Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2025

Thơ Của Lý Bạch - Bài 112 Và 113

 


THƠ CỦA LÝ BẠCH - BÀI 112 VÀ 113
Thầy Dương Anh Sơn

THƠ CỦA LÝ BẠCH

Bài 112

LƯ SƠN DAO KÝ LƯ THỊ NGỰ HƯ CHU                            廬山謠寄盧侍御虛舟

Ngã bản Sở cuồng nhân,                                                            我本楚狂人,
Cuồng ca tiếu Khổng Khâu.                                                      狂歌笑孔丘。
Thủ trì lục ngọc trượng,                                                             手持綠玉杖,
Triêu biệt Hoàng Hạc lâu.                                                          朝別黃鶴樓;
Ngũ Nhạc tầm tiên bất từ viễn,                                                  五嶽尋仙不辭遠,
Nhất sinh hiếu nhập danh sơn du.                                              ㇐生好入名山遊。
Lư Sơn tú xuất Nam Đẩu bàng,                                                 廬山秀出南斗傍,
Bình phong cửu điệp vân cẩm trướng.                                      屏風九疊雲錦張;
Ảnh lạc minh hồ thanh đại quang,                                             影落明湖青黛光,
Kim khuyết tiền khai nhị phong trường,                                    金闕前開二峰長。
Ngân hà đảo quải tam thạch lương.                                           銀河倒挂三石梁,
Hương Lư, bộc bố dao tương vọng,                                           香爐瀑布遙相望。
Hồi nhai đạp chướng lăng thương thương.                                迴崖沓障淩蒼蒼,
Thuý ảnh hồng hà ánh triêu nhật,                                              翠影紅霞映朝日,
Điểu phi bất đáo ngô thiên trường.                                            鳥飛不到吳天長。
Đăng cao tráng quan thiên địa gian,                                          登高壯觀天地間,
Đại giang mang mang khứ bất hoàn.                                         大江茫茫去不還。
Hoàng vân vạn lý động phong sắc,                                            黃雲萬里動風色,
Bạch ba cửu đạo lưu tuyết sơn.                                                  白波九道流雪山。
Hảo vi Lư Sơn dao,                                                                    好為廬山謠,
Hứng nhân Lư Sơn phát.                                                            興因廬山發。
Nhàn khuy Thạch Kính thanh ngã tâm,                                     閑窺石鏡清我心,
Tạ Công hành xứ thương đài một.                                             謝公行處蒼苔沒。
Tảo phục hoàn đan vô thế tình,                                                  早服丸丹無世情,
Cầm tâm tam điệp đạo sơ thành.                                               琴心三疊道初成;
Dao kiến tiên nhân thái vân lý,                                                  遙見仙人彩雲裡,
Thủ bả phù dung triều Ngọc Kinh.                                            手把芙蓉朝玉京。
Tiên kỳ hãn mạn cửu cai thượng,                                              先期汗漫九垓上,
Nguyện tiếp Lư Ngao du Thái Thanh.                                       願接盧敖遊太清。
(năm 760)

Dịch nghĩa:

GỬI THỊ NGỰ LƯ HƯ CHU BÀI HÁT LƯ SƠN

Ta vốn là người ngông nước Sở, - Hát ngông nghêng để cười ông Khổng Khâu. – Tay cầm cây gậy ngọc xanh biếc, - Sáng sớm từ giã lầu Hoàng Hạc. (c.1-4)
Đi tìm tiên ở vùng núi Ngũ Nhạc chẳng thoái thác xa xôi, - Một đời ưa thích vào chơi vùng núi có tiếng! – Núi Lư đẹp đẽ hiện ra bên cạnh chòm sao Nam Đẩu, - Chín (vách núi) chập chùng như tấm ngăn gió phô bày làn mây gấm rực rỡ đẹp đẽ. (c.5-8)
Bóng (núi) rơi xuống làm hồ sáng lên với ánh sáng màu xanh thẫm, -
Cổng vàng mở ra phía trước với hai ngọn núi cao. – Giải ngân hà treo ngược như ba chiếc cầu bắng đá, - Ngọn Hương Lư ,thác nước chảy xuống như tấm vải nhìn nhau xa xa. (c.9-12)
Sườn núi quanh co chập chùng che chắn màu xanh thẫm tươi tốt, -Bóng màu xanh biếc, ráng hồng rực rỡ và ánh mặt trời chiếu sáng buổi sớm mai. – Chim bay không đến được bầu trời nước Ngô xa tít! – Lên cao nhìn xem khoảng không gian trời đất rộng lớn! (c.13-16)
Con sông lớn mênh mông chảy đi không quay lại! – Đám mây vàng (lớn) vạn dặm gió làm chuyển động những sắc màu. – Chín con sông sóng trắng xóa đổ xuống từ những ngọn núi tuyết, - Yêu thích mà làm bài ca dao núi Lư! (c.17-20)
Nhân hứng khởi với núi Lư mà làm ra, - Nhàn nhã trộm nhìn Thạch Kính cho lòng ta được trong sạch. - Nơi chốn đi lại của Tạ công (Tạ Linh Vận) rêu xanh thẫm đã che khuất! – Sáng sớm uống viên thuốc (tiên), tình đời không còn nữa! (c.21-24)
Cây đàn cầm trong lòng ba lần vang dội ,lẽ đạo mới vừa xong! – Từ xa đã thấy người cõi tiên với mây có tia sáng rực rỡ bên trong. – Tay cầm đóa hoa phù dung (đến) chầu Ngọc Hoàng ở kinh đô, - Cái hẹn trước không có gì ràng buộc ở trên chỗ hoang sơ ở ngoài chín châu. (c.25-28)
Mong muốn tiếp đón Lư Ngao rong chơi ở cung Thái Thanh (c.29)

Tạm chuyển lục bát:

BÀI HÁT LƯ SƠN GỬI THỊ NGỰ LƯ HƯ CHU

Người cuồng nước Sở: ta đây!
Hát ngông ,cười cợt người này Khổng Khâu!
Chống cây gậy ngọc biếc màu,
Sớm mai Hoàng Hạc rời lầu đi thôi.
Ngại gì Ngũ Nhạc xa xôi!
Núi non có tiếng thích chơi một đời.
Núi Lư, Nam Đẩu đẹp vời,
Ngăn che chín ngọn mây trời gấm buông.
Sáng ngời xanh thẫm hồ gương,
Núi dài hai ngọn, cửa vàng mở ra.
Ngược treo cầu đá Ngân Hà,
Hương Lư, thác nước xa xa cùng nhìn!
Quanh co núi thẫm chồng lên,
Sớm mai ánh biếc pha bên sắc hồng.
Trời Ngô, chim chẳng bay xong!
Lên cao nhìn khắp mênh mông đất trời!
Không về, sông rộng mãi trôi,
Mây vàng gió cuốn sắc vời dặm muôn.
Chín đường sóng bạc tuyết tuôn,
Bài dao yêu thích Lư Sơn đã làm.
Lư Sơn nhân hứng tuôn tràn,
Nhìn xem Thạch Kính lòng nhàn sạch trong.
Rêu xanh lấp dấu Tạ công,
Thuốc viên sớm uống còn đâu tình đời!
Đàn lòng ba khúc: đạo khơi,
Người tiên rực sáng mây trời xa xa!
Phù dung triều Ngọc dâng hoa,
Chín tầng đã hẹn bao la trên trời,
Lư Ngao cung Thái đón chơi....

Chú thích:

- Lư Sơn 廬山: còn được biết tên khác từ thời cổ đại là Khuông Lư 匡庐 hay Khuông Sơn 匡山. Đây là một dãy núi nổi tiếng nằm ở thành phố Cửu Giang, phía bắc Giang Tây gần hồ Bà Dương , Trung Hoa.
- dao 謠: bài hát không thành chương, khúc được lưu truyền trong dân gian như “ca dao 歌謠”, “dân dao 民謠”, “đồng dao 童謠”, “phong dao 風謠”; nghĩa khác: lời bịa đặt, không thật.
- thị ngự 侍御: tức chức quan Thị ngự sử (侍御史) thời nhà Đường của Lý Bạch hay thời nhà Tống, thuộc hàng Tòng Lục phẩm trở lên. Quan Thị Ngự thuộc Ngự sử đài(御史台) chuyên phụ giúp việc xét xử các quan vi phạm luật pháp triều đình, thẩm vấn các bị can thường gọi là đàn hặc (đàn hặc 弹劾) - cuồng nhân 狂人: người có tính ngông cuồng hay ngông nghênh ,cũng dùng chỉ người tính tình điên rồ ,thích làm những chuyện khác thường...
- Khổng Khâu 孔丘: tức Khổng Tử hay Khổng Phu Tử (551-479 TCN) được người Trung Hoa tôn xưng là Thánh Khổng hoặc: ”Vạn thế sư biểu“ ( Người thầy của ngàn đời ). Đây là một bậc hiền triết mẫu mực đã truyền dạy đạo Nho làm nền tảng cho sự phát triển nền văn minh tinh thần cũng như trụ cột cho các triều đình Trung hoa trước đây. Lý Bạch lại một nhà thơ với tư tưởng phóng khoáng, luôn đề cập đến Đạo giáo, chuyên tìm kiếm cuộc sống gần gũi với thiên nhiên hay đời sống của các vị thần tiên thoát tục hơn là những vấn đế nhân sinh của đạo Khổng.....
- thủ trì 手持: tay cầm nắm, tay giữ một đồ vật nào đó...
- triêu biệt 朝別: chia tay, từ biệt lúc sáng sớm...
- Hoàng Hạc lâu 黃鶴樓: lầu được dựng trên một ghềnh đá ở vùng Hoàng Hạc thuộc huyện Vũ xương, Hồ Bắc vào năm Hoàng vũ thứ hai đời nhà Ngô thời Tam quốc 923 SCN) đã 12 lần bị thiêu hủy và xây cất lại cũng như có thêm tầng. Lầu hiện nay được dời cách vị trí xưa cũ 1km.
- Ngũ Nhạc 五嶽: năm ngọn núi cao ở bốn hướng đông tây nam bắc với Tung Sơn ở giữa gồm: Đông Nhạc với Thái Sơn 泰山, Tây nhạc với Hoa Sơn 華山, am Nhạc với Hành sơn 衡山, Bắc Nhạc với Hằng Sơn 恆山, nằm giữa là Trung Nhạc với Tung Sơn 嵩山. Đó là những ngọn núi danh tiếng bên Trung Hoa có tên từ thời cổ đại.
- Nam Đẩu 南斗: hay là Nam Đẩu tinh 南斗星 hoặc Nam Đẩu Lục Tinh 南斗六星 là chòm sao có sáu ngôi sao thường xuất hiện trên bầu trời phía nam bán cầu tạo nên hình ảnh tựa như cái đấu (đẩu) hay cái gàu ,cái thùng múc nước hướng về phía nam ngược hướng với chòm sao Bắc đẩu.
- bình phong cửu điệp 屏風九疊: chín vách núi chồng chất lên nhau tạo nên tấm màn che chắn (bình phong) diễm ảo như làn mây gấm thêu rực rỡ dưới cái nhìn của Lý Bạch.
- vân cẩm trướng 雲錦張: làn mây như bức gấm thêu rực rỡ đang phô bày (trướng 張) cái đẹp.
- thanh đại quang 青黛光: bột chàm màu xanh thẫm (thanh đại) sáng rỡ (quang) làm phấn tô hay kẻ lông mày (đại) của phụ nữ.
- kim khuyết 金闕: các cửa cung ngày xưa có hai lầu hai bên, lối đi vào cung rộng rãi gọi là khuyết, thường vẫn gọi là cửa vàng.
- đảo quải 倒挂: treo ngược lên.
- lương 梁: xà nhà, cây cầu...
- Hương Lư 香爐: Hương Lư là một trái núi có dáng một lư hương đang tỏa khói ở vùng Lư Sơn.
- bộc bố 瀑布: thác nước (bộc 瀑) trắng xóa từ trên cao chảy xuống trông như tấm vải( bố 布) trải dọc được gọi là “bộc bố” (từ điển Thiều Chửu).
- hồi nhai 迴崖: vòng quanh ven núi.
- đạp chướng 沓障: chập chùng, nhiều chướng ngại cản trở..
- lăng 淩: vượt qua, trải qua, từng trải...
- thương thương 蒼蒼: màu xanh lục thẫm, màu xanh của cây cỏ tươi tốt, đầu tóc hoa râm...
- thúy ảnh 翠影: bóng màu xanh biếc như ngọc thúy...
- hồng hà 紅霞: ráng trời (hà) có màu hồng thắm..
- thiên trường 天長: bầu trời dài rộng, bao la...
- mang mang 茫茫: to rộng, mênh mông, mù mịt...
- bạch ba 白波: sóng bạc trắng ,sóng xô nhau trắng xóa (từ tuyết núi tan ra chảy ào xuống con sông tạo ra sóng bạc trắng...)
- hảo vi 好為: yêu thích mà làm ra, việc tốt đẹp, hay ho; làm tốt công việc, làm được việc tốt lành .
- phát 發: bật ra, trào ra, tuôn ra, mở ra, hứng khởi...
- khuy 窺: trộm nhìn, liếc qua để nhìn trộm lén lút nhìn...
- thạch kính 石鏡: mặt kính bằng đá. Đây chỉ mặt hồ nước trong vắt và phẳng lặng như tấm gương bằng đá (ngày xưa dùng đồng, thau bạc...v.v... được đánh bóng làm gương soi, nên trong chữ “kính” có bộ kim 金).
- Tạ công: Ông họ Tạ tức Tạ Linh Vận 謝靈運 (385-433) người vùng Dương Hạ( nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Hoa) nhưng sinh sống ở Cối Kê (nay là Thiệu Hưng, Chiết Giang. Lý Bạch chuộng thơ của họ Tạ vì hai người đều thích gần gũi thiên nhiên,thích cảnh sông núi đồng thời cách dùng từ ngữ lại tinh tế, sâu sắc, tả cảnh trí sơn thủy thường với ý tứ tươi sáng. Tạ Linh Vận nổi danh từ đời Tấn và Tống của thời Lục Triều. Tác phẩm chính của Tạ công là Tạ Khang Lạc Tập.
- tảo phục hoàn đan 早服丸丹: sáng sớm (tảo) uống (phục) viên thuốc ( hoàn đan: thuốc viên vo tròn!)
- vô thế tình 無世情: không còn nghĩ đến hay nói về tình đời...
- cầm tâm 琴心: đàn cầm ngày xưa thường dài 3 thước, 6 tấc (thước xưa của Trung Hoa) căng 7 dây đàn làm bằng tơ chắc. Còn Lý Bạch vượt lên trên để đàn với đàn cầm của cõi lòng thinh lặng cao vời!
- điệp 疊: thường dùngđể nói về núi non chập chùng trùng điệp nhưng cũng nói về sự lập đi lập lại của khúc đàn hay cung bậc cao thấp; nghĩa khác: sự vang dội, tầng lớp....
- đạo 道: khái niệm “Đạo” được Lý Bạch dùng ở câu này nên hiểu theo nghĩa của chữ Đạo của Lão Tử. Ai hiểu đạo hay chứng đạo chỉ người ấy biết vì nói theo Lão Tử: “Đạo khả đạo phi thường đạo 道 可 道 非 常 道 (老子-道德經, chương I”) [Đạo mà nói được là đạo không phải là đạo thường( đạo thường hằng, bất biến) Lão Tử - Đạo Đức Kinh, chương I]
- thái vân lý 彩雲裡: mây có ánh sáng rực rỡ ở bên trong...
- phù dung 芙蓉: tức hoa sen.
- Ngọc Kinh 玉京: theo đạo gia Kinh Ngọc hay là nơi ở của Ngọc Hoàng Thượng đế.
- tiện kỳ 先期: đã hẹn trước...
- hãn mạn 汗漫: phóng túng, không bị ràng buộc, mênh mông, bao la , không bờ bến...
- cửu cai 九垓: chín tầng trời hay chín châu, nơi Ngọc Hoàng lâm triều.
- nguyện tiếp 願接: mong muốn được nghênh đón...
- Thái Thanh 太清: theo đạo gia đây là một trong ba cung trên chốn thiên cung của Ngọc Hoàng ở gồm cung Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh...

Bài 113

Ô THÊ KHÚC                                                                           烏棲曲

Cô Tô đài thượng ô thê thì,                                                        姑蘇台上烏棲時,
Ngô vương cung lý tuý Tây Thi.                                               吳王宮裡醉西施。
Ngô ca Sở vũ hoan vị tất,                                                           吳歌楚舞歡未畢,
Thanh sơn dục hàm bán biên nhật.                                            青山欲含半邊日。
Ngân tiễn kim hồ lậu thuỷ đa,                                                    銀箭金壺漏水多,
Khởi khan thu nguyệt truỵ giang ba,                                         起看秋月墜江波,
Đông phương tiệm cao nại lạc hà.                                             東方漸高奈樂何。
(năm 726)

Dịch nghĩa:

Lúc con quạ đậu trên đài Cô Tô, - Trong cung ,vua nước Ngô đang đắm say với Tây Thi. – Bài hát nước Ngô ,điệu múa nước Sở cuộc vui chưa dứt! – Ngọn núi xanh sắp muốn ngậm nửa bên mặt trời! (c.1-4)
Mũi tên bạc, bầu đựng bằng vàng ,đồng hồ nước rỉ giọt nhiều! –Đứng lện nhìn vầng trăng thu rơi rụng xuống con sóng trên sông. – Hướng đông ( hướng mặt trời mọc) dần dần lên cao, sao có thể vui sướng được đây! (c.5-7)

Tạm chuyển lục bát:

KHÚC HÁT VỀ CON QUẠ NGHỈ NGƠI.

Cô Tô quạ đậu trên đài,
Vua Ngô cung cấm say Tây Thi rồi!
Ca Ngô ,múa Sở chưa ngơi!
Núi xanh ngậm nửa mặt trời bên nao.
Bình vàng ,tên bạc nước hao!
Nhìn trăng thu rụng, chìm vào sóng sông.
Vui chi! Trời đã hừng đông!

Chú thích:

- thê 棲: đậu lại, nghỉ ngơi, ở lại để nghỉ...
- Cô Tô đài 姑蘇台: theo truyền sử , đài Cô Tô do vua Ngô Hạp Lư 吳阖闾 và con là Ngô Phù Sai 吳夫差 tiếp nối nhau cho xây dựng ở núi Cô Tô (nay thuộc đô thị tô Châu, Giang Tô, Trung Hoa) cách kinh đô nước Ngô khoảng 35 dặm và lấy tên núi đặt cho tên đài. Ngô Hạp Lư cho xây cất đài để “xuân hạ du yên 春夏游焉“ (mùa xuân, mùa hạ đến vui chơi ở đó). Đến thời người con Phù Sai cho mở rộng phạm vi, đài cao lên 300 trượng, chân đài 84 trượng cùng cảnh quan chung quanh. Nhưng vận mệnh của Ngô Phù Sai lại gắn liền với người đẹp Tây Thi cùng với nơi hưởng lạc là đài Cô Tô ! Khi Việt vương Câu Tiễn 越王勾践 bị thua trong cuộc chiến với Ngô vương Phù Sai,mưu thần Phạm Lãi 范蠡 đã hiến kế chọn mỹ nhân Tây Thi 西施, dạy cho ca múa và nhiều nghề của cung nữ rồi đem dâng cho Phù Sai. Đồng thời kiếm nhiều loại gỗ to quý hiếm để Phù Sai xây dựng đài Cô Tô.Trong đài cho làm “Xuân tiêu cung 春宵宫” có sức chứa cả ngàn người. Xây đài xong, Ngô Phù Sai thường ra ở đài Cô Tô vui chơi, đắm say người đẹp Tây Thi bỏ bê việc triều chính. Trung thần Ngũ Tử Tư 伍子胥 đem lời can gián Phù Sai đã bị giết chết. Phía bắc quân Tề đang hăm he tiến đánh trung nguyên mở rộng biên cương. Nhân cơ hội đó, Việt vương Câu Tiễn tập họp binh lính khởi đánh quân Ngô từ Giang Hoài 江淮.
Quân Ngô bị thua trận, Phù Sai phải tự sát. Đài Cô Tô bị đốt, lửa bùng cháy nguyên cả tháng trời!
- hoan vi tất 歡未畢: vui thú chưa dứt, vui mãi chưa xong...
- dục hàm 欲含: sắp sửa, muốn ngậm vào...
- biên nhật 邊日: ngoài viền của mặt trời, phía bên của mặt trời...
- lậu thủy 漏水: một loại đồng hồ xưa làm bằng ống đồng đựng nước chảy nhỏ giọt có khắc vạch hay dấu để tính giờ. Lậu thủy đa: nước giọt ra nhiều cho thấy thời gian trôi qua nhanh...
- khởi khan 起看: đứng lên để nhìn....
- đông phương tiệm cao 東方漸高: phía đông ,mặt trời dần dần lên cao...
- nai lạc hà? 奈樂何: sao lại có thể (nai) vui sướng được?

(Lần đến: THƠ CỦA LÝ BẠCH – Bài 114 và 115)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét