Thứ Bảy, 2 tháng 10, 2021

Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du - Thanh Hiên Thi Tập Bài 35, 36, 37

 


THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - THANH HIÊN THI TẬP - BÀI 35, 36, 37
Thầy Dương Anh Sơn 


Bài 35:

TẶNG THỰC ĐÌNH                                          
贈實亭

Thiên hạc đàm ngư hà xứ tầm?                           
天鶴潭魚何處尋
La Thành nhất biệt thập niên thâm.                     
羅城一別十年深
Đồng niên đối diện cách thiên nhưỡng                 
同年對面隔千壤,
Vãng sự hồi đầu thành cổ câm (kim).                   
往事回頭成古今
Bạch phát tiêu ma bần sĩ khí,                                
白髮消磨貧士氣
Đề bào trân trọng cố nhân tâm.                            
綈袍珍重故人心
Mạc sầu tịch địa vô giai khách,                             
莫愁僻地無佳客
Lam Thuỷ Hồng Sơn túc vịnh ngâm.                   
藍水鴻山足詠吟

Nguyễn Du                                                              

 

Dịch nghĩa:

Chim hạc trên trời, con cá trong đầm làm sao mà tìm? Một lần giã biệt La Thành đã hơn mười năm rồi! Những bạn bè cùng trang lứa cách mặt nhau như trời và đất. Bao chuyện cũ quay đầu nhìn lại đã thành ra chuyện “kim cổ”, xưa nay. Mái tóc của kẻ sĩ nghèo đã bạc làm tiêu tan và cùn mòn ý chí đi. Rất trân trọng và quý mến tấm lòng của người bạn cũ đã tặng chiếc áo lụa dày. Chớ buồn vì ở nơi vắng vẻ không có khách quý; dòng sông Lam và dãy núi Hồng cũng đủ để ngâm vịnh.


Tạm chuyển lục bát:


TẶNG THỰC ĐÌNH

Tìm đâu cá nước hạc trời,
La Thành giã biệt đã mười năm qua.
Đất trời bạn lứa cách xa,
Chuyện qua, ngoảnh lại đã là xưa nay.
Tấm lòng bạn cũ: áo dày,
Bạc đầu sĩ khí còn đây héo mòn.
Vắng tanh không khách chớ buồn,
Ngâm nga Lam Thủy, Hồng Sơn đủ rồi!

Chú thích:
- Thực Đình 贈實: tên hiệu của người bạn Tố Như, không rõ tên họ.
- La Thành 羅城: tức thành Nghệ An xây gần nơi sông Lam và sông La gặp nhau và còn có các tên như Lam Thành, Nghĩa Liệt Thành, Triều Khẩu Thành.
- đồng niên 同年: người cùng tuổi, bạn cùng thời hoặc cùng trang lứa.
- nhưỡng 壤: chỉ chung về đất đai, đất mềm hoặc đất có thể trồng trọt .
- ma 磨: mài mòn, cùn mòn.
- tiêu 消: tan chảy đi hết, mất tan.
- đề bào 綈袍: áo làm bằng lụa dày giữ được mát và hơi ấm.
- giai khách 佳客: khách quý. 


Bài 36:

PHÚC THỰC ĐÌNH                                        復實亭

Đông hàn hạ thử cố xâm tầm,                           
冬寒夏暑故侵尋
Lão đại đầu lô tuế nguyệt lâm.                           
老大頭顱歲月深
Kinh quốc oanh hoa thiên lý ngoại,                   
京國鶯花千里外
Giang hồ toa lạp thập niên câm (kim).               
江湖簑笠十年今
Tụ đầu nan đắc thường thanh mục,                    
聚頭難得常青目
Lý phát đương tri vị bạch tâm.                            
理髮當知未白心
Lam thuỷ Hồng Sơn vô hạn thắng,                    
藍水鴻山無限勝
Bằng quân thu thập trợ thanh ngâm.                  
憑君收拾助清吟
Nguyễn Du                                                       
   


Dịch nghĩa:
Mùa đông lạnh lẽo, mùa hạ oai nồng dần dần trôi qua. Tháng năm chồng chất già nua trên chiếc đầu lông lốc. Chốn kinh kỳ với chim và hoa thong dong đã xa ngoài vạn dặm. Đã mười năm nay sống sông hồ với áo tơi và chiếc nón lá. Những người bạn “mắt xanh” cũng thường khó tụ họp lại với nhau. Lúc soạn sửa mái tóc mới hay lòng mình chưa được trang trắng, thanh thản. Bạn hãy dựa vào cảnh đẹp vô vàng của núi Hồng, sông Lam để ngâm vịnh cho được thanh nhàn.


Tạm chuyển lục bát:


ĐÁP LỜI THỰC ĐÌNH

Qua dần đông lạnh hè nồng,
Đầu trơ năm tháng chất chồng già nua.
Kinh thành ngàn dặm chim hoa,
Sông hồ tơi nón nay đà mười năm.
Mắt xanh tụ họp khó khăn,
Lòng chưa trang trắng, sửa sang mái đầu!
Lam, Hồng cảnh đẹp biết bao,
Bạn ơi nhặt nhạnh dựa vào vịnh ngâm.

Chú thích:
- xâm tầm 侵尋 xâm tầm: dần dần qua, sắp qua.
- đầu lô 頭顱: đầu lâu, sọ đầu, đầu trơ lốc…
- câu 3: chỉ cảnh thanh nhàn êm đẹp tại chốn kinh thành.
- toa lạp 簑笠: chiếc áo tơi (áo đi mưa kết bằng rơm rạ) và cái nón lá; chỉ sự nghèo nàn thiếu thốn và vất vả.
- thanh mục 青目: mắt xanh; chỉ những người có tài năng, hiểu biết ,có mắt nhìn người... (như trong Kiều đoạn Từ Hải nói với Thúy Kiều : “mắt xanh chẳng để ai vào có không?”
- lý phát 理髮: sửa sang lại đầu tóc.
- bạch tâm 白心: lòng thanh thản, trong trắng không vương bận (Nguyễn Công Trứ: “nợ tang bồng trong trắng vỗ tay reo”).
- bằng 憑: dựa vào, nương dựa.

 

Bài 37:

BIỆT NGUYỄN ĐẠI LANG (Kỳ nhất)            
別阮大郎 (其一)


Ngã thả phù giang khứ,                                         
我且浮江去
Tống quân quy cố khâu.                                        
送君歸故丘
Càn khôn dư thảo ốc,                                             
乾坤餘草屋
Phong vũ túc cô chu.                                              
風雨宿孤舟
Thu dạ ngư long trập,                                             
秋夜魚龍縶
Thâm sơn mi lộc du.                                               
深山麋鹿遊
Hưu kỳ bất thậm viễn,                                            
休其不甚遠
Tương kiến tại trung châu.                                     
相見在中州
Nguyễn Du                                                      
           

Dịch nghĩa:
Tôi sắp sửa đi qua sông để đưa tiễn anh về quê cũ. Đất trời rộng lớn vẫn còn thừa đủ mái lều cỏ; những lúc gió mưa về, nghỉ ngơi trong chiếc thuyền lẻ loi. Đêm thu rồng cá họp đàn. Chốn non ngàn núi thẳm hươu nai rong chơi nhởn nhơ. Không còn xa lắm ngày vui tốt lành. Rồi sẽ gặp mặt nhau ở vùng trung châu.

Tạm chuyển lục bát: 


CHIA TAY ANH NGUYỄN

Dòng sông tôi sắp đi qua,
Tiễn anh trở lại quê nhà chốn xưa.
Lều tranh trời đất có dư,
Mái thuyền riêng nghỉ khi mưa gió tràn.
Đêm thu rồng cá họp đàn,
Hươu nai, núi thẳm non ngàn rong chơi.
Chẳng còn xa lắm ngày vui,
Trung châu gặp mặt ở nơi chốn này.

Chú thích:
- Nguyễn đại lang 阮大郎: người bạn họ Nguyễn, thân với Nguyễn Du không rõ tên là gì.
- thả 且: sắp sửa, vừa làm cái này, vừa làm cái kia, huống chi…
- phù 浮: trôi nổi, đi qua.
- cố khâu 故丘: nơi quê hương đồng ruộng xưa cũ.
- dư 餘: dư thừa, no đủ, đủ đầy.
- túc 宿: nghỉ ngơi, rảnh rỗi.
- trập 縶: họp thành từng bầy đàn, tụ tập đông đảo.
- hưu kỳ 休其: lúc nghỉ ngơi, lúc dừng lại, rảnh rang; lúc có sự vui mừng tốt lành.
- trung châu 中州: vùng đất lớn nằm giữa cao nguyên và đồng bằng.

 
Bài 38 

BIỆT NGUYỄN ĐẠI LANG (Kỳ nhị)              別阮大郎(其二)


Tống quân quy cố khâu,                                       
送君歸故丘
Ngã diệc phù Giang Hán.                                     
我亦浮江漢
Thiên lý bất tương văn,                                        
千里不相聞
Nhất tâm vị thường gián.                                     
一心未嘗間
Dạ hắc sài hổ kiêu,                                               
夜黑豺虎驕
Nguyệt minh hồng nhạn tán.                                
月明鴻雁散
Lưỡng địa các tương vọng,                                   
兩地各相望
Phù vân ưng bất đoạn.                                          
浮雲應不斷
Nguyễn Du                                                  
            
 

Dịch nghĩa:
Đưa tiễn anh về chốn quê cũ, tôi cũng lại vừa qua sông (dưới dòng sông ngân trên bầu trời). Ngàn dặm chia cách chẳng nghe được tin nhau. Tấm lòng chưa từng cách ngăn. Đêm đen tăm tối, những loài sói hổ kiêu căng ngạo nghễ. Đàn nhạn hồng phải tản mát dưới vầng trăng sáng. Đôi ta vẫn ngóng trông nhau dù cách đôi nơi. Những mong sao đám mây trôi trên trời vẫn không hề đứt đoạn, dừng lại.


Tạm chuyển lục bát:

CHIA TAY ANH NGUYỄN (Bài 2)

Tiễn anh về chốn quê xưa,
Dòng Ngân tôi cũng lại vừa qua sông.
Tin truyền ngàn dặm chẳng cùng,
Một lòng một dạ chưa từng cách ngăn.
Đêm đen sói hổ kêu căng,
Nhạn hồng tản mát vầng trăng sáng ngời.
Ngóng nhau xa cách đôi nơi,
Những mong rằng đám mây trôi chẳng dừng.


Chú thích:
- diệc 亦: lại lần nữa, chẳng những…
- Giang Hán 江漢: tức dòng sông Ngân hay dãy Ngân hà trên bầu trời; cũng chỉ sông Hán bên Thiểm Tây (TQ).
- văn 聞: hiểu biết, nghe truyền tin tức, nghe tiếng…
- thường 嘗: nếm mùi, từng trải, đi qua…
- câu 5+6: Nguyễn Du muốn nói đến thời cuộc đổi thay, giặc giã nổi lên khiến những kẻ sĩ phải tản mát khắp nơi.
- các 各: đều, cách xa, phân ra.
- gián 間: chia tách, cách biệt, rời nhau.
- ưng 應: nên như thế, mong sao, ước mong…

Dương Anh Sơn
 
(Lần đến: THTT/Bài 38, 39, 40) 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét