Thứ Bảy, 16 tháng 8, 2025

Ức Trai Thi Tập Của Nguyễn Trãi - Bài 76, 77, 78 Và 79

 


ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI - Bài 76, 77, 78 VÀ 79
Thầy Dương Anh Sơn

ỨC TRAI THI TẬP CỦA NGUYỄN TRÃI

Bài 76

ĐỀ TỪ TRỌNG PHỦ CANH ẨN ĐƯỜNG                             題徐仲甫耕隱堂

Khứ phạ phồn hoa đạp nhuyễn trần,                                          去怕繁花踏軟塵,
Nhất lê nham bạn khả tàng thân.                                                一犁岩畔可藏身.
Thương gia lệnh tá xưng Sằn Dã,                                              商家令佐稱莘野,
Hán thế cao phong ngưỡng Phú Xuân.                                      漢世高風仰富春.
Tùng cúc do tồn quy vị vãn,                                                       松菊猶存歸未晚,
Lợi danh bất tiễn ẩn phương chân.                                             利名不羨隱方真.
Ta dư cửu bị nho quan ngộ,                                                        嗟余久被儒冠誤,
Bổn thị canh nhàn điếu tịch nhân.                                              本是耕閒釣寂人.

Dịch nghĩa:

Sợ chốn hỗn tạp ồn ào phải dẫm đạp lên bụi mềm mà rời đi, - Một chiếc cày bên núi đá có thể giấu mình ở ẩn. – Khen ngợi Sằn Dã là người phò giúp cho nhà Thương, - Ngưỡng mộ người ở Phú Xuân đời nhà Hán, phong thái thanh cao. (c.1-4)
Tùng và cúc hãy còn đó, quay trở về vẫn chưa muộn màng, – Danh lợi không ham muốn, ở ẩn mới là chuyện đúng đắn. – Mũ nho đã khiến ta lầm lẫn và liên lụy từ lâu rồi, – Ta vốn là người cày nhàn và chuộng thả câu (được) yên tĩnh. (c.5-8)

Dịch thơ:

ĐỀ “NHÀ Ở ẨN ĐỂ CÀY CẤY”
CỦA TỪ TRỌNG PHỦ.

Sợ phồn hoa bụi, rời đây,
Giấu mình bên núi đá cày ruộng nương.
Giỏi phò: Sằn Dã nhà Thương,
Phú Xuân đời Hán, phục gương cao vời.
Khi về, tùng cúc còn nơi,
Chẳng ham danh lợi, lánh đời phải thôi.
Mũ nho lầm lụy lâu rồi
Cày nhàn, câu cá vốn người chuộng yên.


Chú thích:

- khứ phạ 去怕: sợ nên phải rời đi.
- phồn hoa繁花: chỗ xa hoa hỗn tạp ồn ào ...
- đạp nhuyễn trần 踏軟塵: dẫm đạp lên bụi mềm nhuyễn.
- lê 犁: cày ruộng, cái cày.
- nham bạn 岩畔: bên cạnh núi đá nhọn.
- lệnh tá 令佐: chức quan đời Thương ở vai trò phụ tá nhà vua, ngang với tể tướng sau này.
- xưng 稱: được xưng tụng, tán dương (vì tài giỏi đức độ), dấy lên.
- Sằn Dã 莘野: tức ông Y Doãn 伊尹, quê ở đất Hữu Sằn (nay ở vùng Thái An, Sơn Đông, Trung Hoa) một ẩn sĩ nhà nghèo, lánh mình cày ruộng ở chân núi đá, có tên là Sằn Dã, một địa danh ở nước Hạ. Người đời quý trọng nhân cách của ông đã gọi địa danh này như là một tên hiệu của Y Doãn. Vua nhà Thương bên Trung Hoa ba lần mời
ra tham chính để giúp an dân, ông mới nhận lời.Mạnh Tử trong sách của ông đã ca ngợi Y Doãn: “Dùng đạo để phụng sự ,không được sẽ cáo lui”. Ông đã có công giúp vua Thành Thang nhà Thương diệt vua Kiệt tàn ác....
- cao phong 高風: phong cách cao thượng của người tài đức, gió cao vời vợi....
- ngưỡng 仰: mến phục, ngưỡng mộ, kính trọng.
- Phú Xuân 富春 : vùng núi nơi Nghiêm Tử Lăng 嚴子陵 ở ẩn. Ông là một hiền sĩ thời Đông Hán, Trung Hoa là bạn thân của Lưu Tú, tên thật là Nghiêm Quang 嚴光 tên chữ là Tử Lăng 子陵, còn có tên là Tuân 遵 người quận Cối Kê 會稽, tính khí cao thượng, thời trẻ học chung và chơi thân với Quang Vũ. Khi lên ngôi sau khi diệt loạn Vương Mãng, Tú lấy hiệu là Hán Quang Vũ đế, cho mời bạn cũ có tài ra giúp trị nước nhưng Ngiêm Tử Lăng mai danh ẩn tích.Sau có người tìm thấy tâu lên .Vua cho mời đôi ba bận và đích thân đến mời nhưng Nghiêm Quang vẫn từ chối từ lấy lý do chỉ thích được an nhàn, chuộng yên tĩnh (tịch nhân).Ông tìm đến núi Phú Xuân 富春山 để cày ruộng và câu cá vui thú ẩn dật. Người đời sau gọi chỗ ông ngồi câu cá trên dòng suối là Nghiêm Lăng Lại 嚴陵瀨. (lại: dòng nước, suối nước...v.v... chảy trên cát).
- tùng cúc do tồn 松菊猶存: Nguyễn Trãi đã mượn câu này trong bài “Quy khứ lai từ 歸去來辭” của Đào Tiềm 陶潛 (365-427), một danh sĩ đời Đông Tấn bên Trung Hoa chán ngán chốn quan trường đã treo ấn từ quan đi ở ẩn. Ông có câu: ”Tam kính tựu hoang,tùng cúc do tồn 三徑就荒,松菊猶存” nghĩa là: ba lối đi hẹp (trong vườn cũ) bỏ hoang song cây tùng hoa cúc vẫn còn đó, để nói lên cốt cách của người ẩn dật vẫn thanh cao như tùng cúc.
- bất tiễn 不羨: chẳng ham muốn.
- chân 真: sự thật, đúng, phải...
- bị 被: liên lụy, chịu, bị, phiền lụy...
- nho quan ngộ 儒冠誤: mũ nhà nho thường lầm lẫn (lấy từ câu 儒冠多誤身 nho quan đa ngộ thân của Đỗ Phủ).
- 寂人 tịch nhân: người ở ẩn chuộng sự yên tĩnh, vắng lặng.

Bài 77

HÒA HƯƠNG TIÊN SINH VẬN GIẢN CHƯ ĐỒNG CHÍ    和鄉先生韻柬諸同志

Sầu lai đốt đốt mạn thư không                                                   愁來咄咄漫書空,
Thiên địa vô cùng thán chuyển bồng.                                        天地無窮嘆轉蓬.
Thế sự hôi tâm đầu hướng bạch,                                                世事灰心頭向白,
Suy nhan tá tửu vựng sinh hồng.                                                衰顏借酒暈生紅.
Lãm huy nghĩ học minh dương phượng,                                   覽輝擬學鳴陽鳳,
Viễn hại chung vi tỵ dực hồng.                                                  遠害終為避弋鴻.
Luân lạc thiên nhai câu thị khách,                                             淪落天涯俱是客,
Niên lai xuất xử lược tương đồng                                              年來出處略相同.

Dịch thơ:

HÒA CÙNG HƯƠNG TIÊN SINH CHỌN
VẦN THƠ VỚI CÁC BẠN CHUNG CHÍ HƯỚNG

Chao ôi! Sầu viết khắp trời!
Đất trời thăm thẳm vần trôi ngọn bồng.
Chuyện đời bạc tóc, nguội lòng
Mặt người tàn mượn rượu hồng thắm tươi!
Hót theo phượng dõi ánh trời,
Làm chim hồng tránh xa nơi hại nào!
Góc trời khách lạc như nhau,
Cùng chung “xuất, xử” cũng lâu năm rồi!

DỊCH NGHĨA:

Chao ôi! Cái sầu đến, viết tản mạn rải rác nơi nơi trên bầu trời, - Đất trời mênh mông thăm thẳm! Than (cho mình) rằng phải vần xoay như ngọn bồng. - Việc đời đã nguội tắt lửa lòng, mái đầu đã bạc rồi, - Mặt người đã héo tàn, gầy guộc phải mượn rượu uống cho hồng tươi. (c.1-4)
Học theo chim phượng hót lúc mặt trời lên, – Làm con chim hồng (bay rất cao) để tránh tên bắn hại từ xa. – Chúng ta đều là khách lưu lạc ở góc trời, - Mấy năm rày cùng giống nhau (ở quan niệm) “xuất” và “xử”.

CHÚ THÍCH:

- hòa和: cùng tham gia, hòa mình vào.
- đốt đốt 咄咄: tiếng kêu than vì sự bất ngờ như “chao ôi”, “quái lạ”, “lạ thay”, “chu choa”...v.v...
- mạn thư không 漫書空: viết tản mạn trên không,viết đầy tràn trên không (thư: sách vở, ghi chép, viết...)...
- thán chuyển bồng 嘆轉蓬: than thở cho sự xoay vần như là ngọn cỏ bồng bị đẩy đưa.
- hôi tâm 灰心: lòng nguội lạnh (như tro đã tàn).
- suy nhan 衰顏: vẻ mặt xấu đi và tàn héo.
- tá tửu vựng sinh hồng 借酒暈生紅: mượn rượu cho sáng vẻ hồng hào, tươi tốt.
- lãm huy 覽輝: dõi mắt nhìn ánh sáng mặt trời lúc sớm
- nghĩ học minh dương phượng 擬學鳴陽鳳: học theo con chim phượng hót lúc mặt trời lên. (nghĩ: phỏng theo, đi theo...)
- câu 6: làm chim hồng (bay cao) tránh xa mối hại của tên bắn ra từ dây cung. (dực: tên đặt trên dây cung sắp bắn đi) - chim hồng: tượng trưng cho người có chí cao... Nguyễn Du trong Đoạn Trường Tân Thanh khi viết về lòng thương nhớ của Thúy Kiều đối với người nung nấu chí khí anh hùng là Từ Hải khi ra đi xây dựng cơ đồ: “Cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm..” (c.2247-48)
- câu 7: lưu lạc ở nơi chân trời đều là khách như nhau cả.
- xuất, xử出處: việc học hành đậu đạt ra làm quan giúp vua trị nước và việc về ẩn dật khi thấy công việc không phù hợp với ý nguyện.
- lược tương đồng 略相同: đại khái, nhìn chung đều cùng giống nhau.

Bài 78

CÔN SƠN CA
崑 山 歌

1. Côn Sơn hữu tuyền kỳ thanh lãnh lãnh nhiên, ngô dĩ vi cầm huyền.

崑 山 有 泉, 其 聲 冷 冷 然, 吾以為琴弦,

2. Côn Sơn hữu thạch, vũ tẩy đài phô bích, ngô dĩ vi điệm tịch

崑 山 有 石, 雨 洗 苔 鋪 碧, 吾 以為簟席.

3. Nham trung hữu tùng, vạn lý thúy đồng đồng, ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung.

岩 中 有 松 , 萬 里 翠 童 童,吾於是乎偃息其中,

4. Lâm trung hữu trúc, thiên mẫu ấn hàn lục, ngô ư thị hồ ngâm khiếu kỳ trắc.

林中有竹, 千畝印寒綠, 吾於是乎吟嘯其側.

5. Vấn quân hà bất qui khứ lai, bán sinh trần thổ trường giao cốc.

問君何不歸去來, 半生 塵土長膠梏,

6. Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên, ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc.

萬鐘九鼎何必然, 飲水飯蔬隨分足.

7. Quân bất kiến Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ, Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc

君 不 見 董 卓 黃 金 盈 一 塢,元載胡椒八百斛,

8. Hựu bất kiến Bá Di dữ Thúc Tề, Thú Dương ngạ tử bất thực túc.

又不見伯夷與叔齊, 首陽餓死不食粟.

9. Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu, diệc các tự cầu kỳ sở dục.

賢愚兩者不相侔, 亦各自求其所欲,

10. Nhân sinh bách tuế nội, tất cánh đồng thảo mộc.

人生百歲內, 畢竟同草木.

11. Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai, nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.

歡悲憂樂迭往來, 一榮一謝還相續,

12. Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên. Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục

丘山華屋亦偶然, 死 後誰榮更誰辱.

13. Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ, Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.

人間若有巢由徒, 勸渠聽我山中曲.

Dịch nghĩa"

Côn Sơn có suối, tiếng nước chảy rì rào lặng lẽ, ta xem đó là tiếng đàn cầm – Côn Sơn có đá, nước mưa rửa sạch rêu bày ra đá màu biếc như ngọc, ta lấy đó làm chiếu để ngồi – Trong núi có thông, muôn dặm màu xanh biếc sạch trong, ta tha hồ ngơi nghỉ bên trong – Trong rừng có trúc, ngàn mẫu in dấu màu xanh lục đậm; Ta tha hồ ngâm ngợi, hò hát bên gốc cây trúc (c.1-4)
Hỏi anh sao chẳng quay trở về đi? Nửa đời đất bụi kéo dài và trói buộc bám riết! – Muôn chung, chín đỉnh lớn nào cần làm chi; uống nước suông, cơm rau tùy vào hoàn cảnh là đủ rồi – Anh có thấy chăng: Đổng Trác vàng đầy như mộtđống đất lớn; Nguyên Tải hồ tiêu cất tám trăm hộc - Lại thấy không: Bá Di cùng Thúc Tề, đất Thú
Dương chết đói, không ăn gạo!? (c.5-8)
Hiền, ngu hai kẻ không như nhau, đều thỏa lòng ham muốn của mình – Con người sống trong vòng trăm tuổi, rốt cuộc cũng giống như cây như cỏ thôi! – Vui, buồn, lo, sướng lần lượt đổi thay nhau đến và đi; vẻ vang, tàn lụi tiếp nối nhau – Gò núi hoặc nhà đẹp theo nhau cũng tình cờ, bất chợt thôi - Mai sau chết đi rồi, nào ai là vinh và nào ai là nhục (c.9-12)
Cõi người nếu có hạng người như Sào, Do - hãy khuyên họ nghe ta hát khúc ca trong núi non. (c.13)

Dịch thơ:

BÀI CA CÔN SƠN

Côn Sơn có suối rì rào,
Ta nghe vang vọng lao xao tiếng đàn.
Côn Sơn rêu biếc mưa lan,
Ta ngồi làm chiếu, đá tràn xanh om.
Dặm ngàn tùng biếc giữa non,
Ta dừng ngơi nghỉ ở trong chốn này.
Trúc xanh ngàn mẫu dấu bày,
Ta ngâm hò hát bên cây mát vời.
Hỏi anh – sao chẳng về thôi?
Bám theo đất bụi nửa đời buộc giăng?
Muôn chung, chín đỉnh nào cần!
Phận tùy uống nước, rau ăn đủ điều.
Thấy không: Đổng Trác vàng nhiều,
Tám trăm - Nguyên Tải hồ tiêu hộc tràn.
Bá Di, họ Thúc thấy chăng?
Thú Dương chết đói chẳng ăn gạo rồi !
Hiền, ngu: hai kẻ đôi nơi!
Đều tìm ham muốn cho người mình thôi!
Trong vòng trăm tuổi con người,
Rốt cùng cũng giống như đời cỏ cây!
Vui, buồn, lo, sướng, đổi thay!
Vẻ vang, tàn tạ, quay về nối nhau.
Thế rồi gò núi, nhà cao,
Ai vinh, ai nhục mai sau qua đời?!
Sào, Do, nếu có cõi người,
Hãy nghe ta hát ở nơi non ngàn!

Chú thích:

- Côn Sơn崑山: tên một ngọn núi lớn ở Trung Hoa. Còn ở nước ta, tiền nhân cũng đặt tên một ngọn núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh (Hải Dương) là Côn Sơn. Trên núi có động Thanh Hư,dưới có cầu Thấu Ngọc. Đời Trần, thiền sư Trúc Lâm dựng am ở núi này, Huyền Quang tôn giả (tức Lý Đạo Tái từ quan đi tu) trụ trì chùa Ân Tứ ở đây. Ông ngoại Nguyễn Trãi là quan tư đồ Trần Nguyên Đán thường ở đây thưởng hoa, vịnh nguyệt.
- lãnh lãnh冷冷: chảy rì rào lặng lẽ.
- cầm huyền 琴弦: dây của cây đàn cầm (gồm 5 dây, do vua Thuấn làm ra (theo Kinh Lễ). Về sau gọi chung các loại đàn là “cầm”.
- vũ tẩy đài phô bích雨洗苔鋪碧: mưa rửa sạch rêu bày lộ đá màu biếc như ngọc.
- điệm tịch 簟席: chiếu làm bằng cói dùng để nằm, ngồi.
- đồng đồng童童: che giấu, mờ mờ, dáng vẻ sạch sẽ.
- yển tức偃息: dừng lại nghỉ ngơi.
- ấn hàn lục印寒綠: dấu vết âm u xanh mát lạnh.
- ngâm khiếu吟嘯: ngâm ngợi và hò hát.
- giao cốc 膠梏: bám đeo và trói buộc.
- phạn sơ 飯蔬: ăn loại rau cỏ có thể ăn được.
- Đổng Trác 董卓: Thừa tướng đời Đông Hán bên Trung Hoa. Trước đó đương chức Tiền tướng quân đời Hán Linh Đế. Khi Linh Đế mất, y đã phế Thiếu đế và chuyên quyền. Sau bị Lữ Bố lập mưu giết chết.
- vạn chung萬鐘: chung là đơn vị đo lường ngày xưa (1 chung = 6 hộc + 4 đấu); vạn chung: chỉ sự giàu có tột đỉnh; chung: nghĩa khác là chuông.
- ổ 塢: lũy nhỏ. Đổng Trác đời Đông Hán làm một thành nhỏ đặt tên là Mi Ổ. Có lẽ chữ “ổ” này chỉ về thành lũy chứa đồ sang quý của Đổng Trác.
- Nguyên Tải 元載: đời Đường Đại tông giữ chức Trung Thư Thị Lang, chuyên quyền lo tích lũy của cải và rất giàu có nhờ bòn rút khi làm quan. Về sau bị vua buộc tội chết.
- Bá Di, Thúc Tề伯夷,叔齊: con vua Cô Trúc đời Thương. Khi Chu Võ Vương diệt nhà Thương, hai anh em bỏ vào núi Thú Dương ăn rau cỏ mà chết đói, quyết không ăn thóc nhà Chu.
- hoa ốc華屋: nhà lộng lẫy, cao sang, giàu có.
- Sào, Do 巢, 由: Sào Phủ 巢父 và Hứa Do 許由 hai bậc cao sĩ đời vua Nghiêu trong thượng cổ sử Trung Hoa(TCN) quyết không để danh lợi, quyền chức lôi cuốn nên một đời ở ẩn trên núi dù bao lần được vua cho mời về kế vị.Khi vua Nghiêu nghe Hứa Do là bậc hiền sĩ cho người đến để biết ý vua muốn truyền ngôi.Hứa Do bèn đi ra dòng sông để rửa tai. Sào Phủ dắt trâu ra bờ sông cho uống nước, hỏi Do sao lại rửa tai. Do nói chuyện vua cho mời về truyền ngôi. Sào Phủ bèn dắt trâu lên bờ để khỏi uống nước bẩn chuyện công danh! Sau vua Nghiêu truyền ngôi cho một hiền sĩ khác là Thuấn tức vua Thuấn sau này....
- bất tương mâu 不相侔: không ngang nhau, không bằng....
- các各: đều giống.giống như......
- điệt 迭: đổi thay dần, lần lượt thay đổi và mất mát...
- hoàn tương tục還相續: nối theo nhau quay vòng...
- nhược hữu 若有: nếu có
- đồ 徒 : đi theo, hạng lũ, học trò, phe đảng, đi bộ, những chỉ
- sơn trung khúc 山中曲 sơn trung khúc: khúc hát trong non ngàn..

Bài 79

GIANG HÀNH                                                                          江 行

Tây tân sơ nghị trạo.                                                                  西津初艤棹,
Phong cảnh tiện giang hồ.                                                          風景便江湖.
Vũ quá sơn dung sấu,                                                                 雨過山容瘦,
Thiên trường nhạn ảnh cô.                                                         天長雁影孤.
Thương Lang hà xứ thị,                                                             滄浪何處是,
Ngư điếu hảo vi đồ,                                                                    魚釣好為徒.
Hồi thủ Đông Hoa địa,                                                               回首東華地,
Trần ai giác dĩ vô.                                                                      塵埃覺已無.

Dịch nghĩa:

Vừa mới quay chèo ghé bến thuyền phía tây, – Sông hồ cảnh đẹp bày ra ngay liền. – Cơn mưa đi qua, dáng núi gầy hao, - Bầu trời rộng lớn, bóng nhạn lẻ loi. (c.1-4)
Thương Lang ở chốn nào đây? – Làm bạn với kẻ chài cũng tốt – Quay đầu nhìn lại đất Đông Hoa, - Thấy bụi đời đã không còn. (c.5-8)

Dịch thơ:

THUYỀN ĐI TRÊN SÔNG

Quay thuyền chèo ghé bờ tây,
Sông hồ cảnh đẹp bày ngay kia là.
Hao gầy dáng núi mưa qua,
Miệt mài bóng nhạn trời xa lẻ bầy.
Thương lang ở chốn nào đây?!
Ngư chài làm bạn cũng hay thôi nào.
Đông Hoa ngoảnh lại đất nao.
Thấy như vắng lặng còn đâu bụi đời!

Chú thích:

- nghị 艤: quay thuyền lại.
- tiện 便: liền ngay đó, yên ổn, tức thời。
- sấu 瘦: gầy ốm, xấu xí。
- thiên trường天長: bầu trời xa rộng lớn.
-Thương Lang 滄浪: nằm ở hạ lưu Hán Giang được Khuất Nguyên đề cập trong Sở Từ.
Về sau được dùng chỉ nơi ở ẩn, xa lánh cõi đời (“Ngư phủ” cũng là một bài ca trong Sở Từ liên hệ ý “ngư điếu”)。
- đồ 徒: người cùng phe nhóm, bạn bè, tay trắng, tội đồ, không còn。
- Đông Hoa địa 東華地: vùng đất đô hội ở kinh đô. Cũng chỉ cửa vào hoàng cung.
- giác dĩ vô 覺已無: thấy được sụ vắng lặng Vô 無: không còn gì cả; chữ vô trong đạo Phật không phải là sự trống rỗng hoặc không có. Đó là sự an lạc, tĩnh lặng chỉ có thể đạt được bằng sự giác ngộ của người thấu triệt được lẽ đạo.

( Lần đến: Ức trai Thi Tập – Bài 80, 81, 82 và 83)

Dương Anh Sơn 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét