Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2022

Thơ Lý Bạch - Bài 69, 70 Và 71

 


THƠ LÝ BẠCH - BÀI 69, 70 VÀ 71
Thầy Dương Anh Sơn 

Bài 69

CỔ PHONG KỲ NGŨ THẬP TAM                             古風 其五十三

Chiến Quốc hà phân phân,                                              戰國何紛紛,
Binh qua loạn phù vân.                                                   兵戈亂浮雲。
Triệu ỷ lưỡng hổ đẩu,                                                      趙倚兩虎斗,
Tấn vi lục khanh phân.                                                    晉為六卿分。
Gian thần dục thiết vị,                                                     奸臣欲竊位,
Thụ đảng tự tương quần.                                                 樹黨自相群。
Quả nhiên Điền thành tử,                                                果然田成子,
Nhất đán sát Tề quân.                                                     一旦殺齊軍.
Lý Bạch                                                                          李白

Dịch nghĩa:

Cổ phong bài thứ năm mươi ba.

Thời Chiến Quốc sao lại bị chia tách khắp nơi nơi!?- Binh đao, loạn lạc như mây nổi bấp bênh - Nước Triệu dựa vào hai con hổ cao lớn (như sao bắc đẩu).- Nước Tấn bị sáu quan lớn trong triều đình gây nên sự chia rẽ, phân hóa! (c. 1-4). - Bọn gian thần mong muốn chiếm địa vị quyền hành, - đã dựng ra các bè đảng cùng tụ họp với nhau! - Đúng như thế, Điền Văn (Mạnh Thường Quân) thành kẻ chịu chết dí (không làm gì được nữa).- Một sớm ngày nào đó, quân Tề đã bị tàn sát (c. 5-8).

Tạm chuyển lục bát:

CỔ PHONG BÀI THỨ NĂM MƯƠI BA.

Cớ sao Chiến quốc nơi nơi?!
Bấp bênh loạn lạc, rối bời binh đao!
Triệu nhờ hai hổ trên cao,
Triều nhà Tấn lại chia vào sáu quan!
Chiếm quyền ham hố quan gian!
Hùa theo dựng đảng, vầy đàn với nhau.
Điền thành chết dí, đúng nào!
Quân Tề bị giết sớm nao có ngày!

Chú thích:

- Chiến quốc 戰國: xem chú thích ở các bài trước.
- phân phân 紛紛: khắp nơi, chỗ nào cũng có, rất nhiều... (phân: rối ren, lộn xộn, không ổn định...)
- phù vân 浮雲: mây trôi nổi, không bền vững, không được yên ổn, bấp bênh...
- lưỡng hổ đẩu 兩虎斗: hai con hổ cao lớn, hai con hổ trên cao chót vót... Đây chỉ Lạn Tương Như 蔺相如 và Liêm Pha 廉頗, hai người đứng đầu hàng văn quan và võ quan của nước Triệu. Lạn Tương Như xuất thân làm môn khách của hoạn quan Mục Hiền. Ông một người uy dũng và mưu trí đã một lần tính kế để giúp Mục Hiền thoát tội chết với vua Triệu Huệ Văn vương. Cũng thời vua này, nước Triệu có được viên ngọc bích họ Hòa rất quý báu và nổi tiếng (xem C.T. bài 66 ở trên). Tần Chiêu vương nghe tin cho sứ sang Triệu xin đổi 15 thành lấy viên ngọc bích họ Hòa này. Vua Triệu cùng tướng quân Liêm Pha và quần thần chỉ sợ vua Tần nói dối lừa lấy ngọc mà không giao thành. Nhưng nếu không đem ngọc sang cũng sẽ bị Tần đem binh đánh Triệu. Triều đình nước Triệu chưa biết tính kế nào cho vẹn toàn thì hoạn quan Mục Hiền xin tiến cử Lạn Tương Như. Vua Triệu cho mời họ Lạn vào bàn tính và Tương Như nói chắc chắn rằng ông sẽ đi sứ để lo liệu, nếu không được giao 15 thành như vua Tần đã hứa thì ngọc bích họ Hòa cũng nhất định không trao cho Tần! Lạn Tương Như đem ngọc qua Tần vào bái kiến Tần Chiêu vương. Vua Tần mừng rỡ xem ngọc rồi đưa cho các cung tần sủng ái cùng xem mà không đả động đến việc giao thành. Lạn Tương Như thấy vua Tần không thực lòng bèn lấy cớ chỉ cho vua thấy chỗ bị rạn trên mặt ngọc rồi ôm ngọc đứng gần trụ cột nói là nếu vua không thực sự trao thành ông sẽ đập đầu vào cột để chết và đập tan hòn ngọc. Tả hữu nhìn ông như muốn ăn tươi nuốt sống. Vua Tần tiếc ngọc nên đồng ý theo điều kiện của Tương như đưa ra là phải thành tâm trai giới năm ngày mới được giao ngọc đổi thành. Tuy nhiên, Lạn Tương Như đoán biết vua Tần không thực lòng nên sai bộ hạ đang đêm đem ngọc đưa lại về cho vua Triệu. Đến ngày giao ngọc, vua cho làm lễ cửu tân trịnh trọng. Lạn Tương Như đứng giữa triều nhà Tần dõng dạc nói là Triệu là một nước nhỏ sẵn sàng vâng phục nước lớn như Tần nhưng kinh nghiệm cho thấy từ trước đền nay các vua Tần thường không giữ lời nên nếu Tần thực sự giao thành thì bên Triệu sẽ đem ngọc dâng sau. Vua Tần và các quan rất tức giận nhưng vì muốn giữ mối giao hảo tốt đep nên vẫn cho tiếp đãi đoàn sứ nhà Triệu tử tế và cho phép về lại Triệu. Nhờ có công lớn, sau chuyến sứ trình này, Lạn Tương Như được vua Triệu xếp vào hàng Thượng đại phu. Về sau, cũng trong một chuyến tháp tùng vua qua Tần để nghị hòa ở Dẫn Trì, Tây Hà là vùng đất do nhà Ngụy cắt dâng Tần năm 352 TCN. Nhờ tài đối đáp, ứng biến và dũng khí của ông nên vua Triệu Huệ Văn vương tránh được sự lăng nhục của vua Tần và nhờ đạo quân đi theo vững vàng đã giữ được tính mạng nên vua tôi về lại Triệu an toàn. Vua Triệu một lần nữa cất nhắc ông lên hàng Thượng khanh, đứng hàng đầu triều và trên cả võ tướng nhiều công trạng là Liêm Pha. Tướng Liêm Pha rất tức tối chuyện này vì nghĩ mình cũng có công lớn và xuất thân quyền quý không như họ Lạn. Lạn Tương Như khi ngồi xe đi trên các con đường trong thành vẫn cho xe tránh mặt Liêm Pha. Người đi theo họ Lạn không bằng lòng xem đó là thái độ hèn yếu, không xứng với cốt cách và địa vị của ông. Lạn Tương Như nói cho tả hữu biết rằng, nước Triệu sở dĩ được yên bình vì nhà Tần biết Triệu có "lưỡng hổ" giữ vững bờ cõi, việc tránh sự làm nhục của Liêm Pha cốt để giữ hòa khí và nội bộ trong nước được yên ổn mới mong dồn sức đối phó nhà Tần. Chuyện này đến tai Liêm Pha. Liêm Pha thấy rõ cái sai của mình nên cởi áo để trần, tự trói mình và mang roi đến dinh phủ của Lạn Tương Như xin tạ tội. Hai người từ đó thân thiết với nhau đã giúp nước Triệu được yên ổn một thời gian dài...
- đẩu 斗 : vượt lên trên, vượt trội, cao hơn hết, cao lớn, đột nhiên, sao Bắc đẩu, bé nhỏ...
- lục khanh 六卿: sáu chức quan khanh coi sáu bộ thời nhà Chu gồm: Thiên quan trủng tể 天官冢宰, Địa quan tư đồ 地官司徒, Xuân quan tông bá 春官宗伯, Hạ quan tư mã 夏官司馬, Thu quan tư khấu 秋官司寇, Đông quan tư không 冬官司空. Về sau được gọi gọn gàng hơn : quan Thái tể, Đại tư đồ, Đại tư bá, Đại tư mã, Đại tư khẩu và Đại tư không, tương tự sáu chức Thượng thư của lục bộ (sáu bộ)về sau. Nước Tấn bị chia rẽ nội bộ do sự tranh giành quyền lực của lục khanh làm cho suy yếu thành ra ba nước nhỏ là Hàn, Triệu, Ngụy rồi bị Tần tiêu diệt.
- thiết vị 竊位: chiếm lấy địa vị, giành lấy ngôi vị cấp bậc, chiếm quyền...
- đảng 黨: bè lũ, bè đảng, bọn hùa theo a dua, bè nhóm gầy dựng cho lợi ích riêng tư hay cho một mục đích cao hơn.
- quả nhiên 果然: quả thực, đúng như thế, đúng là, no bụng ( cách nói của nhà thơ Bạch Cư Dị)...
- Điền 田: ở đây Lý Bạch muốn nói sự bó tay, phải chịu chết dí (thành tử 成 子 : thành ra phải chịu chết) của Mạnh Thường Quân Điền Văn sau khi vua Tề nghe lời sàm tấu của bọn quan siểm nịnh truất quyền tể tướng của ông khiến ông phải lánh sang nước Ngụy rồi sau khi về già, ông trở lại ấp Tiết rồi chết nơi ấp được phong này. Trước đó, Điền Văn đã liên kết, hợp tung với quân Tề cùng Ngụy và Hàn (năm 298 TCN) đánh đuổi quân Tần đến tận ải Hàm Cốc lần thứ nhất. Rồi năm kế tiếp (297 TCN), ông cầm quân ba nước Tề, Ngụy, Hàn tấn công quân Tấn đẩy họ tới cửa ải Hàm Cốc, nơi từ đó tiến vào trung thổ của họ, chiếm được thành Diêm Thị. Nhưng do Tề Mẫn vương thiếu sáng suốt lại tự cao tự đại sau khi diệt Tống (286 TCN) cũng như nghe lời bọn siểm nịnh cho ông có ý làm phản nên muốn giết Mạnh Thường Quân, khiến ông phải lánh sang nước Ngụy. Từ khi, ông rời Tề, coi như người đã bị chết dí không làm gì được để đối phó với Tần, Yên. . nên quân Tề bị thua liên miên mất hết các thành trì sau khi Yên Chiêu vương liên kết với Tần, Ngụy, Hàn để rửa mối thù cũ do Tề Mẫn vương đã đem quân đánh phá Yên trước đây (315 TCN), Tề mất hết bảy mươi thành chỉ còn giữ được thành Cử và Tức Mặc. Nhờ tài trí của Điền Đan 田單 từ dân thường do có nhiều mưu lược được đề cử lên làm tướng nên không những giữ vững hai thành còn lại mà lần lượt lấy lại bảy mươi thành đã mất nhưng nước Tề cũng thiệt hại. Mặt khác ,Tề vốn nhân vật lực rất nhiều không được hùng mạnh như trước nữa để cuối cùng bị Tần Thủy hoàng lần lượt tóm thâu Ngụy, Hàn, Triệu, Yên, Tề thống nhất Trung Hoa (221 TCN)
- nhất đán 一旦: một sớm mai nào đó, một ngày nào đó, một mainào, ngày (nguyên đán )...

Bài 70

CỔ PHONG KỲ NGŨ THẬP TỨ                                古風 其五十四

Ỷ kiếm đăng cao thai,                                                     倚劍登高臺,
Du du tống xuân mục.                                                     悠悠送春目。
Thương trăn tế tằng khâu,                                               蒼榛蔽層丘,
Quỳnh thảo ẩn thâm cốc.                                                瓊草隱深谷。
Phượng điểu minh tây hải,                                              鳳鳥鳴西海,
Dục tập vô trân mộc.                                                       欲集無珍木。
Hạc tư đắc sở cư,                                                             鷽斯得所居,
Hao hạ doanh vạn tộc                                                      蒿下盈萬族。
Tấn phong nhật dĩ đồi,                                                     晉風日已頹,
Cùng đồ phương đỗng khốc.                                           窮途方慟哭。
LýBạch                                                                            李白

Dịch nghĩa:

Cổ phong bài thứ năm mươi bốn.

Tựa vào cây kiếm leo lên đài cao , - mắt nhìn phía xa xa tiễn đưa mùa xuân ra đi.- Những bụi cỏ gai màu xanh thẫm đã che khuất các tầng lớp gò đồi. - Cây hoa quỳnh ẩn giấu trong hang núi sâu. (c. 1-4) Con chim phượng kêu lên nơi biển phía tây - muốn đậu trên cây không phải loại quý hiếm! - Con chim khách có được chỗ ở riêng biệt - trông xuống đầy đủ muôn ngàn dòng tộc! (c. 5-8) Lề thói, phong tục tốt đẹp của nhà Tấn ngày càng suy đồi! - Bước đường cùng cũng đến lúc phải gào khóc thôi! (c. 9-10)

Tạm chuyển lục bát:

CỔ PHONG BÀI THỨ NĂM MƯƠI BỐN.

Đài cao tựa kiếm leo lên,
Tiễn xuân mắt dõi về miền xa xôi!
Gai xanh che mấy lớp đồi,
Cỏ quỳnh ẩn lánh khe ngòi hang sâu.
Biển tây chim phượng kêu gào,
Mong cây không quí đậu vào nơi đây.
Con chim khách ở riêng tây,
Dưới kia muôn tộc đủ đầy xa trông!
Thói lề nhà Tấn suy vong,
Khóc than đang bước đường cùng đó thôi!

Chú thích:

- du du 悠悠: trông xa, xa xôi, dài dằng dặc, vô tận, nhàn tản, thong dong, liên miên, bất tận...
- thương trăn 蒼榛: sắc cỏ xanh thẫm của các bụi cây trăn, một giống cây gai hoang mọc thành bụi um tùm nên chữ trăn cũng có nghĩa là vướng vít, gai góc, um tùm...
- tế 蔽 (phất): che lấp, khuất lấp, che đậy, xử quyết, bức rèm xe...
- tằng khâu 層丘: các gò đồi từng lớp chập chùng...
- quỳnh thảo 瓊草: cây cỏ quỳnh, một loại cây quí hiếm. Riêng nghĩa của quỳnh có bộ ngọc là loại ngọc quí tên ngọc quỳnh. Ở đây Lý Bạch muốn nói đến những bậc ẩn sĩ đạo cao đức trọng lánh đời nơi chốn khe ngòi, hang động sâu trong núi, họ như hoa quỳnh, ngọc quí tránh xa những phù phiếm của cuộc sống...
- cốc 谷: lũng suối hai bên có ngòi nước chảy gọi là cốc; hang núi có chỗ hỏm cũng gọi là cốc; cùng đường, cùng khốn, khe núi...
- tập 集: đậu trên cây, tập họp, hội họp, đông đúc, góp lại, thi tập hoặc văn tập...
- vô trân mộc 無珍木: loài cây không phải loại quý hiếm.
- hạc 鷽: con chim khách, con chim bồ cắc rừng, chim dáng dấp tựa chim sẻ (hạc cưu).
- tư 斯: riêng tư, riêng tây, chia tách ra, này, bèn, thì...
- hao 蒿: cỏ ngãi (thanh hao, bạch hao...), trông xa. hao hụt, tiêu hao, khí bốc lên.
- tộc 族: dòng dõi thân thuộc, các dòng họ, loài nhóm, tiêu diệt...
- Tấn phong 晉風: lề thói, phong tục nước Tấn thời Chiến Quốc. Nước Tấn thường được gọi là Đường Quốc 唐國 (khác với nhà Đường của thời Lý Bạch) do Chu Thành vương nhà Chu phong đất cho Đường Thúc Ngu, sơ tổ nhà Tấn. Về sau nước Tấn lớn mạnh trong thời Chiến quốc và có lúc thời Tấn Văn công là một trong những xưng là "ngũ bá" đương thời. Nhưng do triều thần chia rẽ, lập bè phái quanh sáu đại thần đầu triều (lục khanh) lấn lướt quyền vua nên đến thời Tấn Xuất công nước Tấn bị diệt vong, nổi lên ba nước nhỏ là do các dòng họ Hàn, Triệu, Ngụy lập nên. Năm 403 TCN, Chu Uy Liệt vương quyết định phong hầu cho ba quan khanh nước Tấn (sau cái chết của vị vua cuối cùng là Tấn Tĩnh công) là Hàn Kiền, Ngụy Tịch và Triệu Tư lên hàng chư hầu thành lập ba nước Ngụy, Hàn, Triệu chấm dứt hơn năm trăm năm tồn tại của nước Tấn (376 TCN) Sau này, lại xuất hiện nhà Tây Tấn 西晉 do quyền thần nhà Ngụy là Tư Mã Ý lập nên (316 -266 TCN)... Lý Bạch rất chú ý sự suy tàn của nhà Tấn do các quan đại thần tranh giành địa vị, quyền lợi gây ra sự xáo trộn, bại hoại, mất kỷ cương trong xã hội lan tràn khắp nhiều nước bấy giờ tạo nên một lề thói không tốt cho việc ổn định. Một cách nào đó, Lý Bạch cũng gián tiếp nói đến sự suy thoái của nhà Đường thời Đường Huyền Tông khi nhà vua mê đắm Dương quý phi bỏ mặc triều chính cho bọn gian thần lộng quyền...
- đỗng khốc 慟哭: khóc gào, khóc lớn tiếng, than khóc.

Bài 71

CỔ PHONG KỲ TỨ THẬP                                            古風 其四十

Phụng cơ bất trác túc,                                                      鳳飢不啄粟,
Sở thực duy lang can.                                                      所食唯琅玕。
Yên năng dữ quần kê,                                                      焉能與群雞,
Thứ túc tranh nhất xan.                                                   刺蹙爭一餐。
Triêu minh côn khâu thụ,                                                朝鳴昆丘樹,
Tịch ẩm chỉ trụ thoa.                                                       夕飲砥柱湍。
Quy phi hải lộ viễn,                                                         歸飛海路遠,
Độc túc thiên sương hàn.                                                獨宿天霜寒。
Hạnh ngộ Vương Tử Tấn,                                              幸遇王子晉,
Kết giao thanh vân đoan.                                                結交青雲端。
Hoài ân vị đắc báo,                                                         懷恩未得報 ,
Cảm biệt không trường thán!                                          感別空長嘆。
Lý Bạch                                                                          李白

Dịch nghĩa:

Cổ phong bài thứ bốn mươi.

Chim phượng dẫu đói khát vẫn không mổ ăn thóc lúa - vì chỗ ăn ở của nó chỉ có loại ngọc lang can. - Con chim yên hòa mình cùng bầy gà - vội vàng giẫm đạp tranh giành một miếng cơm! (c. 1-4) Lúc sớm mai ,tiếng chim hót đông đảo nơi đám cây cối của ngọn đồi. - Lúc chiều tối, chim trụ vững để uống nơi dòng nước chảy xiết - rồi bay về theo con đường biển xa xôi! (c.5-8)
Riêng ta, nghỉ ngơi qua đêm ở vùng trời sương giăng lạnh lẽo. - Ta may mắn đã gặp gỡ Vương Tử Tấn, - đó là mầm mối khời đầu cho việc kết giao tình bạn tốt lành (như làn mây xanh). Ơn nghĩa vẫn luôn nhớ dẫu chưa báo đáp. - Khi chia tay lòng thầm xúc cảm dạt dào nên cứ than thở hoài! (c.9-12).

Tạm chuyển lục bát:

CỔ PHONG BÀI THỨ BỐN MƯƠI

Đói lòng, lúa phượng chẳng ăn!
Chốn ăn chỉ ở ngọc lang can này!
Chim yên - hòa giữa gà bầy,
Tranh giành dẫm đạp một vài miếng ăn!
Cây đồi chim sớm hót vang,
Chiều hôm nước xiết vững vàng uống thôi.
Bay về đường biển xa xôi,
Riêng mình đêm nghỉ sương trời lạnh buông.
Gặp may ,Tử Tấn họ Vương,
Khởi đầu kết bạn tầng mây xanh màu.
Ơn mang chưa đáp được nao!
Chia tay than mãi dạt dào không nguôi.

Chú thích:

- phụng 鳳: người Trung Hoa xưa phân biệt chim phụng (chim phượng) là con trống và hoàng 凰 là con chim mái . Về sau, dângian thường gọi chung là chim phượng hoàng (phụng hoàng). Chim phượng được người Trung Hoa xem như một biểu tượng cho đức hạnh, sự thanh nhã, lòng tận tụy trung thành, vẻ cao quý riêng biệt... v.v...
- trác túc 啄粟: chim dùng mỏ mổ thóc lúa hay hạt ngô... v.v... để ăn.
- lang can 琅玕: tên một loại ngọc quý cũng là nơi người Trung Hoa xưa cho là nơi sinh sống của chim phượng hoàng.
- yên 焉: nước Yên thời Chiến Quốc bên T.H, con chim yên có lông màu vàng thường gặp ở vùng Giang Hoài, T.H (thuộc vùng Giang Tô và Hoài Hà, trở thành vùng Nam Kinh sau này...), trợ từ có nghĩalà cho nên, vì vậy... v.v... Ở đây Lý Bach cho thấy một bên là những kẻ có cuộc sống thanh nhã, cao quý tách biệt với những kẻ sống tầm thường ,giành giật cơm áo...biểu tượng qua hai loài chim phụng và chim yên)
- năng 能: tài năng, khả năng, thuận theo, hòa hợp, hay làm, công dụng.....
- thứ túc 刺蹙: đâm mổ, giẫm đạp lên nhau (túc: giẫm đạp, theo đuổi, gấp rút, khốn quẫn, buồn rầu, nhỏ hẹp, bất an, khổsở....)
- côn 昆: nhiều, đông đúc, cùng nhau, em trai, con cháu đời sau.....
- chỉ trụ 砥柱: đứng vững chải, cân bằng. (chỉ: đều, bằng, dẹp cho yên, mài giũa...; trụ: căng dây đàn, chống chỏi, gìn giữ, trục đàn, trụ cột ...) - thoan 湍: dòng nước chảy xiết.
- Vương Tử Tấn 王子晉: còn gọi là Vương Tử Kiều làm chức Thái tử Tấn của Chu Linh vương có tài thổi kèn nghe như chim phụng hoàng hót . Theo truyền thuyết , Vương Tử Tấn khi đi chơi vùng Y Lạc đã gặp đạo sĩ Phù Khâu Công rồi tìm đến núiTung Cao tu luyện thành tiên có thể bay được. Lý Bạch kể rằng mình đã may mắn gặp được ông tiên Vương Tử Tấn rồi kếtgiao làm bạn nơi chốn tiên cảnh và chia tay với nổi cảm xúc dào dạt.... (theo Viên Mai đời Thanh trong "Tử bất ngữ", quyển24). Những câu chuyện như thế này chỉ có tính chất huyền thoại và nhằm tăng thêm sự lãng mạn, thi vị và thoát tục về cuộc đời của Lý Bạch.
- thanh vân 青雲: một nghĩa chỉ con đường danh lợi, thi cử đậu đạt ra làm quan; một nghĩa khác chỉ sự an lành, thanh bình hay sự tốt lành....
- đoan 端: đầu mối, mầm mối, đích thực....

(Lần đến: THƠ LÝ BẠCH bài 72, 73 và 74

Dương Anh Sơn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét