CHUYỆN CHỮ NGHĨA
Lê Đức Luận
Ông Hoài ơi! Ông gởi cho tôi bài viết “Chữ Cộng Sản” của Đoàn Xuân Thu làm tôi “ngứa bút”.
Trước 1975, khi được thuyên chuyển về Khối Giáo Dục Chính Trị ở Cục Chính Huấn, nhiệm vụ của tôi là viết truyền đơn, khẩu hiệu, biểu ngữ, nên phải tìm những chữ “dao to búa lớn”. Ngoài ra còn phải viết những bài liên quan đến thời sự chính trị như Hiệp định Ba Lê; biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa; các phong tục, tập quán và tín ngưỡng của người Campuchia…v…v… qua hình thức như một bài bình luận, phiếm luận hay khảo luận. Phải “giả dạng thường dân” - dấu “cái đuôi” cán bộ tuyên truyền cho bài viết có vẻ khách quan.
Thú thực, làm công việc này chẳng hứng thú gì - viết “cương” bị chúng chửi; viết “phiếm” chọc chúng thù; viết “sai” thì bị các quan lớn cho đi chỗ khác chơi. Thời ấy, viết một bài khảo luận phải đi tìm tài liệu mờ người ở các thư viện, chứ không phải sướng như bây giờ, chỉ bấm hỏi “ông Google” sẽ ra một đống dữ liệu - tha hồ tham khảo.
Sau năm 1975, bị ở trong tù chỉ tìm cách “cải thiện” cho cái bao tử bớt “quậy” để được sinh tồn. Khi được sang Mỹ thì lo kiếm tiền để ổn định đời sống và lo cho việc học hành của con cái. Chuyện chữ nghĩa cho đi chỗ khác chơi.
Nay con cái đã thành đạt, đời sống vật chất tạm đủ, lại nghĩ đến cái thân già - làm sao cho bớt “lú”- Thế là tôi viết lại cho cái đầu có việc làm.
Tôi chán viết bình luận, khảo luận hay phiếm luận, mặc dù trước đây là cái “nghề” của tôi. Bây giờ, tôi chọn viết “truyện ngắn”- mô tả thực trạng xã hội hoặc tưởng tượng những chuyện liên quan đến con người.
Truyện hay được người ta đọc - mình vui; truyện dở người ta vứt vào sọt rác - chẳng ai thắc mắc lôi thôi. Thế là cái tâm của mình được an lạc.
Khi viết vài truyện ngắn đầu tiên, tôi đưa cho nhà văn Uyên Thao xem (ông Uyên Thao là chỗ quen biết nhau từ lúc làm báo Sóng Thần). Ông ta bảo: “Đây là lối viết ‘truyện ký’ chứ chưa phải là truyện ngắn và văn phong còn đậm nét tuyên truyền.” Tôi cũng nhờ các bạn thân đọc để góp ý, phê bình cho các truyện ký của tôi được cải tiến…
Vì thế, tôi rất quan tâm chuyện chữ nghĩa...
Từ lâu, nhiều người đã đề cập đến vấn đề: “Giữ cho tiếng Việt trong sáng”. Nhưng oái oăm thay cái “ý thức hệ chính trị” chen vào làm cho tiếng Việt không những mất vẻ trong sáng mà còn sinh ra lắm chuyện trớ trêu.
Có những người cực đoan, phản đối dùng những chữ mà phía bên kia đã dùng, dù cho ý nghĩa của nó rất chính xác và hay về vần điệu, nhưng vì cố chấp, cứ giữ chữ “phe ta”, nhất định không dùng chữ “phe địch” - mặc dù “địch” với “ta” tuy hai mà một về mặt ngôn ngữ vì có truyền thống dân tộc lâu đời và cùng chung tiếng mẹ đẻ.
Nhớ lại những ngày sau 1975, mấy ông cộng sản miền Bắc đem vào miền Nam nhiều tiếng rất lạ như: khẩn trương, hồ hởi phấn khởi, đăng ký, hộ khẩu…Dân miền Nam mới nghe thấy lạ, nghe riết thành quen và hiểu ý nghĩa. Và rồi thừa thắng xông lên mấy ông Việt cộng muốn làm một cuộc “cách mạng rốt ráo” - “đổi mới tư duy”, nên cố triệt tiêu những di sản văn hóa của Miền Nam dưới nhiều hình thức như: đốt sách, đổi tên đường, đổi tên nhiều cơ sở đâm ra “lố bịch”. Lấy một thí dụ: Bảo Sanh Viện Từ Dũ đổi thành “Xưởng Đẻ Từ Dũ”* làm dân Sài Gòn “ú ớ!”
Về phía những người Việt tỵ nạn cộng sản đang sinh sống ở nước ngoài cũng cực đoan không kém. Đôi khi các nhà làm truyền thông, báo chí vô tình lặp lại những chữ của Việt cộng thường dùng hoặc cố ý dùng đúng những từ ngữ có ý nghĩa dù Việt cộng đã dùng, thì tức khắc bị một số người Việt trong cộng đồng tỵ nạn cộng sản “chụp” ngay cái “nón cối” lên đầu. Và rồi, tờ báo hay cơ quan truyển thông đó bị tẩy chay. Có một dạo, phong trào “chụp nón cối” lên cao làm cho người ta có cảm tưởng: ra ngõ là gặp “Vi xi - VC”.
Người Việt mình thường mang cái tật: đả kích chứ không chịu đả thông; cố chấp chứ không chịu cởi mở; cực đoan chứ không chịu dung hòa. Đó là cái bệnh làm cho văn hoá thiếu khởi sắc và ngôn ngữ kém phong phú, nếu không muốn nói làm cho nó “nghèo” đi.
Phải để cho văn hóa và ngôn ngữ mang tính độc lập và khách quan.
Nói như ông Đoàn Xuân Thu, tôi đồng ý (xin trích): “Tháng Tư, năm 1975, CSBV xâm lược chiếm được nước VNCH. Cùng với những thay đổi lớn về chính trị và xã hội, tiếng Việt cũng trải qua nhiều biến chuyển. Có chữ mới ra đời. Có hay; có dở - “Hay sống dai. Dở chết yểu.”
Trong bài viết này, tôi không có ý thâm cứu về chữ nghĩa - chuyện dài chữ nghĩa, tôi có ông bạn Đỗ Văn Phúc, mang cái biệt danh (nickname):
“Người Chẻ Chữ”. Ông ta có biệt tài “soi rọi” ý nghĩa từng chữ, từng câu, nên để ông ta đề cập đến vấn đề này sẽ sâu sắc hơn.
Tôi cũng không viết bài khảo cứu về ngôn ngữ mà chỉ thảo luận về “vấn đề sinh ngữ” để chúng ta có nhận định thông thoáng và cởi mở hơn khi bắt gặp một số chữ mới được nhà văn, nhà báo hay người làm truyền thông sử dụng.
Sinh ngữ chính nó là một thuật ngữ của ngôn ngữ, được loài nguời sử dụng để truyền đạt những tư tưởng trong giao tiếp để hiểu nhau qua tiếng nói.
Qua thời gian, ngôn ngữ có thêm chữ mới, và một số biến mất (cổ ngữ) theo trào lưu tiến hóa của xã hội. Bỡi thế, người ta thường bảo: “sinh ngữ là ngôn ngữ sống” đang được con người sử dụng hằng ngày trong cuộc sống.
Khi đọc các tiểu thuyết trước thời kỳ tiền chiến (những năm trước 1930-1945) như Ngọn Cỏ Gió Đùa của Hồ Biểu Chánh, hay tác phẩm Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, ta sẽ bắt gặp những chữ ngày nay ít người dùng (cổ ngữ) vì khó hiểu. Và khi đọc một số tác phẩm đương thời, các tác giả dùng những chữ rất mới lạ - ta phải xem xét cái “ngữ cảnh” tức là bối cảnh xã hội bao quanh nó mới hiểu hết ý nghĩa.
Cho nên chúng ta cần tỉnh táo và tôi đồng ý với cái kết luận trong bài “Chữ Cộng Sản” của ông Đoàn Xuân Thu là: “CS không có khả năng làm ra chữ. Ông bà mình mới làm ra chữ và chữ nó hay. Mình phải ráng dùng cho trúng.”
Ta thử xem ông bà mình đã làm ra chữ nghĩa như thế nào?
Ở đây tôi chỉ nêu lên tiến trình hình thành ngôn ngữ và chữ viết của tổ tiên một cách giản lược, chứ không chuyên khảo về ngôn ngữ Việt. Tiến trình đó trải qua năm giai đoạn:
1- Thời kỳ nguyên thủy không có hệ thống chữ viết riêng, nhưng có tiếng nói riêng.
2- Thời kỳ chữ Hán (漢字 Hán tự) từ Thế kỷ thứ 1 đến Thế kỷ thứ 12.
Trong hơn ngàn năm Bắc thuộc chữ Hán được dùng trong hành chánh, thi cử, văn học, tôn giáo.
3- Thời kỳ Hán Nôm từ thế kỷ 13 đến Thế kỷ 19, Tổ tiên ta sáng tạo ra chữ Nôm, kết hợp chữ Hán và bộ phận tạo âm để ghi lại tiếng Việt và được dùng rộng rãi trong văn học dân gian, thơ, truyện như: Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu; Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc…v…v… Nguời ta gọi đó là thời kỳ Nho học.
4- Chữ Quốc ngữ bắt đầu hình thành từ Thế kỷ 17 - Các giáo sĩ Ky Tô Giáo người Bồ Đào Nha, Ý, Pháp - khởi đầu là Giáo sĩ Francisco de Pina, tiếp theo Giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người có công lớn nhất trong việc sáng tạo dùng mẫu tự La tinh với cách ghi dấu âm sắc để ghi âm tiếng Việt. Ban đầu dùng cho việc giảng đạo, sau lan ra giáo dục và báo chí.
5- Chữ Quốc ngữ hiện tại bắt đầu từ Thế kỷ 20 đến nay.
Khi đặt được nền đô hộ trên nước ta, thực dân Pháp bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ trong giáo dục, hành chánh và thi cử. Giới trí thức Việt Nam như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của góp phần truyền bá chữ Quốc ngữ. Và ngày nay trở thành hệ thống chữ viết chính thức cho cả nước.
Xét thấy, trong một ngàn năm Bắc thuộc, người Tàu cố dùng chữ Hán để đồng hóa văn hóa và ngôn ngữ của nước ta, nhưng họ đã thất bại trước tinh thần tự chủ của dân tộc Việt Nam và tổ tiên ta đã “đồng hoá” chữ Hán thành ngôn ngữ Việt qua chuyển tải và tiếp nối của Nho học thành chữ có gốc Hán-Việt trong chữ Quốc ngữ. Ngày nay ngữ vựng tiếng Việt gốc Hán chiếm đa số trong văn viết và đã trở thành ngôn ngữ thuần Việt, như:
Chính trị (政治), Quốc gia (國家), Quan lại (官吏), Triều đình (朝廷), Hiến pháp (憲法), Chế độ (制度) …..
Có một số ít người Việt muốn loại bỏ những từ gốc Hán ra khỏi chữ Quốc ngữ. Nhưng điều đó không thể và không nên, vì từ ngữ Hán-Việt đã là thành phần cấu trúc ổn định, cốt lõi, phong phú và riêng biệt của tiếng Việt - đọc theo âm Việt, hiểu theo cách Việt, dùng trong bối cảnh Việt, và chúng đã chiếm đến sáu, bảy mươi phần trăm ngôn ngữ Việt.
Người Nhật cũng dùng chữ Hán (Kanji) nhưng đọc theo cách Nhật; người Đại Hàn dùng Hanja (chữ Hàn gốc Hán) nhưng phát âm tiếng Hàn. Họ đâu có mất gốc và lệ thuộc vào chữ Hán của Trung Quốc trên phương diện văn hóa.
Trước đây khi đất nước còn chia cắt (1954-1975) người miền Nam (Quốc gia) và người miền Bắc (Cộng sản) từng cố ý sử dụng từ ngữ khác nhau để chỉ cùng khái niệm về ý nghĩa và sự việc. Điều này phản ảnh không chỉ sự khác biệt ngôn ngữ (tiếng nói) mà còn biểu lộ ý thức hệ chính trị. Nêu lên một số thí dụ:
Chữ Miền Bắc (Cộng sản) Chữ Miền Nam (Quốc gia) máy bay lên thẳng = trực thăng (直 昇 ) tham quan (參 觀) = thăm viếng, khẩn trương = nhanh lên, sự cố = trở ngại, bất ngờ, sân bay = phi trường
Xem ra hai ông Miền Bắc và Miền Nam “nói khác mà chơi” chứ cả hai đều không bỏ được những chữ từ ngữ có gốc Hán-Việt.
Từ ngày đất nước hết cảnh phân chia, lại xảy ra cái cảnh “tán phét mà chơi” - ông “trong” chê ông “ngoài” mất gốc; ông “ngoài” chê ông “trong” lệ thuộc quan thầy (trong là người trong nước, ngoài là người ở nước ngoài).
Rồi một ngày, cả hai ông đều buồn ngơ ngẩn khi thấy cái tiếng của mình hay dùng, bỗng biến mất - không ai nói nữa! Đã nói sinh ngữ là ngôn ngữ sống được sinh ra để đáp ứng nhu cầu tiến hóa của xã hội loài người. Cho nên nó phải biến hóa cho phù hợp với hiện trạng xã hội. Nếu không nó sẽ chết yểu và trở thành cổ ngữ.
Ngoài ra, ngoại ngữ đã giúp tiếng Việt thêm phong phú khi đã Việt hoá một cách sống động và nói một cách nhuần nhuyễn như:
- Tiếng Pháp: chữ garage biến ra tiếng Việt là “ga ra”, moteur thành “mô tơ”, Chef thành “sếp”, mode thành “mốt”, crème thành “cà rem”....
- Tiếng Anh: OK thảnh “ô kê”, show thành “sô”. Sexy thành “xéc xi”, beby thành “bé by”, game thành “ghêm”, video thành vi đi ô….
- Tiếng gốc Chăm (Chàm): Panduranga thành “Phan Rang”, Hamu Lithit thành “Phan Thiết”, Ea Dran thành “Nha Trang”, Da Nak thành “Đà Nẵng”....
- Tiếng Ấn Độ: kari thành “cà ri”, qahwa thành “cà phê”(café tiếng Pháp), cha (tiếng Phạn cổ, Trung hoa mượn lại gọi là trà) đến Việt Nam thành “chè”....
- Tiếng Miên (Khmer): gốc Miên nói salôn (salon-tiếng Pháp) Việt hóa thành “sa-lông”(chỗ tụ họp - phòng khách), karan thành “cà ràng” (bếp lò đất nung dùng nấu ăn), Krama thành “xà rông”, Tuk Kha-mau thành “Cà Mau”, Srok Khleang thành “Sóc Trăng”....
Nêu lên một số thí dụ để thấy rằng: Ngôn ngữ là một sinh ngữ sống động, không ngừng tiếp nhận, biến đổi và thích nghi theo thời gian và dòng chảy trong giao lưu văn hóa. Cho nên cứ để nó phát triển theo nhu cầu.
Có một số người “khó tính” đang ở nước ngoài khi bắt gặp những từ ngữ rất hay nhưng bị một số người viết báo trong nước lạm dụng, làm cho họ có “dị ứng” với nó và rồi chối bỏ không dùng nữa thì rất uổng và thiệt thòi, như những chữ: hoành tráng, ấn tượng, bức xúc, nhạy cảm…v…v…
Ngày nay, một số người viết báo muốn khoa trương chữ nghĩa- chơi nổi, dùng chữ lạ…Nên ta thấy các chữ: hoành tráng, bức xúc, nhạy cảm, ấn tượng dùng không đúng chỗ làm cho nó trở thành sáo ngữ, vô duyên, vô nghĩa, như: cô dâu mặc áo cưới đẹp thì viết cô dâu mặc chiếc áo cưới “hoành tráng”; khi mất đôi dép cũng làm cho ‘bức xúc”...
Còn một đỉểm độc đáo trong ngôn ngữ Việt Nam là “nói lái”.
Các cụ đồ nho ngày xưa chơi chữ qua nói lái rất thâm thúy. Xin nhắc lại câu chuyện nhiều người đã nghe là bức hoành phi khắc bốn chữ nho rất đẹp “Đại Điểm Quần Thần” do một tay thâm nho tặng cho Thủ hiến Nguyễn Văn Tâm thời Pháp thuộc. Nguyễn Văn Tâm khoái lắm! Nhưng chuyển qua nghĩa chữ Quốc ngữ từng chữ: Đại là To, Điểm lả Chấm, quần thần là Bầy Tôi - Vậy ra nghĩa chữ nôm là: “Bầy Tôi To Chấm.”
Nói lái chữ: Bầy Tôi là Bồi Tây, To Chấm là Tâm Chó. Khi hiểu ra, Nguyễn Văn Tâm giận lắm, và cho hủy bức Hoành phi.
Trong tuyên truyền cũng có bài thơ nói lái rất hay, như:
“Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi!/ Chú khiên lên hết chiến khu rồi.
Thi đua chi nữa thua đi mãi / Kháng chiến chi hoài khiến chán thôi!”
Nói lái bằng thơ, có thể xếp Bà Hồ Xuân Hương vào hàng cự phách. Khi chọc phá các nhà sư, Bà làm thơ:
“Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc/ Trái gió cho nên phải lộn lèo”
“Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo/Hỏi thăm Sư Cụ đáo nơi neo?
Trong văn xuôi, Cụ Vương Hồng Sển cũng là môt tay nói lái có duyên.
Trong một truyện ngắn Cụ kể: “Khi đi du lịch sang Nhật với người bạn Pháp, vào khách sạn có những chiếc áo kimono màu mè rất đẹp, họ mặc thử - vừa xỏ tay vào, cái thân bồ tượng áo che không khuất - trống trước, trống sau - đứa nọ “lù coi”, đứa kia “lắc cọ”....”
Trong dân gian, khi tán gẫu chuyện đời, người ta cũng hay chêm vài tiếng nói lái cho có vẻ hóm hỉnh, nhẹ nhàng… như mời ăn món “mộc tồn”. Chữ nho mộc là cây, tồn là còn. Vậy “mộc tồn” là “cây còn”- nói lái thành “ con cầy” là mời ăn thịt chó, hay nói “hạ cờ tây - hạ cầy tơ” Ngày Tết các ông già hỏi thăm nhau, họ bảo: “chả thấy gì” nói lái thành “chỉ thấy già”.
Ngoài nói lái còn có những tiếng “lóng”. Tiếng lóng là cách nói riêng trong một tầng lớp hoặc nhóm người nào đó, nhằm chỉ để nói và hiểu nhau trong nội bộ. Nhưng rồi nó cũng lan truyền trong dân gian.
Ngày nay, trong nước có rất nhiều tiếng lóng, nếu không theo dõi thì khó hiểu hết ý nghĩa của câu chuyện, như: “đi phượt” là đi du lịch bụi đời (lúc đầu nó là tiếng lóng, bây gìở trở thành từ thông dụng). Năm ngoái đứa cháu mời tôi về thăm quê hương, nó nói: Về chơi một chuyến chú ơi! “Đẹp bao la”. Thỉnhh thoảng nó chêm tiếng “bao la”vào - tôi không hiểu hết. Còn những tiếng như: xui xẻo thì nói “xu cà na”; tố cáo hành vi xấu thì nói “bóc phốt”...
Trước năm 1975, dân Miền Nam cũng dùng nhiều tiếng lóng như: “xịn” có nghĩa là đồ tốt; “cà chớn” là lếu láo, “bề hội đồng”, “bỏ đi Tám” …v…v…
Tiếng “Bà Tám” hay “bỏ đi Tám”- trước kia tôi rất thích dùng tiếng này, khi gặp thằng bạn hay nói nhiểu, nói linh linh, tôi bảo: “bỏ đi Tám!” Nay đố ông Hoài tại sao không nói “Bà Năm, Sáu” hay “bỏ đi Chín, bỏ đi Mười” mà cứ dùng tiếng “Tám” là tại làm sao?
Nếu nghĩ chưa ra, thì pha ly cà phê nhâm nhi suy nghĩ… nếu còn bí thì xem “dân mạng” trả lời có hợp lý không.
Vốn tiếng “bỏ đi Tám” có ý bảo những tay hay nói nhiều hãy ngưng đi.
Như khi nghe bà vợ càm ràm một chuyện gì đó, mình không muốn nghe mà bả cứ nói miết - giận quá, nổi nóng mà nói: “Bà đừng nói nữa, tui chán lắm rồi” thì sinh chuyện ngay. Nhưng nói: “Bỏ đi Tám”. Bà vợ biết ý ngưng nói và bữa cơm chiều vẫn ngon lành.
Tôi cố tìm hiểu cái ý nghĩa sâu xa và ngọt ngào của tiếng “bỏ đi Tám.
Nên thấy có người đưa lên mạng như thế này: “Trước năm 1975, trên ra-đi-ô có chương trình ‘Bà Tám’ kể chuyện linh tinh cho con nít nghe.”
Có người bảo hồi xưa có tổng đài 108 chuyên trả lời mọi chuyên thắc mắc trên đời. Cho nên lấy tên “ Tám” Nhưng hai giả thuyết trên không thuyết phục bằng bài viết của một tay chuyên viết chuyện phiếm, tôi đọc được ở đâu đó, lâu ngày quên tên tác giả, nhưng nghe rất có lý.
Chuyện rằng: Người Sài Gòn xưa định danh giai cấp như sau:
1- Thứ nhất là quan quyền
2- Thứ hai: người có học - thầy thông, thầy ký.
3- Thứ ba: giới thương gia giàu có (Ba Tàu)
4- Thứ tư: đại ca trong giới giang hồ - tuy kiếm sống bằng nghề đâm
thuê chém mướn, nhưng giữ đạo nghĩa.
5- Thứ năm: giới lưu manh, móc túi, mại dâm…
6- Thứ sáu: Cảnh sát, Phú lít, Mã tà.
7- Thứ bảy: dân Chà Và Ấn Độ chuyên cho vay tiền và bán vải.
8- Thứ tám: Thành phần dân chúng đông đảo nhất trong xã hội, làm đủ thứ nghề tay chân lao động. Họ không ăn trắng mặt trơn như thầy thông, thầy ký; không giàu có như Ba Tàu; không bậm trợn như dân dao búa…
Do đó, họ yếu thế hơn, mỗi khi gặp chuyện bất hòa, họ thưởng khuyên nhau nhường nhịn - có tranh cãi cũng không hơn ai, nên dĩ hòa vi quý…
Và rồi người Sài Gòn nói gọn thôi “ bỏ đi Tám!”
Viết đến đây, tôi hình dung ra hình ảnh của ông: thần thái chán nản, đôi mắt lờ đờ, không còn muốn đọc những chuyện “bạn ta” bàn về chữ nghĩa nữa, và miệng ông lẩm bẩm: thôi “bỏ đi Tám!”
Vậy thì tôi ngưng gõ (phím). Chúc ông ngủ ngon…
LÊ ĐỨC LUẬN
(Tháng 7- 2025)
*Chuyện đổi tên này thì người bảo có, kẻ nói không. Tìm trên Widipedia tiếng Việt được biết Lịch sử hình thành bệnh viện này từ năm 1923 - mang những tên khác nhau qua tửng thời đại: Đầu tiên mang tên: Bảo Sanh Viện Đông Dương (Maternité Indochinoise)... Đến năm 1948 được đổi tên là Bảo Sanh Viện Từ Dũ cho đến 1975. Đến ngày 8-4-2004, bệnh viện được đổi tên Bệnh Viện Từ Dũ. Trong khoảng thời gian sau năm 1975 đến 2004 không thấy Wikipedia nêu tên gì. Nhưng rất nhiều bài viết cho biết: Từ năm 1978 Bảo Sanh Viện Từ Dũ đổi tên là “Xưởng Đẻ Từ Dũ” cho đến ngày 8-4-2004 mới đổi tên là Bệnh Viện Từ Dũ. Như vậy, Bệnh viện này có 26 năm mang tên “XƯỞNG ĐẺ TỪ DŨ”.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét