Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2025

Thơ Của Tô Đông Pha - Bài 50, 51 Và 52

 


THƠ CỦA TÔ ĐÔNG PHA - BÀI 51, 52 VÀ 53
Thầy Dương Anh Sơn

THƠ CỦA TÔ ĐÔNG PHA

Bài 50

CÁT TƯỜNG TỰ                                                                      吉祥寺
TĂNG CẦU CÁC DANH                                                         僧求閣名

Quá nhãn vinh khô điện dữ phong,                                            過眼榮枯電與風,
Cửu trường na đắc tự hoa hồng.                                                久長那得似花紅。
Thượng nhân yến toạ quan không các,                                      上人宴坐觀空閣,
Quan sắc quan không sắc tức không.                                         觀色觀空色即空。
Đông Pha cư sĩ                                                                           東坡居士

Dịch nghĩa:

Đi qua trước mắt sự tươi tốt hay héo khô như tia chớp lẹ làng cùng cơn gió, - Làm sao như đóa hoa hồng (tươi tốt) được dài lâu?! – Các bậc trên ngồi an nhiên ngắm nhìn căn lầu trống không, - Xem cái “sắc” ngắm cái “không”, và thấy “sắc chính là không”!

Tạm chuyển lục bát:

CHƯ TĂNG CHÙA CÁT TƯỜNG
XIN ĐẶT TÊN CHO CĂN GÁC.

Tươi, khô gió thổi chớp mau!
Làm sao để được dài lâu đóa hồng!?
Tăng ngồi thong thả lầu không,
Nhìn “không”, xem “sắc” “sắc không “ chính là!

Chú thích:

** Chùa Cát Tường 吉祥寺 trong bài thơ này của Tô Đông Pha là ngôi chùa ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Suốt thời làm Thông phán Hàng Châu (khoảng 1071–1074), ông nhiều lần đến chùa này và đã có hai bài “Cát Tường Tự thưởng mẫu đơn 吉祥寺赏牡丹” ( Thưởng thức hoa mẫu đơn ở chùa Cát Tường), hoặc “ Đông chí nhật độc du Cát Tường Tự 冬至日独游吉祥寺” (Ngày đông chí, một mình đến chơi chùa Cát Tường), nên “Cát Tường tự” ở đây chính là chùa Cát Tường ở Hàng Châu, khu vực ven Đại Vận Hà, Trung Hoa. Hiện nay nơi vùng này vẫn còn mang tên chùa cũ.
- quá nhãn 過眼: qua đi trong mắt, vượt qua trước mắt....
- vinh khô 榮枯: sự tươi tốt, phồn vinh rồi cũng đi đến sự khô héo tàn tạ. Nghĩa khác chỉ sự vô thường của muôn vật muôn loài... v.v...
- điện dữ phong 電與風: tia chớp nhanh như điện cùng với gió (thổi lẹ làng). Trong đạo Phật dùng chữ sát na để chỉ thời gian nhanh chóng hơn một chớp mặt!
- na đắc 那得: làm sao được; na: nhiều, nào, gì, đó (câu hỏi), an nhàn... (na kham: chịu sao được, na xứ: chỗ nào...)
- Câu1+ 2: mọi việc trong đời hay trong vũ trụ đều biến chuyển khôn lường nhanh chóng: tốt tươi rồi cũng đến khi tàn lụi. Đóa hoa hồng làm sao bền vững lâu dài được! Dầu tươi thắm và dầu tốt đẹp nhất thời, đóa hồng không thể mãi tươi tốt lâu dài, sẽ đến lúc khô héo lụi tàn theo quy luật vô thường.
Đây là tư tưởng “Vạn pháp giai vô thường 萬法皆無常 nền tảng của tư tưởng đạo Phật.
- thượng nhân 上人: các bậc trên, người trưởng thượng. Ở đây chỉ các nhà sư bậc trên của ngôi chùa cùng khách mời là Đông pha cư sĩ - yến 宴: trong mạch văn của câu thứ 3 này có nhiều nghĩa như an nhiên, an nhàn, thảnh thơi, yên nghỉ, yên ổn, vui vẻ, yến tiệc, bày tiệc, mở tiệc... . Ở đây, chư tăng ngồi (trong thiền môn gọi là tĩnh tọa) thong thả, nhàn nhã để đón vị khách quý là Đông Pha cư sĩ, xin đặt tên cho cái lầu gác trong chùa. Trong ngôn ngữ chốn thiền môn,chữ “yến” hiểu như là “mở tiệc”, ”bày tiệc” trong đời thường hầu như không dùng đến. Nếu có ,chỉ là bữa cơm chay (trai phạn 齋飯 ) thiết đãi khách chứ không dùng từ chỉ yến tiệc. Ở đây là buổi đàm đạo với các nhà sư tĩnh tọa an nhiên ,nhàn nhã theo một nghĩa khác của chữ “yến” để xin nhà thơ Tô Đông Pha đặt tên cho căn gác của chùa....
- quan không các 觀空閣: ba từ cuối của câu 3 có hai ý: a/ ngắm nhìn, xem xét (quan) căn gác lầu trống trơn (không 空) (vì trống trơn nên làm gì có tiệc để bày ra!..). b/ Mặt khác, cũng có thể hiểu là “Gác ngắm hư không” để các thiền sư quán chiếu và nhận thức về tinh thần “tánh không “ (sunyata) trong tư tưởng đạo Phật. Một người am tường đạo Phật như Tô Đông Pha khi dùng từ luôn cho thấy sự am hiểu sâu sắc của ông. [Đông Pha cư sĩ 東坡居士 là biệt danh ông dùng khi bị biếm trích ra Hoàng Châu 黃州 (Hồ Bắc) khai khẩn vùng đất ở sườn đồi phía đông (Đông Pha) để trồng trọt, làm một ẩn sĩ thanh nhàn, thoát tục ở vùng đất Hoàng Châu. Hơn thế nữa, từ “cư sĩ 居士”, trong nhà Phật dùng chỉ những người có thể vẫn giữ giới, vẫn hành thiền và tu tập Phật pháp nhưng vẫn sống đời sống có gia đình bình thường mà không cần xuất gia. Chính biệt hiệu này luôn gắn liền cuộc đời và nhân cách của Tô Thức 蘇軾....]
- Câu 3+4: từ ý nghĩa của câu 3 với chú thích “yến “ bên trên, dẫn dắt đến câu thơ cuối của bài này (câu 4) mang đậm tinh thần của Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh 般若波羅蜜多心經 của đạo Phật (Đại thừa) khi nhà thơ mượn nguyên ý của một đoạn quan trọng của Tâm kinh: “Sắc bất dị không,không bất dị sắc; sắc tức thị không ,không tức thị sắc 色不異空,空不異色;色即是空,空即是色。Đây là đoạn kinh then chốt diễn đạt tư tưởng cốt lõi của Phật giáo Đại thừa là tư tưởng “Tánh Không”(Sunyata).”Sắc 色”chỉ thế giới của hiện tượng, của vật chất như thân thể, hình tướng... v.v... mà ta có thể nghe, thâý, chạm vào (Cảm xúc)... “Sắc uẩn” là uẩn đầu tiên trong “ngũ uẩn 五蘊” (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức – Sắc uẩn gồm ngũ căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và trần cảnh bao gồm: sắc, thanh, hương, vị, xúc). Nói chung, “Sắc” bao gồm cảnh giới vật chất... v.v... Còn “Không 空” không có nghĩa là “trống rỗng ,hư vô” mà là “tánh không” do nhân duyên hòa hợp mới có. Từ đây, do “duyên khởi”, từ “tánh không” lại hình thành mọi hiện tượng của “sắc”. Chỉ những bậc giác ngộ rôt ráo, đích thực mới chấm dứt được vòng quay của luân hồi và bước vào con đường giải thoát thực sự!. Đây là những vấn đề cần phải đào sâu và nhất là rất cần thiết bước vào con đường tu tập thực sự may ra mới hiểu trọn vẹn ý nghĩa của cõi đạo vô cùng...
- tức 即: có nghĩa “chính là” viết tắt của chữ “tức thị 即是” (Sắc chính là Không)
- Ý nghĩa chung 4 câu thơ: Nhà thơ đi từ sự nhận thức sự VÔ THƯỜNG (2 câu đầu) để rồi bằng tinh thần an nhiên tự tại nhận ra (giác ngộ) TÍNH KHÔNG của vạn pháp (vạn pháp giai không 萬法皆空” do nhân duyên sinh khởi 因緣生起......

Bài 51

THIÊN TRÚC TỰ                                                                    天 竺寺

Hương Sơn cư sĩ lưu di tích,                                                      香山居士留遺跡,
Thiên Trúc thiền sư hữu cố gia.                                                 天竺禪師有故家。
Không vịnh liên châu ngâm điệp bích,                                      空詠連珠吟疊璧,
Dĩ vong phi điểu thất kinh xà.                                                    已亡飛鳥失驚蛇。
Lâm thâm dã quế hàn vô tử,                                                       林深野桂寒無子,
Vũ ấp sơn khương bệnh hữu hoa.                                              雨浥山姜病有花。
Tứ thập thất niên chân nhất mộng,                                             四十七年真㇐夢,
Thiên nhai lưu lạc lệ hoành tà.                                                   天涯流落淚橫斜。
Đông Pha cư sĩ                                                                           東坡居士

Dịch nghĩa:

Hương Sơn cư sĩ từng để lại dấu tích (nơi này), - Thiền sư Thiên Trúc đã có căn nhà xưa cũ (nơi đây). – Chuỗi hạt vịnh “không” ngâm ngợi (như) những viên ngọc biếc chồng chất lên nhau! – Đã vắng các loài chim chóc bay đi mất,cũng không còn loài rắn sợ hãi! (c.1-4)
Rừng sâu loài quế hoang lạnh lẽo không chết đi!,- Mưa thấm đẫm (nuôi dưỡng)cây gừng núi, ốm đau đã có các loài hoa! – Bốn mươi bảy năm thật là một giấc mộng, - Chân trời trôi dạt, lệ tuôn xối xả!(c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

CHÙA THIÊN TRÚC.

Hương Sơn cư sĩ dấu bày,
Thiền sư Thiên Trúc nhà đây xưa còn.
Ngâm trùng chuỗi bích, vịnh “Không”,
Chim bay mất dạng ,hãi hùng rắn tuôn!
Quế hoang rừng lạnh còn luôn,
Ốm đau hoa núi ,gừng non mưa dầm.
Một cơn mộng,bốn bảy năm!
Chân trời trôi dạt đầm đìa lệ rơi!
.
Chú thích:

- Thiên Trúc Tự 天竺寺: ngôi chùa nổi tiếng ở Hàng Châu , Trung Hoa. Chùa tọa lạc ở huyện Cám Châu, Giang Tây,Trung Hoa. Chùa xưa vốn có tên là Tu Cát 修吉 được xây dựng bởi các sư từ bên Ấn Độ sang . [Trung Hoa xưa thường gọi người Ấn Độ là người Thiên Trúc].Về sau ,Thao Quang đại sư là cao tăng nhà Đường di chuyển sang Hàng Châu,gần sông Tiền Đường, đổi tên thành Thiên Trúc tự.
- Hương Sơn cư sĩ 香山居士 : là tên hiệu của nhà thơ Bạch Cư Dị 白居易 (772-846), biểu tự là Lạc Thiên 樂天 hiệu Túy ngâm tiên sinh 醉吟先生 hay Quảng Đại giáo hóa chủ 廣大教化主 nổi tiếng thời nhà Đường chỉ đứng sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Ông đậu tiến sĩ năm 800 được bổ làm quan chức Tả Thập Di rồi vì mâu thuẫn với tể tướng Lý Lâm Phủ,ông bị đổi làm Hộ tào tham quân. Do việc hạch tội những chuyện sai trái trong triều ,năm 815 ông bị đổi làm Tư Mã Giang Châu, năm 822 làm Thứ sử Hàng Châu, năm 825 làm Thứ sử Tô Châu. rồi được triệu về kinh đô làm Thái Tử thiếu phó. Năm 842 ông về hưu và mất tại vùng Hương Sơn ,Lạc Dương. Khi còn làm quan ông từng đến chùa Thiên Trúc và có thơ lưu lại ở đây. Ông có những bài thơ nổi tiếng như Trường Hận ca, Tỳ Bà Hành, Tần Trung Ngâm... v.v... Có thể thấy việc Bạch Cư Dị tìm đến với đạo Phật sau những thăng trầm trong cuộc đời như là một chỗ dựa tinh thần vững chắc trong cách nhìn đời và tham dự vào cuộc sống.
- Câu 2: người xưa và cảnh cũ đã đổi thay chỉ còn âm vang của hoài niệm, vịnh trong hư không vắng lặng với tiếng chuỗi tràng hạt (liên châu) cùng lời ngâm của thi nhân thuở nào và bây giờ chất chồng trùng điệp như những viên ngọc bích ngời sáng qua thời gian....
- câu 4: cảnh chùa bây giờ với những các hình ảnh sinh đông của cánh chim thuở nào đã bay mất và loài rắn hãi sợ cũng không còn như là những hoài niệm môt thời đẹp đẽ đã qua...
- câu 5: trong chốn rừng sâu quanh chùa, những cây quế hoang dầu lạnh giá vẫn không chết ,vẫn còn sức sống tiềm tàng để tiếp tục sinh sôi nẩy nở.
- câu 6: mưa dầm dề ,đẫm ướt nuôi cây gừng núi để đơm hoa,dưỡng củ và mang lại những phương thuốc đơn giản để các sư và dân chúng quanh chùa có thể dùng trị bệnh....Câu thơ này cũng nói lên tâm trạng của Tô Đông Pha dù trong cảnh biếm trích nghèo khó, vất vả vẫn vững tin vào sức sống của con người và cây cỏ ,vẫn làm thơ vịnh hoa thưởng nguyệt...
- câu 7 và 8: tâm trạng buồn thương của nhà thơ khi nhìn lại cuộc đời lưu lạc, dời đổi, gian nan của mình như môt giấc mộng. Và toàn bộ bài thơ với những hình ảnh đổi thay ,nhà thơ đã cho thấy nỗi niềm của mình trước sự vô thường của cuộc sống và chính bản thân nhà thơ....

Bài 52

PHÁP HUỆ TỰ                                                                          法惠寺
HOÀNH THÚY CÁC                                                                橫翠閣

Triêu kiến Ngô Sơn hoành,                                                        朝見吳山橫,
Mộ kiến Ngô Sơn tung.                                                              暮見吳山縱。
Ngô sơn cố đa thái,                                                                    吳山故多態,
Chuyển trắc vị quân dung.                                                         轉側為君容。
U nhân khởi chu các,                                                                  幽人起朱閣,
Không động cánh vô vật.                                                           空洞更無物。
Duy hữu Thiên Bộ Cương,                                                         惟有千步岡,
Đông tây tác liêm ngạch.                                                           東西作簾額。
Xuân lai cố quốc quy vô kỳ,                                                      春來故國歸無期,
Nhân ngôn bi thu xuân cánh bi.                                                 人言悲秋春更悲。
Dĩ phiếm Bình Hồ tư Trạc Cẩm,                                                已泛平湖思濯錦,
Cánh khan Hoành Thuý ức Nga Mi.                                          更看橫翠憶峨眉。
Điêu lan năng đắc kỷ thời hảo,                                                  雕欄能得幾時好,
Bất độc bằng lan nhân dị lão.                                                     不獨憑欄人易老。
Bách niên hưng phế cánh kham ai,                                            百年興廢更堪哀,
Huyền tri thảo mãng hoá trì đài.                                                懸知草莽化池臺。
Du nhân tầm ngã cựu du xứ,                                                      遊人尋我舊遊處,
Đãn mịch Ngô sơn hoành xứ lai.                                               但覓吳山橫處來。

Dịch nghĩa:

Buổi sáng, thấy núi Ngô nằm ngang, - Buổi chiều,thấy núi Ngô nằm dọc. – Núi Ngô vốn có nhiều dáng vẻ, - Chuyển đổi dáng vẻ do anh tạo nên. (c.1-4)
Người ở ẩn đứng nơi căn gác màu son, - Hang động trống trơ, lại thêm không có vật gì! – Chỉ có Thiên Bộ Cương , - Từ đông sang tây tạo nên một bức rèm ngang (như bức hoành phi) treo lên. (c.5-8)
Lúc mùa xuân đến, không biết khi nào trở về quê nhà xưa? – Người đời thường nói mùa thu buồn ,(nhưng) khi xuân (đến) càng buồn hơn ! – Ôi! Khi đi thuyền lênh đênh nơi Bình Hồ lại nghĩ đến Trạc Cẩm, - Càng ngắm Hoành Thúy lại (càng) nhớ Nga Mi. (c.9-12)
Lan can có thể chạm khắc sẽ được bao nhiêu thời còn tốt đẹp? - Không riêng người đang dựa lan can cũng thay đổi già đi! – Trăm năm thịnh lên rồi phế tàn càng chịu nỗi buồn đau! – Biết đâu (rồi đây) nơi những bụi cỏ hoang dại lại hóa nên ao đài! (và ngược lại)(c.13-16)
Người đi chơi tìm ta ở nơi xưa trước (ta) từng ghé chơi, - Hãy tìm (ta) đến nơi núi Ngô vắt ngang!

Tạm chuyển lục bát:

GÁC HOÀNH THÚY
Ở CHÙA PHÁP HUỆ.

Núi Ngô sáng thấy nằm ngang,
Núi Ngô hình dọc lúc sang buổi chiều!
Núi Ngô dáng vẻ cũng nhiều!
Làm thay đổi dáng đều từ anh thôi!
Gác son người ẩn đứng nơi,
Càng không đồ vật,hang thời trống thay!
Có gò Thiên Bộ Cương này!
Rèm treo tạo dựng đông tây bức màn.
Về quê không hẹn, xuân sang!
Nói thu buồn bã, xuân càng buồn sao!
Bình Hồ,Trạc Cẩm mong nhau,
Càng nhìn Hoành Thúy, nhớ nào Nga Mi.
Lan can khắc đẹp bao thì?
Không riêng người dựa, già đi đổi dời!
Trăm năm hưng phế thương ôi!
Biết đâu cỏ dại hóa nơi ao lầu!
Khách tìm chốn cũ – ta đâu?
Non Ngô dãy núi ngang nào tìm thôi!

Chú thích:

** Đây là một bài thơ làm theo lối cổ phong bao gồm 8 câu “ngũ ngôn cổ phong 五言古風”phối hợp cùng 10 câu “thất ngôn cổ phong 七言古風” mà ta hay gọi là cổ thể thi 古體詩 hay cổ thi 古詩.....
- Pháp Huệ Tự 法惠寺 : môt ngôi chùa cổ xưa bên Trung Hoa tên là Hưng Khánh có từ thời Ngũ Đại ở vùng Hàng Châu do Ngô Việt vương Tiền Khởi cho xây dựng . Các đời sau đổi tên là Pháp Huệ, nơi có gác tên là Hoành Thúy Các 橫翠閣 (Gác nhìn ra xa thấy dãy núi nằm ngang xanh biếc của dãy núi Ngô Sơn)
- cố đa thái 故多態: vốn có nhiều dáng vẻ, hình thái...
- chuyển trắc 轉側: nằm nghiêng bên cạnh và thay đổi luôn...
- vi quân dung 為君容: dáng dấp, dung mạo hay vẻ dáng. (dung) của đối tượng (tùy theo trạng thái tâm lý) là do bởi anh. Hay nói đơn giản là tâm trạng của người nhìn đối tượng sẽ định hình cái thấy... VD: “Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa. Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu ?” (c.1047, 48, 49 và 50 – Đoạn Trường Tân Thanh)
- u nhân khởi 幽人起: người ở ẩn bắt đầu đứng lên (khởi)...
- chu các 朱閣: gác màu son,màu đỏ hồng...
- câu 5: tác giả thường ghé thăm chùa Pháp Huệ và đã đứng trên gác có màu son để ngắm dãy núi Ngô xanh biếc.
- câu 6: từ cảnh nhìn từ chùa, nhà thơ trở về trong cảnh biếm trích phải ở tạm trong hang động trống trơn chẳng có đồ vật gì
- cánh vô vật 更無物 : lại thêm không có vật gì cả...
- Thiên Bộ Cương 千步岡: Thiên Bộ Cương (gò đồi dài ngàn bước chân) là tên một gò núi không xa trung tâm Hàng Châu,Trung Hoa nơi có Pháp Huệ Tự và núi Ngô 吳山 thường được các du khách và các nhà thơ đến thưởng lãm...
- tác liêm nghạch 作簾額: làm nên một bức mành (rèm) treo....
- cố quốc quy vô kỳ 故國歸無期: quê cũ không hẹn lúc quay trở về...
- xuân cánh bi 春更悲 : mùa xuân (đến) lại càng buồn hơn...
- dĩ phiếm Bình Hồ 已泛平湖: ôi! từng đi thuyền lênh đênh (phiếm) trên Bình Hồ (hồ phẳng lặng). - Bình Hồ là tên gọi xưa cũ của Tây Hồ 西湖 ở Hàng Châu bên Trung Hoa .Trong sách “Hàng Châu Chí 杭州志” cũng có ghi: ”Tây Hồ từng được gọi là Bình Hồ, Tiền Đường Hồ, Minh Hồ”. Do mặt nước của Tây Hồ thường phẳng lặng nên dân gian quen gọi là Bình Hồ... [chữ dĩ 已 đặt đầu câu là thán từ: ôi, chà, chao ôi, tương tự chữ “ai” 哎 tự, nếu đặt cuối câu nghĩa sẽ tương tự chữ “hĩ” 矣 biểu thị khẳng định ,cảm thán hay nghi vấn. V.D: thương thay, vậy... v.v...]
- Trạc Cẩm 濯锦: tức Trạc Cẩm Giang 濯锦江, nhánh sông nổi tiếng chảy qua Thành Đô ,tỉnh Tứ Xuyên rất trong trẻo nên có thể giặt được gấm quý (trạc: giặt giũ; cẩm: gấm quý). Hai địa danh này được Tô Đông Pha nói đến có ý nghĩa : Từng đi thuyền trên Bình Hồ chợt nghĩ đến ,nhớ mong sông Trạc Cẩm ở quê nhà thuộc đất Thục cũ, Tứ Xuyên 四川...
- Nga Mi 峨眉: là một ngọn núi nằm ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa còn được gọi Đại Quang Minh Sơn (cao 3099 mét) trên khu vực ven phía tây của lòng chảo Tứ Xuyên hướng về cao nguyên Thanh Tạng của Tây Tạng thường được gọi là Đại Tượng Lĩnh. Núi Nga Mi có đỉnh cao nhất là đỉnh Vạn Phật nằm trong dãy Kim Đỉnh. Núi Nga Mi là một trong “Tứ đại Phật giáo danh sơn”....
- thảo mãng hóa trì đài 草莽化池臺: loài cỏ hoang dại rậm rạp rồi sẽ thay đổi hóa thành nơi có ao hay đài lầu của kẻ quyền thế. Và ngược lại ao đài có lúc cũng thành nơi cỏ dại dọc ngang! Đó là lẽ biến dịch của đạo Lão hay lẽ vô thường trong đạo Phật....
- du nhân 遊人: người đi chơi để thưởng lãm cảnh sắc thiên nhiên như một lạc thú thanh cao.
- cựu du xứ 舊遊處: chốn cũ từng rong chơi...
- câu 1-8: mô tả cảnh sắc của vùng núi Ngô. Cảnh sắc thay đổi tùy theo tâm cảnh...: câu 9-12 : nỗi mong nhớ quê nhà khi ở đất trích Hàng Châu. Nhà thơ thưởng thức cái đẹp của phong cảnh Ngô Sơn nhưng lòng vẫn thướng nhớ quê nhà ở Tứ Xuyên cũng có những phong cảnh đẹp không kém và cái hẹn ngày về chẳng biết khi nào!...; câu 13-18: con người và sự vật cũng theo lẽ vô thường và biến dịch gợi cho tác giả nhiều niềm cảm xúc....

(Lần đến: THƠ CỦA TÔ ĐÔNG PHA – Bài 53, 54 và 55)
Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét