Thứ Ba, 25 tháng 10, 2022

Thơ Lý Bạch - Bài 66, 67 Và 68

 


THƠ LÝ BẠCH - BÀI 66, 67 VÀ 68
Thầy Dương Anh Sơn

BÀI 66

CỔ PHONG KỲ NGŨ THẬP                                      古風 其五十

Tống quốc ngô thai đông,                                             宋國梧臺東,
Dã nhân đắc Yên thạch.                                                野人得燕石。
Khoa tác thiên hạ trân,                                                  誇作天下珍,
Khước sẩn Triệu vương bích.                                       卻哂趙王璧。
Triệu bích vô truy lân,                                                  趙璧無緇磷,
Yên thạch phi trinh chân.                                             燕石非貞真。
Lưu tục đa thác ngộ,                                                     流俗多錯誤,
Khởi tri ngọc dữ trân.                                                   豈知玉與珍。
Lý Bạch                                                                       李白

Dịch nghĩa:

Cổ phong (bài thứ năm mươi)

Ở phía đông nơi nền đất cao có cây ngô đồng của nước Tống, người dân quê đã gặp được viên đá nước Yên, rồi khoe khoang là sẽ làm ra vật quý báu trong đời, lại còn giễu cợt ngọc bích của vua nước Triệu nữa! (c. 1-4).
Ngọc bích của nước Triệu không mài đi màu đen thâm được! Viên đá nước Yên chắc chắn không phải là loại (đá quý) thật. Điều đó đã lưu lại thói quen nhiều lầm lẫn! Há có biết (phân biệt) thế nào là ngọc cùng sự quý giá của nó hay sao!? (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

CỔ PHONG (BÀI THỨ NĂM MƯƠI)

Nền ngô nước Tống phía đông,
Đá Yên được bởi thường dân một người
Khoe làm đồ quý cho đời,
Ngọc vua Triệu lại đem cười giễu chơi!
Không mài ngọc Triệu đen ngời,
Chắc gì là thật đây rồi đá Yên!
Vẫn còn lầm lẫn lưu truyền,
Biết đâu vật quý, ngọc nguyên thế nào!

Chú thích:
- Tống quốc 宋國: đây là nước Tống trước thời nhà Đường của Lý Bạch. Nhà Tống (420-478) của Tống Vũ đế 宋武帝 (tức Lưu Tống Vũ đế 劉宋武帝) tên thật là Lưu Dụ 劉裕, tên tự Đức Dư 德輿, còn có một tên gọi khác là ĐứcHưng 德興, tiểu tự là Ký Nô 寄奴 được nhà Tấn trao ngôi cho, làm vua được 59 năm, sau trao cho Tề. Còn nhà Tống về sau quốc hiệu là Đại Tống do Triệu Khuông Dận 趙匡胤 làm hoàng đế, tồn tại được được 320 năm (960-1279) chia làm hai thời kỳ: thời kỳ được gọi là Bắc Tống (960-1127) tương đối yên ổn rồi bị nước Kim, nước Liêu đánh chiếm phải lui về phía nam lấy Kiến Khang Phủ làm kinh đô (tức Nam Kinh sau này) gọi là Nam Tống(1127-1279). Sau này bị nhà Nguyên do quân Mông Cổ lập ra diệt mất.
- ngô thai 梧臺: thai: đài, lầu, hèn hạ, bục hay nền cao...  Đây chỉ nền đất cao có cây ngô đồng 梧桐 và hòn đá nước Yên (Yên thạch) gặp được ở nền đất này...
- dã nhân 野人: người quê mùa, người dân thường, con đười ươi...
- khoa 誇: khoe khoang, phô trương, khoa trương, khoác lác, khen ngợi, to lớn...
- khước 卻: lại còn, lại nữa, từ chối, rồi thì, lùi bước, khước từ...
- sẩn 哂: mỉm cười, chê cười, chê bai, giễu cười...
- Triệu vương bích 趙王璧: theo sách của Hàn Phi tử, nguyên viên ngọc của vua Triệu Huệ Văn vương là viên ngọc do người họ Hòa tìm được dâng lên cho Sở Lệ vương bị thợ ngọc của vua cho là không phải ngọc nên bị tội lừa dối vua phải chặt chân trái của người này. Lệ vương mất, Sở Vũ vương nối ngôi. Họ Hòa lại dâng ngọc lên vua và lại bị thợ ngọc triều đình cho là không phải ngọc thật nên phải tội chém chân phải còn lại. Khi Sở Văn vương làm vua, họ Hòa ôm ngọc khóc ba ngày trên núi. Tiếng đồn đến vua nên vua cho người hỏi lý do. Họ Hòa mới nói rằng ông bị hai vua trước chặt chân vì những thợ ngọc trước đây không biết đây là ngọc bích thật coi họ Hòa là kẻ lừa dối vua nên đau đớn mà khóc vì không có người dưới trời biết đâu là ngọc bích thật! Văn vương cho tìm thợ ngọc giỏi xem lại quả đúng là ngọc thật và quý hiếm nên ban thưởng và cho đặt tên ngọc là "Hòa thị bích 和氏璧" (Ngọc bích họ Hòa), xem đây là quốc bảo. Theo các cuộc chinh chiến, giành giật lãnh thổ thời Chiến Quốc, viên ngọc lưu chuyển từ vua Sở qua nước Triệu, rồi vua Tần lại muốn chiếm đoạt nên bày chuyện đổi 15 thành trì lấy viên ngọc nhưng nhờ Lạn Tương Như tài giỏi mới giữ được một thời gian. Về sau, nhà Tần thôn tính nước Triệu, viên ngọc rơi vào tay các vua Tần. Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, viên ngọc được cho đem khắc chạm để thành ngọc ấn truyền ngôi giữ nước cho các vua đời sau gọi là "Truyền quốc ngọc tỷ" Nhưng rồi nhà Tần giữ ngôi chưa bao lâu bị lật đổ, ấn ngọc bích này lại lưu lạc qua nhiều đời vua Trung Hoa về sau...
- truy 緇: màu đen thâm, lụa thâm, nhuộm đen...
- lân 磷: mài giũa, nước chảy qua khe đá...
- trinh chân 貞真: nguyên vẹn và đích thực, chắc chắn là thật...
- lưu tục 流俗: lưu giữ lại những thói quen, phong tục, truyền lại thói tục...
- thác ngộ 錯誤: nhầm lẫn, lẫn lộn, sai lầm...
- khởi tri 豈知: há không biết, sao biết được, làm sao hay được...

BÀI 67

CỔ PHONG KỲ NGŨ THẬP NHẤT                         古風 其五十一

Ân hậu loạn thiên kỷ,                                                   殷後亂天紀,
Sở hoài diệc dĩ hôn.                                                     楚懷亦已昏。
Di dương mãn trung dã,                                               夷羊滿中野,
Lục thi doanh cao môn.                                               菉葹盈高門 。
Bỉ can gián nhi tử,                                                        比干諫而死,   
Khuất Bình thoán Tương nguyên.                               屈平竄湘源 。
Hổ khẩu hà uyển luyến,                                               虎口何婉孌,
Nữ tu không thiền viên.                                               女嬃空嬋媛.
Bành Hàm cửu luân một,                                             彭咸久淪沒,
Thử ý dữ thùy luân.                                                     此意與誰論。
Lý Bạch                                                                      李白

Dịch nghĩa:

Cổ phong (bài thứ năm mươi mốt)

Sau nhà Ân, loạn lạc xảy ra ngày đêm làm đảo lộn các giềng mối kỷ cương. Nước Sở bao trùm (nhiều lãnh thổ) sau rồi đi vào tăm tối! Những bọn mọi rợ, dê cừu đông đảo khắp vùng đồng nội! Cỏ lục, cỏ thi tràn đầy nơi nhà quyền thế! (c. 1- 4).
Đến lúc người phạm tội can gián nên phải chịu chết! Khuất Bình bị đày đi tới ngọn nguồn dòng nước sông Tương. Miệng loài cọp sao lại xinh xắn thế này? Người chị gái uổng phí dáng xinh đẹp kia! (c. 5-8). Bành Hàm về lâu về dài rồi cũng không còn nữa. Ý này sẽ cùng ai bàn bạc đây?! (c. 9-10).

Tạm chuyển lục bát:

CỔ PHONG
BÀI THỨ NĂM MƯƠI MỐT

Sau Ân giềng mối rối bời, 
Sở bao trùm khắp, sau rồi muội mê.
Trong đồng đông đảo man dê,
Nhà giàu cỏ lục, cỏ thi đầy tràn!
Kịp khi phạm tội can ngăn,
Khuất Bình nguồn nước Tương giang đi đày.
Vì sao miệng cọp xinh thay?!
Xinh tươi của chị chỉ rày uổng công!
Bành Hàm rồi cũng thân vong!
Ý này bàn bạc với cùng ai đây?!

Chú thích:
- Ân 殷: còn gọi là triều Thương Ân 朝商殷 ( 1766-1122 TCN) là một triều đại lớn trong lịch sử Trung Hoa tiếp nối nhà Hạ khởi đầu do vua Thành Thang và kết thúc triều đại bởi ông vua tàn ác là Trụ vương bị diệt bởi nhà Chu. Thời vua Bàn Canh (1401-1374 TCN )nhà Thương dời đô về đất Ân nên gọi là nhà Ân.
- thiên 天: ông trời, bầu trời, ban ngày, ngày và đêm. . . .
- kỷ 紀 : kỷ cương, giềng mối, trật tự, gỡ rối ren, gỡ đầu mối, gỡ tơ rối, ghi chép, hội họp, 12 năm goi là một kỷ...
- Sở 楚 : Sở là một nước hùng mạnh sau thời Xuân Thu, Trung Hoa. Tổ tiên của nhà Sở là Dục Hùng sau đổi thành họ Hùng, là thầy dạy Chu Văn vương và có công trong việc dẹp nhà Ân của Trụ vương nên con cháu được làm quan trong triều.
Đến thời của Hùng Dịch được nhà Chu Thành vương phong là Sở tử xem như chư hầu nhà Chu và ban cho đất Kinh để trấn giữ, lấy Đan Dương làm kinh đô. Đến thời Sở Hùng Cừ (khoảng 877 TCN), thế lực nhà Tây Chu bắt đầu suy yếu nên tự phong là Sở vương nhưng do thế lực nhà Chu chưa phải hoàn toàn suy yếu nên Hùng Cừ xin trở lại làm chư hầu và triều cống như trước. Năm 704 TCN, Hùng Thông (741-690 TCN) thấy thế lực nhà Chu suy yếu thực sự nên lại tự xưng vương lần thứ hai tức Sở Vũ vương trở thành một nước hùng mạnh trong thời Chiến Quốc, nhất là thời của Sở Trang vương (614-591 TCN), nước Sở xưng bá. Đến thời Sở Uy vương về sau, Sở và Tấn tranh chấp, đánh nhau liên tục gây ra loạn lạc khắp nơi. Năm 299 TCN, Sở Hoài vương vì không nghe lời can gián của các quan trong
triều trong đó có Khuất Bình (tức Khuất Nguyên) đã theo lời dụ dỗ của Trương Nghi qua Tần phó hội bị giữ lại rồi chết ở Tần (296 TCN). Năm 224 TCN Sở bị nhà Tần thôn tính và Tần Thủy hoàng thống nhất Trung Hoa.
- hoài 懷: lo nghĩ, lo lắng, nhớ, ôm vào, chứa đựng, bao trùm, lòng tận tình...
- diệc dĩ hôn 亦已昏: rồi sau đó đi vào hôn ám; rồi sau đó mê muội, tăm tối...
- di 夷: chỉ các dân tộc phía đông Trung Hoa thời nhà Ân Thương 殷商, (tức Sơn Đông, Giang Tô ngày nay). Về sau phiếm chỉ các dân tộc ở phía tây bắc, đông nam, đông và nam Trung Hoa với thái độ khinh miệt các dân tộc ở ngoài "Trung Nguyên" 中原 (Trung Hoa). Họ xem các dân tộc khác người hán là "Man di nhung địch" 蠻夷戎狄. Ngày nay, thái độ này vẫn còn trong cách nhìn của người "Trung
Hoa hậu bối" đối với các dân tộc yếu thế bị họ giành giật lãnh thổ hay dùng đủ mọi thủ đoạn chi phối, gây ảnh hưởng! Di dương 夷 羊: bọn dê cừu man di mọi rợ theo cách gọi miệt thị và trịch thượng của người Trung Hoa xưa như đã trình bày ở trên.
- lục thi 菉葹: loại cỏ có mùi thơm trồng trong nhà quyền quý. Ly Tao 離騷 của Khuất Nguyên có câu: Tư lục thi dĩ doanh thất hề 資菉葹以盈室兮" (Nơi giàu có, cỏ thi xanh mướt tràn đầy nơi các phòng hề!; tư: có của cải, vốn liếng, có của để dành, giàu có...)
- cao môn 高門: chỉ nhà cao cửa lớn của các quan lại, các nhà quyền quí, giàu có...
- can gián 干諫: can: can dự, phạm tội, cái thuẫn để đỡ, bờ sông, bến nước, khô cạn (can hạn), cầu mong...; gián: cản ngăn, can gián. Can gián chỉ việc phạm tội ngày xưa khi can ngăn những ý đồ tính toán chính trị của vua chúa.
- Khuất Bình 屈平: tên thực của Khuất Nguyên 屈原 (340-278 TCN) tự là Linh Quân 霛均 là người trong hoàng tộc nước Sở thời Chiến Quốc bên Trung Hoa, giữ chức Tả đồ triều vua Sở Hoài vương. Với tài học rộng, giỏi văn chương thi phú, ông được vua tin dùng. Nhưng trong triều nhiều kẻ lại ghen tài tìm cách nói xấu ông với vua nên vua Sở cũng giảm đi việc tin dùng. Khi Trương Nghi dùng ba tấc lưỡi đi du thuyết, mời nước Sở hợp tung với Tần và qua Tần phó hội, Khuất
Nguyên cùng một số triều thần can ngăn nhưng Sở Hoài vương không nghe, rồi bị Tần bắt giữ và chết ở Tần. Do thái độ gièm pha và ganh ghét của các quan trong triều, ông buồn rầu, lo nghĩ nên viết Ly Tao (trong Sở Từ 楚詞), Thiên Vấn... v...v... để bày tỏ lòng mình. Về sau, ông bị Sở Tương vương đày đi Giang Nam, phía nam Dương Tử Giang. Ông buồn sầu thất chí nên đi đến dòng Mịch La, một nhánh của Tương Giang, làm bài Hoài Sa Phú rồi ôm phiến đá nhảy xuống sông tự tử nhằm ngày mồng năm tháng năm. Về sau, người Trung Hoa lấy ngày này gọi là Tết Đoan Ngọ 端午 để kỷ niệm một con người đoan chính như Khuất Nguyên. (Bên nước ta do có thời kỳ bị Trung Hoa xâm lược và đô hộ lâu dài nên đã chịu ảnh hưởng nặng nề các hình thức văn hóa của người Hoa, trong đó có Tết Đoan Ngọ (mồng 5 tháng năm). Đúng ra, chúng ta nên làm lễ kỷ niệm trang trọng và thật xứng đáng những anh hùng dân tộc đã có công lớn và hy sinh cho việc giữ nước như Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Bình Trọng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi. Quang Trung, Nguyễn Thái Học... v...v.... hầu giáo dục và nâng cao tinh thần yêu nước đang bị xói mòn hiện nay thay vì tổ chức ăn Tết Đoan Ngọ của người Hoa không dính dáng gì đến lịch sử và văn hóa dân tộc!)
- uyển luyến 婉孌: dáng vẻ xinh tươi yểu điệu của người con gái đẹp, vẻ mềm mại đáng yêu...
- nữ tu 女嬃: người chị gái, người con gái (xem tiếp chữ "thiền viên" bên dưới)
- không 空: trống rỗng, bầu trời, vắng vẻ, vô ích, uổng công, suông hảo...
- thiền viên 嬋媛: người con gái xinh đẹp. Câu "Nữ tu không thiền viên 女嬃空嬋媛" của bài Cổ Phong này, Lý Bạch đã lấy ý trong bài thơ Ly Tao 離騷 của Khuất Bình (Khuất Nguyên 屈原):" Nữ tu chi thiền viên hề, Thân thân kì lị dư 女嬃之嬋媛兮,申申其詈予 "( "Người chị gái xinh đẹp của ta chừ! Cứ mắng nhiếc ta mãi" - Ly Tao - câu 129) nhưng dùng chữ "không"空 thay chữ "chi" nên nghĩa rõ ràng và sâu sắc hơn: Người con gái (chị gái) xinh tươi uổng phí kia! (không: uổng phí, trống rỗng, vắng lặng, hư ảo...) Có lẽ Lý Bạch muốn nói đến cái chết với tiết khí thanh cao đẹp đẽ của con người Khuất Bình rồi cũng chỉ uổng công, vô ích trước bọn quần thần ghen ghét, siểm nịnh đời nào cũng đầy khắp... Lý Bạch mượn ý của họ Khuất để ca ngợi tác giả của Ly Tao rất được các văn nhân về sau rất quý trọng.
- Bành Hàm 彭咸: tên một hiền sĩ thời Thương Ân vì can gián vua Trụ không được nên ôm đá tự trầm để giữ khí tiết! Lý Bạch cũng lấy cách sống của nhân vật này trong Ly Tao của Linh Quân:" Nguyện y Bành Hàm chi di tắc 願依彭咸之遺則” (Nguyện nương theo Bành Hàm với khuôn phép để lại của ông - câu 76 )! và "Ngô tương tòng Bành Hàm chi sở cư 吾將從彭咸之所居" (Ta sẽ theo cùng Bành Hàm ở cách ăn ở - câu cuối 373) để nói về cái chết của Khuất Nguyên đã noi theo cách sống của Bành Hàm.

BÀI 68

CỔ PHONG KỲ NGŨ THẬP NHỊ                              古風 其五十二

Thanh xuân lưu kinh thoan,                                          青春流驚湍,
Chu minh sậu hồi bạc.                                                  朱明驟回薄。
Bất nhẫn khán thu bồng,                                               不忍看秋蓬,
Phiêu dương cánh hà thác.                                            飄揚竟何托。
Quang phong diệt lan huệ,                                            光風滅蘭蕙,
Bạch lộ sái quỳ hoắc.                                                    白露洒葵藿。
Mỹ nhân bất ngã kỳ,                                                     美人不我期,
Thảo mộc nhật linh lạc.                                                草木日零落。
Lý Bạch                                                                       李白

Dịch nghĩa:

Cổ phong (bài thứ năm mươi hai)

Tuổi xuân xanh như dòng nước chảy xiết kinh hoàng! Giàu sang phú quí mang vẻ hào nhoáng mau chóng quay về với nhạt nhòa, tàn phai! Không cầm lòng khi nhìn thấy những đám cỏ bồng rối bời trong mùa thu, sao cứ bị gió thổi bay bổng lên mãi. (c. 1-4).
Ánh sáng và những cơn gió đã làm tan tác đám hoa lan, hoa huệ! Sương móc trắng trải làn nước lên đám hoa quỳ và lá dâu. Người đẹp không trông chờ ta đâu! Cỏ cây lúc ban ngày đã héo úa, rụng rơi! (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

CỔ PHONG BÀI THỨ NĂM MƯƠI HAI

Tuổi xuân dòng chảy kinh hoàng,
Giàu sang, hào nhoáng chóng tan mất rồi!
Bồng thu chẳng nỡ trông vời,
Gió sao thổi suốt rối bời tung bay!
Huệ, lan dáng vẻ tàn phai!
Đám sương móc trắng rải bày quỳ, dâu.
Người xinh chẳng hẹn ta đâu,
Ban ngày cây cỏ héo sầu rụng rơi!

Chú thích:
- thanh xuân 青春: tuổi xuân xanh, mùa xuân, tuổi trẻ...
- lưu kinh thoan 流驚湍: dòng nước chảy xiết đáng kinh sợ, dòng nước xiết kinh hoàng...
- chu minh 朱明: chu: màu đỏ biểu tượng cho các nhà quyền quí, giàu có (chu môn 朱顏 ), đẹp đẽ quý phái (chu nhan 朱顏). Chu minh: vẻ hào nhoáng, sáng sủa của sự giàu sang phú quý...
- sậu 驟: mau chóng, bỗng nhiên, chợt, bất ngờ, vội vàng, ngựa chạy mau....
- bất nhẫn 不忍: không nỡ lòng nào, không cam lòng...
- thu bồng 秋蓬: cây cỏ bồng vào mùa thu chết khô, gió thổi bay tung rối mù, nên cũng gọi là "phi bồng 飛蓬."
- phiêu dương 飄揚: gió thổi bay tung lên, gió thổi bay bổng, gió phấp phới...
- cánh竟: xong, cuối cùng, mãi, suốt, trọn, mà lại, trực tiếp...
- thác 托: tung lên, nâng lên, bày ra, cái khay bưng đồ, nhờ, gửi, từ chối....
- quang phong 光風: cảnh tượng, phong cảnh, phẩm cách...
- sái 洒: rảy nước, tẩy rửa, sửng sốt, bỗng nhiên, tiêu sái tự tại. 
- kỳ 期: trông chờ, ước hẹn, mong mỏi, hạn kỳ, một khoảng thời gian, kỳ hẹn...

(Lần đến: THƠ LÝ BẠCH; Bài 69, 70 và 71)

Dương Anh Sơn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét