Thứ Tư, 20 tháng 10, 2021

Thơ Đỗ Phủ - Từ Bài 16 đến 21

 


THƠ ĐỖ PHỦ - BÀI 16, 17, 18, 19, 20, 21.
Thầy Dương Anh Sơn
 

Bài 16 

PHỤC SẦU (kỳ nhất)                                               (其一 

Nhân yên sinh xứ tích,                                               人煙生處僻,

Hổ tích quy tân đề.                                                     虎跡歸新蹄。

Dã cốt phiên khuy thảo,                                              野鶻翻窺草,

Thôn thuyền nghịch thượng khê.                               村船逆上溪。

Đỗ Phủ                                                                         
 

Dịch nghĩa: 

Nỗi sầu trở lại 

Khói tỏa nơi có người sinh sống ở chốn xa xôi, vắng vẻ. Dấu chân cọp quay về với móng vuốt còn mới. Loài chim cắt ở đồng nội bay vùn vụt dòm ngó đám cỏ. Chiếc thuyền của thôn xóm đi ngược về phía trên của khe suối vùng núi.   

Tạm chuyển lục bát:

LẠI SẦU (Bài 1) 

Khói vùng người sống xa xăm,

Cọp về  vuốt mới móng  hằn dấu chân. 

Bay nhìn: chim cắt cỏ đồng,

Lên đầu khe suối ngược dòng thuyền thôn.   

Chú thích: 

- xứ (xử) 處: nơi chốn, nơi nào đó, thường, về, giao tiếp, xử sự, coi sóc.... 

- tích (tịch) 僻: hẹp hòi, nơi vắng vẻ, hẻo lánh, chốn xa xôi hiu quạnh...

- hổ tích 虎 跡: dấu chân, tung tích, dấu vết của con hổ....

- tân đề 新 蹄: móng vuốt (đề) còn mới mẻ (tân).

- dã 野: đồng nội, hoang dã, quê mùa, dân dã, rất,vô cùng....

- cốt 鶻: loài chim cắt, loài chim hung ác...

- phiên 翻: bay vùn vụt, lật lại, trở mình....

- khuy 窺: nhìn chăm chú, dòm ngó tìm tòi, nhìn trộm...

- thượng khê 上溪: đầu nguồn của khe suối....


Bài 17  

PHỤC SẦU (Kỳ nhị)                                          復愁 (其二 

Điếu đĩnh thu mân tận,                                         釣艇收緡盡,

Hôn nha tiếp sí hi.                                                昏鴉接翅稀。

Nguyệt sinh sơ học phiến,                                   月生初學扇,

Vân tế bất thành y.                                               雲細不成衣。

Đỗ Phủ                                                                    

Dịch nghĩa: 

Chiếc thuyền nhỏ câu cá đã cuốn hết dây câu. Đàn quạ thưa thớt lúc sẩm tối vẫn soải cánh bay nối nhau. Vầng trăng mới mọc như chiếc quạt. Đám mây nhỏ bé sẽ không làm thành chiếc áo được rồi! 

Tạm chuyển lục bát: 

LẠI SẦU (Bài 2) 

Thuyền câu thâu hết dây câu,
Quạ bay thưa thớt nối nhau chiều tàn.
Xòe như chiếc quạt: trăng  non,
Đám mây nhỏ bé, áo không thành rồi! 

Chú thích:

- đĩnh 艇: thuyền nhỏ mà dài, con thoi dệt...

- thu 收: thâu tóm, bắt, thu thập, nhặt nhạnh...

- mân 緡: dây câu cá, dây xâu quan tiền ngày xưa...

- hôn 昏: sẩm tối, bóng tối, mê muội (hôn ám), mờ mịt, tối tăm...

- nha 鴉: con quạ khoang có cánh màu xám tro. Loại quạ có lông đen tuyền gọi là "ô"烏.

- tiếp 接: nối tiếp, nhanh nhẹn, mau chóng, tiếp tục, liền nhau....

- sí 翅: cánh chim, chim bay... (ngư sí: vây cá...).

- hi 稀: thưa thớt, lơ thơ, loãng nhão, hiếm hoi, ít....

- sơ học 初學: mới bắt đầu học, mới bắt đầu, nông cạn, còn non nớt...

- phiến 扇: cánh cửa mở ra đóng vào, chiếc quạt...

- vân tế 雲細: đám mây nhỏ nhoi.... 


Bài 18 

PHỤC SẦU (Kỳ tam)                                          復愁 (其三 

Vạn quốc thượng nhung mã,                                 萬國尚戎馬,

Cố viên kim nhược hà.                                           故園今若何。

Tích quy tương thức thiểu,                                    昔歸 相識 少,

Tảo dĩ chiến trường đa.                                         早已戰場多。

Đỗ Phủ                                                                     

Dịch nghĩa: 

Muôn ngàn nước vẫn ưa chuộng chiến tranh! Vườn cũ nay như thế nào rồi? Trước đây khi quay về người quen biết còn ít ỏi. Từ lâu đã có nhiều chốn xảy ra chuyện chinh chiến.    

Tạm chuyển lục bát:
    
LẠI SẦU (Bài 3) 

Chiến tranh muôn nước chuộng ưa,
Giờ đây chốn cũ vườn xưa thế nào?
Trước về, người biết ít sao,
Từ lâu, nhiều chốn binh đao khắp rồi! 

Chú thích:

- thượng 尚: ưa chuộng, vẫn còn, khoe khoang hơn người, vượt trội, coi trọng, ngõ hầu, coi sóc, mong mỏi ...

- nhung mã 戎馬: binh lính và ngựa chiến ,chỉ chung chuyện binh đao ,chiến tranh...

- tương thức 相識: người cùng quen biết nhau .

- tảo dĩ 早已: từ lâu, ngày xưa, đã lâu...
 

Bài 19

PHỤC SẦU (Kỳ tứ)                                                  復愁 (其四)  

Thân giác tỉnh lang tại,                                               身覺省郎在,

Gia tu nông sự quy.                                                    家須農事歸。

Niên thâm hoang thảo kính,                                       年深荒草徑,

Lão khủng thất sài phi.                                               老恐失柴扉。

Đỗ Phủ                                                                          
 

Dịch nghĩa: 

Biết là thân vẫn đang làm chức quan ở tỉnh. Việc nhà cần phải quay về với chuyện làm nông. Con đường nhỏ lâu năm cỏ mọc hoang. Người già lo sợ mất đi cánh cửa phên (ngoài cổng - mất đi cái nghèo!)! 

Tạm chuyển lục bát: 

LẠI SẦU (Bài bốn) 

Làm quan ở tỉnh biết thân,

Việc nhà về lại làm nông vẫn cần.

Cỏ hoang đường nhỏ lâu năm,

Tuổi già lo sợ mất tăm cửa sài! 

Chú thích:

- giác 覺: hiểu biết, thức giấc, tỉnh táo, hiểu ra, cảm nhận, tỏ rõ mọi điều, tỉnh ngộ....

- tỉnh lang 省郎: chức quan làm việc ở tỉnh ngoài kinh đô.

- tu 須: nên, cần phải, đợi , dừng lại, chốc lát, chậm trễ...

- kính 徑: lối tắt, đường mòn, đường nhỏ, phương pháp, đường lối, độ dài, đi thẳng, bèn...

- khủng 恐: lo sợ, sợ hãi, uy hiếp, khủng bố....

- sài phi 柴扉: cánh cửa nhà làm bằng phên tre hay đan bằng củi nhỏ. Chỉ nhà nghèo khó....

 

Bài 20 

PHỤC SẦU (Kỳ ngũ)                                             復愁(其五)   

Kim ti lũ tiễn thốc,                                                   金絲鏤箭簇,

Tạo vĩ xiết kỳ can.                                                    皂尾掣旗竿。

Nhất tự phong trần khởi,                                           一自風塵起,

Do ta hành lộ nan.                                                     猶嗟行路難。

Đỗ Phủ                                                                          

Dịch nghĩa:

Sợi tơ vàng quấn quanh mũi tên. Sợi màu đen cột xiết chặt ở đuôi của cán cờ. Một lần tự nhiên gió bụi nổi lên vẫn còn than thở đường đi khó khăn. 

Tạm chuyển lục bát: 

LẠI SẦU (Bài năm) 

Tơ vàng quấn quýt mũi tên,

Cán cờ đuôi cột mảng đen một màu.

Một lần gió bụi bắt đầu,

Vẫn còn than thở đường sao nhọc nhằn. 

Chú thích: 

- lũ 鏤: khe hở, thông qua, lổ hổng, chạm khắc bằng đồ kim loại...

- tiễn 箭 : mũi tên, đồ dùng tính giờ ngày xưa (lậu tiễn)...

- thốc 簇: mũi tên, quấn quanh, quấn quýt, xúm quanh, quấn chặt, gắn bó, sum họp....

- tạo 皂: màu đen, đồ để tẩy rửa, máng ăn gia súc....

- xiết kỳ can 掣 旗 竿: cột chặt nơi cán cờ... (cán: cây sào, cây tre, cành tre... dùng làm cán cờ, cán cuốc...)

- tự 自: tự mình, riêng tư, tự nhiên, sẵn có, vẫn cứ, mặc dù...

- khởi 起: bắt đầu, nổi dậy, đứng dậy, thức dậy, phát sinh, nổi lên...

- do 猶: vẫn còn, mà còn, cũng như, ngõ hầu, bởi, con do (tựa như loài khỉ)....

- ta 嗟: thương xót, than thở, ta thán, quát tháo, giây lát.....

 

Bài 21 

PHỤC SẦU (Kỳ lục)                                           復愁 (其六)   

Hồ lỗ hà tằng thịnh?                                             胡虜何曾盛,

Can qua bất khẳng hưu.                                       干戈不肯休。

Lư diêm thính tiểu tử,                                            閭閻聽小子,

Đàm tiếu mịch phong hầu.                                    談笑覓封侯。

Đỗ Phủ                                                                    
 

Dịch nghĩa:

Bọn giặc Hồ há có bao giờ lớn mạnh không? Binh đao, chiến tranh không thường

ngưng nghỉ! Nơi cổng làng nghe bọn trai trẻ bàn tán rồi chê cười chuyện tìm kiếm để được phong chức hầu làm quan. 

Tạm chuyển lục bát: 

 LẠI SẦU (Bài sáu) 

Giặc Hồ lớn mạnh phải không?

Binh đao vẫn mãi chưa ngừng lại đâu!

Cổng làng nghe trẻ xì xào,

Cười chê chuyện kiếm phong hầu chức quan! 

Chú thích:

- Hồ 胡: người Trung Hoa xưa kia thường gọi các dân tộc vùng phía bắc hay tây bắc là rợ Hồ với ý miệt thị, coi thường, tự cho người Hán là văn minh hơn họ! Người Hồ thường sống du mục trên các thảo nguyên và giỏi cưỡi ngựa chinh chiến. Họ thường tập họp đi đánh phá các vùng biên cương của các nước chung quanh như Trung Hoa.

- lỗ 虜: cách gọi quân địch là giặc, tù binh bị bắt gọi là lỗ, nô lệ, tôi tớ. Danh tướng nhà Lý của nước Đại Việt chúng ta là Lý Thường Kiệt từng viết: "Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm".

如何逆虜來侵犯 (Nam quốc sơn hà 南國山河) để chỉ bọn giặc từng xâm lược nước ta từ phương Bắc cả ngàn năm rồi và riêng thời nhà Lý!

- lư diêm 閭閻: cổng làng, cổng nhà, họp, ở...

- đàm tiếu 談笑 : bàn bạc ,cười chê , trò chuyện vui vẻ... 

** "Phục sầu" là chuỗi thơ gồm 12 bài được Đỗ Phủ sáng tác khi ở Quỳ Châu(767) lúc nhà Đường vừa dẹp xong loạn An Lộc Sơn lại bị giặc Thổ Phồn vùng phía tây xâm lấn ở vùng Thiểm Tây. Vì thế Đỗ Phủ vừa mới vui được lúc thanh bình lại sầu buồn vì chuyện giặc giã! 

(lần đến: 6 bài Phục sầu còn lại)

Dương Anh Sơn 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét