Thứ Sáu, 28 tháng 10, 2022

Thơ Đỗ Phủ - Bài 51, 52 Và 53

 


THƠ ĐỖ PHỦ - BÀI 51, 52 VÀ 53
Thầy Dương Anh Sơn

Bài 51

PHẠM NHỊ VIÊN NGOẠI MẠC, NGÔ THẬP THỊ NGỰ UẤT
ĐẶC UỔNG GIÁ KHUYẾT TRIỂN ĐÃI, LIÊU KÝ THỬ TÁC
范二員外邈,吳十侍禦鬱特枉駕闕展待,聊寄此作

Tạm vãng tỵ lân khứ,                                                     
Không văn nhi diệu quy.                                               空聞二妙歸。
U thê thành giản lược,                                                   幽棲成簡略,
Suy bạch dị quang huy.                                                 衰白已光輝。
Dã ngoại bần gia viễn,                                                   野外貧家遠,
Thôn trung hảo khách hy,                                              村中好客稀。
Luận văn hoặc bất quý,                                                  論文或不愧,
Khẳng trùng khoản sài phi.                                            肯重款柴扉。
Đỗ Phủ (năm 761)                                                         杜 甫

Dịch nghĩa:

Vừa mới qua nhà hàng xóm trong chốc lát, không nghe nói hai vị kháchquý (ghé nhà) đã trở về! Nơi ở tối tăm thành ra đơn giản, sơ sài! Già yếu bạc đầu đã qua thời rực rỡ! (c.1-4) Nhà nghèo khó, ở ngoài cánh đồng xa, trong thôn xóm ít khi có khách quý. Bàn bạc văn chương có lẽ chẳng hổ thẹn , sẽ lại gõ cửa sài lần nữa (c.5-8).

Tạm chuyển lục bát:

ÔNG HAI VIÊN NGOẠI PHẠM MẠC, ÔNG MƯỜI THỊ NGỰ NGÔ UẤT ĐẶC BIỆT GHÉ THĂM UỔNG PHÍ DO THIẾU SÓT KHI TIẾP ĐÃI, LÀM BÀI NÀY ĐỂ GỬI

Mới qua hàng xóm tức thời,
Không nghe khách quý hai người đã lui!
Sơ sài chốn ở tối thui.
Hào quang - tóc trắng giờ thôi yếu già!
Nhà nghèo ngoài cánh đồng xa.
Hiếm khi khách quí ghé qua trong làng.
Văn chương chẳng thẹn luận bàn,
Cửa sài cứ gõ, hãy sang nơi này!

Chú thích:
- uổng giá 特枉駕: phí công viếng thăm...
- khuyết triển đãi 闕展待: thiếu sót khi tiếp đãi khách ghé thăm.
- tạm vãng 暫往: mới vừa qua, mới đến chốc lát...
- tỵ lân 比鄰: hàng xóm láng giềng gần bên nhà...
- không văn 空聞: không nghe nói gì , không nghe thấy...
- diệu 妙: quí hiếm, tài tình, khéo léo, tuyệt vời, hay ho, kỳ diệu...
- u thê 幽棲: chỗ nghỉ ngơi hay chỗ ở tối tăm, chỗ ở ẩn sâu kín (u nhã 幽雅: chỗ ở mát mẻ)
- thành giản lược 成簡略: thành ra đơn giản, sơ sài...
- suy bạch 衰白: suy kém ,sa sút và tóc trắng, chỉ sự già yếu...
- dĩ quang huy 已光輝
 : đã qua cái thời vẻ vang, rực rỡ, chói lọi, hào quang...
- hảo khách hy 好客稀: hiếm khi, ít khi có khách quý...
- hoặc bất quý 或不愧: nếu không hổ thẹn, có lẽ không xấu hổ...
- khẳng trùng 肯重: cứ làm lại, đồng ý trở lại...
- khoản sài phi 款柴扉: gõ vào, đập vào cánh cửa làm bằng tre củi. Sài phi cũng có nghĩa là nơi ở đơn giản của người ở ẩn nghèo...

* Bài này làm năm 761 khi Đỗ Phủ đưa gia quyến từ Cam Túc vào đất Thục, cất mái nhà tranh nhỏ trên cánh đồng xa bên ngoài Thành Đô.

Bài 52

VU SƠN NHẬT TÌNH                                          巫山日晴 (晴其一)

Cửu vũ Vu Sơn ám,                                                       久雨巫山暗,
Tân tình cẩm tú văn.                                                      新晴錦繡文。
Bích tri hồ ngoại thảo,                                                   碧知湖外草,
Hồng kiến hải đông vân.                                                紅見海東雲。
Cánh nhật oanh tương hoạ,                                            竟日鶯相和,
Ma tiêu hạc sổ quần.                                                      摩霄鶴數群。
Dã hoa can cánh lạc,                                                      野花乾更落,
Phong xứ cấp phân phân.                                              風處急紛紛。
Đỗ Phủ (năm 767)                                                        杜 甫

Dịch nghĩa:

Mưa kéo dài khiến núi Vu tối sầm .Trời mới tạnh ráo đẹp đẽ như gấm
thêu. Biết là hồ xanh biếc nhờ những lớp cỏ (vây quanh) bên ngoài; trông thấy những đám mây phía đông của biển pha màu hồng (c.1-4). Suốt ngày vang tiếng chim oanh hòa cùng nhau; vài bày chim hạc bay chạm đến tận trời. Những cánh hoa dại khô héo nơi cánh đồng đang rơi rụng; gió vùng này thổi vội vàng tán loạn (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

BAN NGÀY KHI NÚI VU TẠNH MƯA

Núi Vu mưa mãi mịt mờ,
Tạnh xong cảnh đẹp gấm tơ thêu bày!
Biết hồ xanh biếc cỏ cây,
Phía đông thấy biển sắc mây màu hồng.
Suốt ngày oanh hót cùng chung.
Tận trời ,chim hạc ruổi rong vài bầy.
Hoa đồng khô héo rụng đầy,
Vội vàng gió thổi tung bay rối bời!

Chú thích:
- cửu 久: lâu dài, mãi, rất lâu.
- ám 暗: tối mờ, mờ ám, không rõ rang, u ám, mù quáng, tối tăm...
- cánh nhật 竟日: trọn ngày, suốt ngày...
- ma tiêu 摩霄: chạm đến khoảng trời không, chạm đến tận trời...
- sổ quần 數群: vài bầy, dăm ba bầy, đếm được vài bầy...
- cấp 急: vội vàng, gấp gáp, hấp tấp, lập tức, mau chóng...
- phân phân 紛紛: khắp nơi, tán loạn, rối bời, lộn xộn...
**Tên bài thơ có nơi chép là Tình kỳ nhất ( 晴其一) hoặc Vu Sơn
Tình (巫山晴)

BÀI 53

NGUYỆT DẠ ỨC XÁ ĐỆ                                            月夜憶舍弟

Thú cổ đoạn nhân hành,                                                戍鼓斷人行,
Thu biên nhất nhạn thanh.                                             秋邊一雁聲。
Lộ tòng kim dạ bạch,                                                     露從今夜白,
Nguyệt thị cố hương minh                                            月是故鄉明。
Hữu đệ giai phân tán,                                                    有弟皆分散,
Vô gia vấn tử sinh.                                                        無家問死生。
Ký thư trường bất đạt,                                                   寄書長不達,
Huống nãi vị hưu binh.                                                  況乃未休兵。
Đỗ Phủ (năm 759)                                                        杜 甫

Dịch nghĩa:

Tiếng trống nơi đồn thú đã cắt đứt những con người đang đi! Mùa thu nơi vùng biên cương có tiếng kêu của một con nhạn. Những hạt sương móc theo nhau trắng xóa trong đêm nay , trăng vẫn sáng nơi quê nhà (c.1- 4). Có các em trai đều đã chia lìa rải rác, không còn nhà để hỏi thăm sống chết thế nào! Thư từ gửi đã lâu vẫn không đến lại thêm binh đao vẫn chưa dừng (c.5-8).

Tạm chuyển lục bát:

ĐÊM TRĂNG NHỚ CÁC EM

Trống đồn ngưng bước người đi,
Mùa thu một tiếng biên thùy nhạn vang.
Theo đêm, móc trắng tỏa lan,
Ở nơi quê cũ vầng trăng sáng ngời.
Các em đều đã chia rời,
Không nhà sống chết hỏi nơi chốn nào?
Gửi thư chẳng đến, lâu sao!
Huống gì còn chuyện binh đao chưa dừng!

Chú thích:
- Xá đệ 舍弟: chỉ các em trai của mình khi nói với người khác
- đoạn nhân hành 斷人行: cắt đứt ,làm dừng lại, gián đoạn bước
chân những người đang đi.
- biên thu 秋邊: biên ải (biên cương, biên thùy) vào mùa thu.
- trường bất đạt 長不達: đã lâu vẫn chưa đưa đến.
- huống nãi 況乃: huống là, thêm vào đó, là, huống chi là...

(Lần đến: THƠ ĐỖ PHỦ: Bài 54, 55 và 56 )

Dương Anh Sơn 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét