ỨC TRAI THI TẬP - BÀI 13 VÀ 14
Thầy Dương Anh Sơn
THỜI KỲ LƯU LẠC KHI GIẶC MINH XÂM LƯỢC
(Khoảng 1407 - 1417, 14 bài)
Bài 13
THẦN PHÙ HẢI KHẨU 神 符 海口
Cố quốc quy tâm lạc nhạn biên, 故國歸心落雁邊,
Thu phong nhất diệp hải môn thuyền. 秋風一 葉海門船.
Kình phún lãng hống lôi nam bắc, 鯨歕浪吼雷南北,
Sóc ủng sơn liên ngọc hậu tiền. 槊擁山連玉後前.
Thiên địa đa tình khôi cự tẩm, 天地多情恢巨浸,
Huân danh thử hội tưởng đương niên. 勲名此會想當年.
Nhật tà ỷ trạo thương mang lập, 日斜倚棹滄茫立,
Nhiễm nhiễm hàn giang khởi mộ yên. 冉冉寒江起暮煙.
Nguyễn Trãi 阮廌
Dịch nghĩa:
Theo cánh nhạn ở vùng biên giới xa, lòng hướng về quê xưa - Chiếc thuyền ở cửa biển như chiếc lá trước cơn gió mùa thu – Phía nam và bắc, sóng như sấm động, như cá kình phun – Núi như những chiếc giáo ngọc nối nhau phía trước và sau (c.1-4) - Trời đất nhiều tình mở ra vịnh lớn – Công lao và tiếng tăm, nhớ lại năm nào cuộc họp này - Dựa chèo lúc mặt trời xế bóng đứng nhìn bát ngát mênh mông – Dòng sông từ từ mờ khói trong cái lạnh (c.5-8).
Dịch thơ:
CỬA BIỂN THẦN PHÙ
Nhạn ven ,lòng hướng quê xưa,
Cửa khơi một lá ,gió thu đưa thuyền.
Bắc nam sấm động sóng kình,
Giáo che núi ngọc nối liền trước sau.
Đất trời vịnh lớn tình trao,
Công danh nhớ đến năm nào hội đây!
Tựa chèo bát ngát xế ngày,
Khói chiều khơi dậy,sông rày lạnh thêm!
Chú thích:
- Thần Phù 神 符: cửa biển nằm ở huyện Nga Sơn (Thanh Hóa).
- lạc nhạn biên 落雁邊: con chim nhạn rơi rớt lẻ bày ở vùng biên giới, vùng ven xa.
- nhất diệp一葉: một lá, một chiếc thuyền lẻ loi.
- hải môn 海門: cửa biển tạm dịch là “cửa khơi” như khi ta nói “ngoài khơi xa”, ngoài biển xa.
- kình phún 鯨歕: cá kình, cá voi vừa bơi, vừa phun nước (chữ phún đồng nghĩa 噴 (bộ khẩu).
- hống lôi 吼雷: tiếng sấm động lớn.
- sóc 槊: giáo, dài nhọn. Sóc ủng sơn liên ngọc 槊擁山連玉: núi nối liền như những chiếc giáo làm bằng ngọc che chắn, bảo vệ trước sau (ủng hậu tiền).
- khôi cự 恢巨: to lớn, có chí lớn.
-tẩm 浸: đầm hay vịnh lớn, chậm rãi, từ từ, dần dần, thấm dần, thêm dần.
- huân 勲: công lao.
- thương mang 滄茫: mênh mông, bát ngát.
- nhiễm nhiễm 冉冉: thêm dần, từ từ.
Bài 14
LONG ĐẠI NHAM 龍 袋 岩
Khứ niên hổ huyệt ngã tằng khuy, 去年虎穴我曾窺,
Long Đại kim quan thạch quật kỳ. 龍袋今觀石窟奇.
Ngao phụ xuất sơn, sơn hữu động, 鰲 負出山山有洞,
Kình du tắc hải, hải vi trì. 鯨遊塞海海為池.
Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão, 壺中日月天難老,
Thế thượng anh hùng thử nhất thì. 世上英雄此一時.
Lê, Phạm phong lưu ta tiệm viễn, 黎范風流嗟漸遠,
Thanh đài bán thực bích gian thi. 青苔半蝕壁間詩.
Nguyễn Trãi 阮廌
Dịch nghĩa:
Năm trước ta từng trộm xem hang hổ - Nay lại xem thấy núi Long Đại có nhiều hang động lạ lùng – Con ba ba biển to lớn đội núi lên, sinh ra động trong núi (c.1-4) – Con cá voi to rong chơi lấp biển thành ra ao – Trong chiếc bầu thời gian đêm ngày, ông trời khó già lão - Người anh hùng trên đời này chỉ có một thời - Nếp phong lưu của họ Lê, họ Phạm than ôi cũng đã dần xa - Rêu xanh đã ăn dần nửa bài thơ khoảng giữa vách đá rồi (c.5-8).
Dịch thơ:
NÚI LONG ĐẠI
Năm rồi trộm thấy hang hùm,
Ngắm hang Long Đại lạ lùng giờ đây!
Núi thành ngao đội, động bày,
Làm ao, lấp biển kình vầy cuộc chơi.
Trời trăng khó lão bầu trời,
Anh hùng một thuở trên đời mà thôi.
Phong lưu Lê, Phạm xa xôi,
Rêu xanh nửa vách gặm rồi bài thơ.
Chú thích:
- Long Đại nham 龍袋岩: tức núi Hàm Rồng ở Thanh Hóa. Bản “Phúc Khê Nguyên bản” của Dương Bá Cung sưu tập thời Tự Đức (bản dịch Hoàng Khôi – in Sài Gòn 1970) viết là 龍 袋 có nghĩa là “cái túi chứa Rồng”. Còn bản in do Đào Duy Anh hiệu đính (Hà Nội 1969) viết là 龍岱 có nghĩa là “con rồng ở núi Đại” tức núi Thái Sơn
bên Trung Quốc.
- hổ huyệt 虎穴: hang hùm, hang cọp; chỉ nơi đóng quân của giặc Minh ở Đông Đô (Hà Nội).
- khuy 窺: trộm xem, dòm ngó.
- quan 觀: ngắm nhìn, cách nhìn, quan điểm, ý thức, cảnh tượng, quan cảnh, đã xem, làm gương, so sánh. Một âm là quán; lầu đài, gác cao, nơi tu đạo...
- quật 窟: hang, hầm chứa đồ
- ngao phụ 鰲負: ngao là ba ba lớn, phụ nghĩa là đội lên, cõng mang. Đây chỉ vùng núi Thanh Hóa có núi Hàm Rồng (Long Đại) nhấp nhô như ba ba hoặc rùa biển đội núi lên.
- xuất 出: sinh ra, mở ra, đưa ra, thành ra, lộ ra, đến...
- kình 鯨: cá kình, cá voi to.
- hồ 壺: cái bầu, đây chỉ bầu trời rộng lớn có trăng sao, mặt trời. Theo đạo Lão, ngày xưa Trương Thân có cái bầu lớn chứa đựng trời trăng, có thể vào đó để ngủ nên gọi là hồ thiên (trời trong cái bầu)
- Lê, Phạm 黎范: tức Lê Quát (tự Bá Quát) quê ở Hải Dương và Phạm Sư Mạnh quê ở Thanh Hóa là hai môn sinh của Chu Văn An có thơ ngâm vịnh và đề cao các thắng tích.
- ta tiệm viễn 嗟漸遠: than ôi đã dần dần xa xôi.
** Một số dịch giả khi biên dịch Ư.T.T.T. lại cho hai bài thơ “Quan hải “ và “Hải khẩu dạ bạc hữu cảm (2 bài) xếp vào thời kỳ Nguyễn Trãi còn lưu lạc, chưa vào Thanh Hóa giúp Lê Lợi khởi nghĩa chống giặc Minh phía bắc xâm lược. Vấn đề sắp xếp các bài thơ của Ức Trai tiên sinh vẫn chưa được thống nhất.
(Lần đến: Ức Trai Thi Tập: bài 15, 16 và 17 – Thời kỳ Nguyễn Trãi ra giúp Lê
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét