GIỚI THIỆU
Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy Cô và quý Anh Chị bài viết MỘT THOÁNG PLEIKU của nhà văn Phạm Tín An Ninh đăng trên Blog SĐ6KQ VNCH, do anh Hoàng Khai Nhan chia sẻ.
Xin chân thành cám ơn tác giả và anh HKN.
Trân trọng giới thiệu
NHHN
Phạm Tín An Ninh
|
Click vào video trên để vừa nghe Sĩ Phú hát
Còn Một Chút Gì Để Nhớ
(Thơ Vũ Hữu Định - Nhạc Phạm Duy)
vừa đọc bài viết Một Thoáng Pleiku
của Phạm Tín An Ninh dưới đây...
Còn Một Chút Gì Để Nhớ
(Thơ Vũ Hữu Định - Nhạc Phạm Duy)
vừa đọc bài viết Một Thoáng Pleiku
của Phạm Tín An Ninh dưới đây...
Thật
lòng, tôi không có nhiều gắn bó với Pleiku. Và dường như cái phố núi buồn hiu
ấy đã cho tôi nhiều nỗi buồn hơn là niềm vui. Vậy mà khi đã xa -thực sự vĩnh
viễn xa- Pleiku rồi, tôi lại thấy da diết nhớ, trăn trở với cái cảm giác mình
có tội với Pleiku, và mãi mãi sẽ còn nợ phố núi này một lời xin lỗi.
Tôi chưa (và có thể không) có dịp về thăm lại
Pleiku, nên cái xa cách ấy lại càng thấy mịt mùng. Cái phố núi vốn đã bé nhỏ,
như một ông nhà thơ đã ví von “đi dăm phút đã về chốn cũ” ấy, giờ với
tôi dường như chỉ còn là chút sương khói trong lòng. Điều kỳ lạ là chút khói
sương mờ ảo ấy cứ luôn lãng đãng trong ký ức và trái tim già cỗi của tôi, như
những mảng mù sương từng bao phủ, giăng mắc trên phố núi Pleiku ngày trước.
Nếu không có cuộc chiến Kontum, có lẽ sẽ không
có dấu chân nào của tôi trên bùn lầy đất đỏ Pleiku. Dẫu là dấu chân của người
lính chiến. Chợt đến chợt đi, hay có khi nằm lại vĩnh viễn trên núi rừng heo
hút vô danh. Thống thuộc một đại đơn vị có bản doanh tại Ban Mê Thuột, nhưng
đơn vị tôi có hậu cứ tại Sông Mao,Phan Thiết, và đảm trách một vùng hành quân
khá rộng lớn dọc theo miền duyên hải. Đúng ngày cuối năm âm lịch 1972, khi cả
đơn vị đang chuẩn bị cho quân sĩ ăn Tết tại doanh trại Lý Thường Kiệt, Sông
Mao, chúng tôi nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên An Khê, thay thế cho một đơn vị
của Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ rút quân về nước, và tăng cường cho mặt trận
Bình Định, khi một số đơn vị của Sư Đoàn 22BB hoạt động ở đây, vừa di chuyển
lên mặt trận Dakto, Tân Cảnh.
Loanh quanh ở An Khê chưa được hai tháng, cùng
với Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái, đánh vài trận, giải tỏa một số căn cứ của
Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm dọc trên đèo An Khê bị Cộng quân tạo nhiều vòng đai
vây hãm, đơn vị chúng tôi được lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để
được không vận lên Kontum. Bộ Tư Lênh HQ Sư Đoàn 22BB vừa bị tràn ngập tại căn
cứ Tân Cảnh và vị Tư Lệnh đã ở lại để vùi thây nơi chiến địa cùng với quân sĩ
dưới quyền. Địch quân đang trên đà tràn xuống trong ý đồ chiếm lấy Kontum.
Tôi đến Pleiku như vậy đó. Thời gian chưa đủ
nhìn một dãy phố và núi đồi chạy dọc theo con đường dẫn ra phi trường Cù Hanh.
Tôi có cảm giác chưa đến thì đã rời khỏi Pleiku. Hơn tám tháng sống chết với
chiến trường và giữ vững Kontum, chúng tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ
sung quân số. Đây là phần thưởng đặc biệt cho một đơn vị tạo nên kỳ tích trong
trận chiến đẫm máu để có một “Kontum Kiêu Hùng.” Một tháng đóng quân trên Đồi
Đức Mẹ. Lại là một tháng “gió lạnh mưa mùa.” Cả núi đồi và thành phố Pleiku mờ
mịt và lầy lội trong mưa. Hình ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa mới hy
sinh trên chiến trường Kontum lúc nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ
như những nhát chém còn rỉ máu trong lòng. Muốn tạm quên chốc lác đã là một
điều không dễ. Bọn tôi cần được say. Mỗi ngày chỉ ra phố để uống rượu. Thỉnh
thoảng đi nhận đám lính bị Quân Cảnh của ông đại úy Hiển bắt. Khi đó tôi đâu có
biết ông đồn trưởng Quân Cảnh này là nhà thơ Hoàng Khởi Phong, cũng chịu chơi,
nhậu nhẹt, lãng mạn, và vi phạm quân phong quân kỷ như ai!
Pleiku có nhiều quán cà phê và nhiều khuôn mặt
mỹ nhân, nhưng chúng tôi chỉ chọn các quán rượu. Dường như cà phê không đủ ấm,
không đủ để quên, và cái say của rượu cũng chóng phôi pha hơn cái say đàn bà,
con gái. Hơn nữa chỉ được có một tháng, mà trước mặt là những trận chiến đẫm
máu đang chờ. Chẳng ai muốn vương vấn nợ tình.
Riêng tôi còn có một anh bạn, Liên Đoàn Trưởng
BĐQ trú đóng ở Biển Hồ. Vợ và hai đứa con chết thảm tại Quảng Đức vì xe bị VC
giật mìn, nên bây giờ anh chỉ làm người tình với rượu. Tôi bị anh kéo theo cái
vòng “tục lụy” này.
Lúc trước anh là một cấp chỉ huy nổi tiếng
trong BĐQ, thời gian binh chủng này mới thành lập. Nhưng sau đó do ảnh hưởng từ
các phe nhóm chính trị, anh đã bị bắt đi tù một thời gian, ngưng thăng cấp và
sau đó chuyển đến đơn vị tôi, với cái lệnh “không được giữ chức vụ chỉ huy
nào.” Biết anh là một niên trưởng và từng dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ
an ủi anh. Thời gian sau anh bỗng dưng được “vô tội,” trở lại binh chủng, thăng
cấp và chỉ huy một Liên Đoàn BĐQ tại QK2.
Do cái ân tình đó, nên những ngày không hành
quân, anh đến kéo tôi ra quán rượu. Tôi chỉ nhìn Pleiku qua những cơn say. Vì
vậy Pleiku với tôi càng nhỏ hẹp hơn, chỉ là không gian của một quán rượu trong
khu Chợ Mới. Một tháng, tôi chưa hề biết tên một con đường, thì làm sao biết
được tên của một mỹ nhân, để “may mà có em đời còn dễ thương!”
Tôi rời khỏi Pleiku một ngày sau khi thành phố
Ban Mê Thuột (BMT) vừa lọt vào tay giặc. Sáng ngày 13/3/75, theo những toán
quân đầu tiên của đơn vị được trực thăng vận từ Hàm Rồng đổ xuống Phước An,
quận lỵ duy nhất còn lại của tỉnh Darlac, nằm cách BMT khoảng 30 cây số trên QL
21 về hướng Nha Trang. Khi một nửa đơn vị vừa xuống Phước An, thì Pleiku có
lệnh di tản. Một nửa quân số còn lại phải di chuyển theo đoàn quân di tản trên
Tỉnh Lộ 7B. Một cuộc triệt thoái sai lầm, tệ hại và bi thảm nhất trong chiến
tranh. Nửa đơn vị của tôi gần như bị xóa sổ. Hai người bạn thân của tôi đều là
tiểu đoàn trưởng đã tự sát, nhiều đồng đội đã chết trong đớn đau tức tưởi.
Hình ảnh cuối cùng của Pleiku trong mắt tôi là
dãy núi Hàm Rồng, nhưng trong trí óc tôi chỉ còn đọng lại những cái chết bi
tráng của đám bạn bè đồng đội cùng với những người Pleiku mà tôi chưa kịp biết
mặt, làm quen. Và trong lòng tôi, dường như Pleiku chỉ có thế. Không phải là
những con đường, góc phố, là rạp ciné Diệp Kính, Thanh Bình, hội quán Phượng
Hoàng, quán cà phê Dinh Điền, cà phê Văn, cà phê Lính, Bắc Hương, Thiên Lý, và
lại càng xa lạ với những ngôi trường mang tên Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái,
Minh Đức, Bồ Đề... mà những cô học trò ngày ấy bây giờ đang mang theo cái hồn
Phố Núi đi khắp muôn phương. (Giờ nghĩ lại, tôi thấy mình khờ khạo biết bao
nhiêu!)
Ngày ấy, tôi là thằng lính bộ binh, một thứ
lính “hạng bét,” chỉ có khốn khổ gian truân và chết chóc. Tháng năm lặn lội
trong núi rừng, chỉ còn biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt. Được chút thời
gian không đủ cho một cơn say, thì đâu còn biết gì tới thơ với thẩn (mặc dù tôi
vốn mê thơ - nhưng rất dốt về thơ). Ngoài bài hát nổi danh được phổ từ thơ Vũ
Hữu Định, tôi chưa hề được đọc thơ các thi nhân nổi tiếng một thời của Pleiku
hay viết về Pleiku. Sau này đọc Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, Kim Tuấn,
Nguyễn Xuân Thiệp, Võ Ý, Cao Thoại Châu, Hoàng Khời Phong…, tôi thấy hối tiếc
quá chừng. Pleiku đẹp quá, dễ thương, thơ mộng quá.
Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ một thời hành quân
đánh giặc ở Mật khu Lê Hồng Phong, Sông Mao, nơi đơn vị tôi trú đóng, từng viết
những câu thơ hào sảng:
Ngày mai đánh giặc may còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui...
cũng từng bị “đày” lên Phố Núi, nhưng giờ thì
đắm say ánh mắt của một nàng thiếu nữ Pleiku:
Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó...
Vậy mà hơn một tháng ở Pleiku tôi đã ngu ngơ,
lãng phí. Không nhìn ngắm, mơ mộng với Pleiku mà chỉ biết say với rượu. “Ta say,
trời đất cũng say.” Tôi đã bắt Pleiku say với tôi, mà đáng lý ra tôi phải say
đắm với Pleiku mới phải. Đôi khi tôi cũng tự gạt để an ủi mình “Có thể chính
mấy ông nhà thơ này đã làm cho Phố Núi đẹp hơn, thơ mộng và lãng mạn hơn những
gì nó có?” Nhưng có lẽ tôi đã nhầm, sau này được dịp làm quen với những người
Phố Núi, tôi chợt nhận ra rằng Pleiku đâu chỉ có những ông thi sĩ tài danh ấy,
mà dường như cứ mỗi người Pleiku đã là một nhà thơ, hay ít nhất cũng là một bài
thơ chưa được viết thành lời. Dẫu gì, tôi cũng có tội với Pleiku.
Ba năm hành quân ở Kontum và Pleiku, nhiều
đồng đội, bạn bè tôi đã nằm lại nơi này. Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công
Lâm, Đỗ Bê... những tiểu đoàn trưởng nổi danh, những người anh, người bạn thân
thiết như tình huynh đệ cùng một đơn vị từ ngày tôi vừa mới ra trường, đã vĩnh
viễn ở lại với Kontum, với Pleiku. Khi tất cả -có lẽ cũng như tôi- chưa biết rõ
mặt Pleiku cùng những vần thơ tuyệt vời ca tụng phố núi thơ mộng một thời.
Tôi vẫn mãi đau đớn khi hình dung cuộc di tản
bi thảm trên Tỉnh Lộ 7B vào những ngày giữa tháng Ba. Cùng với những đổng đội
của tôi, còn có biết bao nhiêu người Pleiku đã không đi hết đoạn đường kinh
hoàng đẫm máu ấy. Trong đó chắc chắn có rất nhiều “em Pleiku má đỏ môi hồng”
của nhà thơ Vũ Hữu Định, những bông hoa dại đã làm cho những thằng lính “bị
đày” lên phố núi thấy đời dễ thương hơn. Thiếu những bông hoa ấy, Phố núi sẽ
không còn đẹp, không còn lãng mạn, để cho bao thi nhân cảm xúc, để cho nhà thơ
Không Quân Võ Ý vẫn mãi còn tiếc nhớ khôn nguôi một thời “Xưa Trên Đó”:
Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền..
Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn...
Chúng tôi ra đi, cũng (rất vô tình) bỏ lại các
cô gái Thượng. Những cô gái chân chất hồn nhiên mà đẹp đẽ như những cánh lan
rừng. Họ mới thực sự là những người chủ Phố Núi, nên không đành bỏ núi đồi,
buôn bản. Và chắc không hề biết đã từng là niềm vui, là nỗi khát khao của những
thằng lính trẻ xa nhà, khi rủ nhau ẩn nấp sau những gốc cây, bờ đá để nhìn
(trộm) các cô vô tư khoe mình bên các dòng suối biếc. Tuyệt vời!
Thuở ra đi, lòng dạ rối bời, chưa kịp nhận ra
những điều gắn bó, giờ hồi tưởng, trong lòng bỗng chợt dấy lên bao nỗi bâng
khuâng.
Thì ra, tôi đã mắc nợ phố núi quá nhiều. Nợ
những người đã ở lại với Pleiku trong cơn đổi đời khốn khó, nợ người Pleiku nằm
lại đâu đó trên tỉnh lộ 7B kinh hoàng, và nợ cả những người Pleiku ra đi mang
theo bóng dáng mờ ảo mù sương và cả cái hồn Phố Núi.
Nợ ân tình thì không thể nào trả cho hết được.
Đành viết mấy dòng này xin tạ lỗi Pleiku.
Phạm Tín An Ninh
Kính mời quý Thầy Cô và các Bạn thưởng thức bài thơ EM PLEIKU
của thân hữu Nhã Giang Thu Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét