất nước trong hòa bình. Điều này đã thể hiện cụ thể là ông Ngô Đỉnh Nhu đã gặp ông Phạm Hùng, một cán bộ cao cấp của Bắc Việt tại khu rừng Tánh Linh ở Bình Tuy đầu năm 1962 và Tết Quý Mão 1963, Ông Hồ đã nhờ ông Ram C. Goburdhun, Đại sứ Ấn Độ và là Chủ tịch Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đinh chiến mang một cành đào lớn tặng Ông Diệm với tấm thiệp viết: ‘Chủ tịch nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kính tặng, chúc Tết Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa. (bây giờ những tin tức này không còn là điều bí mật – đó là sự thật).

Nhưng bất hạnh cho dân tộc Việt Nam, một lần nữa mất đi một cơ hội để tránh 20 năm máu lửa, đau thương - thường gọi là cuộc chiến tranh lần thứ hai. Vì ở Miền Nam một đám tướng lãnh ham tiền, ham quyền đã bị Mỹ mua chuộc làm cuộc đảo chánh 1-11-1963, giết hai Ông Diệm, Nhu. Còn Miền Bắc, đám chủ chiến Lê Duẩn, Lê Đức Thọ khống chế Hồ Chí Minh, giành quyền lãnh đạo, tiếp tục chủ động cuộc chiến xâm chiếm Miền Nam.

Thế là cuộc chiến tranh tiếp tục leo thang – Từ cuộc chiến tranh mang tính ‘ý thức hệ’ giữa Chủ nghĩa Cộng sản và Chủ nghĩa Quốc gia Dân tộc thành cuộc ‘chiến tranh ủy nhiệm’- Miền Nam nhận bom đạn của Mỹ để bảo vệ ‘Tiền đồn chống cộng của thế giới Tự Do’. Miền Bắc nhận súng của Nga, Tàu đi làm ‘nghĩa vụ quốc tế vô sản’ bành trướng Chủ nghĩa Cộng sản dưới chiêu bài ‘đánh Mỹ cứu nước- Giải phóng Miền Nam’ nhưng Lê Duẩn,TBT đảng Cộng sản đã nói: ‘chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, choTrung Quốc’- quả thực không sai.

Vậy thì nhân dân Việt Nam được gì trong cuộc chiến này?

Dân miền Nam chỉ mong được yên ổn làm ăn, đâu cần ‘giải phóng’… Những bà mẹ miền Bắc đâu có muốn con mình trong đội tiền phong đi làm ‘nghĩa vụ quốc tế vô sản’ để rồi ‘sinh Bắc tử Nam’.

Ngày 27/2/1972 Mỹ-Trung ký ‘Thông cáo chung’ ở Thượng Hải. Cho thấy tình hình chính trị thế giới đã biến chuyển. Trước tình hình đó, cả hai miền Nam, Bắc đều có những lo âu, toan tính.

Mỹ cắt giảm viện trợ cho Miền Nam và chủ trương Việt Nam hóa chiến tranh,  như vậy vai trò làm ‘chiến sĩ bảo vệ tiền đồn của Thế giới Tự do’ coi như chấm dứt. Trong khi Miền Bắc tiếp tục nhận viện trợ và vũ khí của Nga, Tàu tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm Miền Nam. Chính phủ và nhân dân Miền Nam phải ra sức chiến đấu bảo vệ quê hương - Bấy giờ rõ nét là một cuộc ‘nội chiến’.

Để thực hiện ý đồ này, lãnh đạo Miền Bắc đã tung nhiều Sư đoàn chủ lực với xe tăng, trọng pháo vào chiến trường miền Nam - mở ‘chiến dịch Trị Thiên’ ( miền Nam gọi Mùa Hè Đỏ Lửa) với những  trận tấn công qui mô, ác liệt vào Cổ thành Quảng Trị, Bình Long-An Lộc v…v… Hằng vạn binh sĩ của cả hai bên đã hy sinh vì những tham vọng điên cuồng vào những ngày hòa bình sắp ló dạng… Lẽ ra những sinh linh này đã được về với mẹ, với em, với gia đình sau bao năm chiến đấu gian khổ thì thân xác họ đã nằm lại nơi chiến trường phi nghĩa.   

Những người lính đã chết một cách oan uổng sau năm 1972 là do sự mê muội của vài tên đầu lãnh miền Bắc - Đây là một tội ác đối với đồng bào và dân tộc - lịch sử sẽ phán xét những hành động của họ.

Ông Tư như trầm ngâm tha thiết nói: Đọc một đoạn văn của Trần Trung Đạo trong quyển Chính Luận (Cổ Loa xb năm 2014) mà ngậm ngùi cho thân phận đau thương của người lính: ‘ Nhìn viên đạn của Nga và Tàu, tôi nghĩ đến trái tim của người lính trẻ miền Nam, giống như khi nhìn chiếc chiến đấu cơ của Mỹ cất cánh tôi chợt nghĩ đến các anh lính từ miền Bắc xấu số đang di chuyển bên kia sông Thu Bồn. Vũ khí là của các đế quốc. Không có khẩu súng nào chế tạo ở miền Nam hay miền Bắc. Các bà mẹ Việt Nam chỉ chế tạo được những đứa con và đóng góp phần xương máu / Vũ khí của các đế quốc trông khác nhau nhưng nạn nhân của chúng dù ở bên này hay bên kia lại rất giống nhau. Nếu tháo đi chiếc nón sắt, chiếc mũ vải xanh, hai người thanh niên có mái tóc đen, vầng trán hẹp, đôi mắt buồn hiu vì nhớ mẹ, nhớ em chẳng khác gì nhau. con đường Duy Tân cây dài bóng mát hay mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây trời cũng là quê hương Việt Nam và nỗi nhớ trong tâm hồn người con trai Việt ở đâu cũng đậm đà tha thiết’.

Tôi kể thêm một câu chuyện cho ông thấy cái ‘khôn vặt - hợm hĩnh’của mấy tay lãnh đạo miền Bắc, đôi khi đã mang đến tai họa cho dân, cho nước.

- Chuyện rằng: Trong Hòa đàm Paris đến chỗ gay cấn, có vài điểm bế tắc, ngày 13/12/1972  Lê Đức Thọ, Trưởng phái đoàn Miền Bắc, bỏ về nước không nói rõ lý do - trong thâm tâm của y nghĩ rằng:  Miền Bắc đang ở thế ‘thượng phong’ làm như thế Kissinger sẽ nhượng bộ (!?). Nào ngờ ngày 18/12/1972, TT Nixon ra lịnh tiến hành chiến dịch Linebacker 2 – cho máy bay B-52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng và các cứ điểm quân sự trong 12 ngày đêm. Kết quả theo Tướng Philip Davidson đánh giá: Hà Nội kiệt quệ tới mức trong 3 ngày cuối máy bay Mỹ gần như không còn bị bắn trả, và không còn mục tiêu quân sự nào tại miền Bắc để đánh nữa. Còn dư luận trong dân chúng thì cho rằng nếu Mỹ ném bom thêm ba ngày nữa Hà Nội sẽ ‘kéo cờ trắng’.

Kết quả ‘thông điệp 36.000 tấn bom’ của Nixon đã khiến cho Lê Đức Thọ vác xác trở lại bàn đàm phán. Ông đọc thêm hồi ký của Nixon, Kissinger, Việt Nam War-1988 của Tướng ba sao Philip Davidson để thấy 36.000 tấn bom trút xuống trong 12 ngày đêm bằng số bom đã thả xuống miền Bắc từ năm 1969 đến 1971. Và ông sẽ thấy ‘cái đểu’ của các cường quốc và ‘cái đau’ của một nước nhược tiểu khi nghe Khrushchev, cựu TBT đảng cộng sản Liên Xô phát biểu: ‘Nếu Hoa kỳ tiếp tục thả bom trong vài, ba ngày nữa thì Hà Nội sẽ đầu hàng vì số hỏa tiễn SAM (địa đối không) Liên Xô viện trợ để hạ máy bay B-52 đã cạn, nhưng Nixon đâu để cho Hà Nội đầu hàng, vì như vậy sẽ làm mất mặt Trung cộng và ảnh hưởng không tốt cho sự bang giao Mỹ-Trung đang diễn ra. Hơn nữa tình báo Nga tiết lộ: Nga sẽ không tiếp tục đưa hỏa tiễn SAM vào Bắc Việt - cuộc thí nghiệm vũ khí và đọ sức đôi bên đến đó đủ rồi – đàn em Hà Nội cũng đã ngất ngư - Nixon ra lịnh ngưng oanh tạc!

“Được gì trong cuộc chiến 20 năm?  Hơn 3 triệu người hy sinh, quê hương điêu tàn, nhân tâm ly tán…

“Hơn 60 năm trước, trong  quyển Chính Đề Việt Nam, Ông Ngô Đình Nhu đã viết: ‘vì tính toán sai lầm, trong giai đoạn quyết định, các nhà lãnh đạo đã tạo ra tình trạng phân chia lãnh thổ…’ và tiếp theo là những tiên đoán của Ông về tương lai của Việt Nam: Nếu Miền Nam bị Cộng sản xâm chiếm thì ‘sẽ tròng vào cổ dân tộc cái ách nô lệ (Trung Quốc) mà tổ tiên chúng ta, trong một ngàn năm đã đổ nhiều xương máu để loại trừ’-  Bây giờ xem hiện tình Việt Nam quả thực không sai.

“Tôi đọc cho ông nghe một bài thơ: ‘Tâm sự của Một Bộ Đội Cộng Sản Bắc Việt để chia xẻ niềm đau với những người cùng thế hệ 75: 

“Tôi đã biết mình lầm đường lạc lối/ Từ sau cái ngày‘giải phóng’ Miển Nam/ Một mùa xuân tang tóc năm bảy lăm/ Đi giữa Sài Gòn, tôi nghe mình thầm khóc/ Tôi khóc Miền Nam tự do vừa mất/ Và khóc cho mình, chua xót đắng cay/ Nửa đời người theo đảng đến hôm nay/ Tưởng cứu nước đã trở thành tội ác/ Bỡi tôi quá tin nghe theo lời bác/ Rằng đảng ta ưu việt nhất hành tinh/ Đường ta đi, chủ nghĩa Mac Lê nin/ Là nhân phẩm, là lương tri thời đại/ Rằng tại Miền Nam, ngụy quyền bách hại/ Dìm nhân dân dưới áp bức bạo tàn/ Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn/ Đang rên siết kêu than cần giải phóng/ Tôi đã xung phong với bầu máu nóng/ Đi cứu Miền Nam ruột thịt nghĩa tình/  Chẳng quên mang theo ký gạo để dành/ Biếu người bà con trong này túng thiếu/ Người dân Miền Nam thật là khó hiểu/ Nhà khang trang bỏ trống chẳng còn ai/ Phố phồn hoa hoang vắng tự bao giờ/ Giải phóng đến sao người ta chạy trốn/ Đến Sài Gòn, tưởng say men chiến thắng/ Nào ngờ đâu sụp đổ cả niềm tin/ Khi điêu ngoa dối trá hiện nguyên hình/ Trước thành phố tự do và nhân bản/ Tôi tìm đến người bà con trong xóm/ Nhà xinh xinh, đời sung túc tiện nghi/ Ký gạo đem theo nay đã mốc xì/ Tôi vội vã dấu vào hành lý/Anh bà con tôi-một người công chức/ Nét u buồn nhưng cũng cố làm vui/ Đem tặng tôi một cái đồng hồ/ Không người lái, Sei-ko, hai cửa sổ/ Một túi xách xinh xinh dành cho vợ/ Con búp bê dành cho con gái yêu/ Rồi anh nói: Ngày mai đi cải tạo/ Cái đồng hồ tôi cũng chẳng cần chi/ Xin tặng anh, mong nhận lấy đem về/ Một chút tình người bà con Nam Bộ/ Trên đường về, đất trời như sụp đổ/ Tôi thấy mình tội lỗi với Miền Nam/ Tôi thấy mình hổ thẹn với lương tâm/ Tôi đã khóc, cho mình và đất nước/ Cho những đồng đội nằm xuống ngoài kia/ Cho những bà Mẹ nơi hai chiến tuyến/ Có những người con đi chẳng trở về/ Khóc vì nghe người về từ chiến thắng/ Nhưng sao lòng chua xót mênh mang. (Nguồn: Cựu bộ đội giải phóng Trần Huân - Published by Nguyễn Văn Thái on April 16 - 2018).

Ông Tư dừng lại, nhìn tôi ra chiều xúc động, ông nói người xưa đã bảo: ‘Một người thầy thuốc sai lầm thì có thể giết một bệnh nhân, một nhà làm chính trị sai lầm có thể giết hại một dân tộc, một nhà làm văn hóa tư tưởng sai lầm có thể giết hại cả một thế hệ’-

Câu nói đó có gía trị muôn đời ông ạ./.

LÊ ĐỨC LUẬN.
(Tháng 8-2019)           


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét