Hình minh họa
CON NGƯỜI ĐẤT NAM KỲ
Lâm Văn Bé
Nam Kỳ là
lãnh thổ cực Nam của nước Đại Nam triều Nguyễn, là một trong ba kỳ hợp thành nước
Việt Nam. Tên gọi này do vua Minh Mạng đặt ra năm 1832. Sau khi Việt Nam giành
được độc lập năm 1945, Nam Kỳ bắt đầu được gọi là Nam Bộ, trong giai đoạn
1948-1954 thường gọi là Nam Việt.
Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa cũng dùng tên gọi Nam phần, vốn đã được
sử dụng từ năm 1947 trong giai đoạn sau của Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ. Diện tích
Nam Kỳ là 67.293,1 km2.
Người dân miền Thuận Quảng, sau gần 400 năm tiếp cận với nền văn hóa bản địa
Phù Nam – Chân Lạp, với người Minh Hương, người Pháp, tác động bởi một môi trường
thiên nhiên khắc nghiệt thuở ban đầu nhưng trù phú về sau đã tạo cho họ những
nét đặc thù mà từ ngôn ngữ đến tâm tình lẫn tâm tính có nhiều khác biệt với tổ
tiên của họ ở đàng ngoài.
Trước tiên, ngôn ngữ là một đổi thay lớn và nhanh chóng, chỉ một thế hệ, Nguyễn
Ðình Chiểu, con của Nguyễn Ðình Huy gốc người quận Phong Ðiền ở Huế được bổ nhiệm
vào Gia Ðịnh phò tá Lê Văn Duyệt, đã viết ra Lục Vân Tiên, một tác phẩm tiêu biểu
của miền Nam với những lời văn nôm na, bình dân trái với văn phong Hán Học của
ông cha:
Tiên rằng bớ chú cõng con,
Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài.
hay:
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng,
Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây.
Nhiều nhà chánh trị, văn hóa nổi tiếng của Việt Nam và miền Nam vào thế kỷ 19
đa số là người Thuận Quảng hay người Minh Hương. Thí dụ Gia Ðịnh Tam gia gồm có
Trịnh Hoài Ðức gốc người Phước Kiến (định cư ở Biên Hòa, tác giả bộ địa phương
chí Gia Ðịnh Thành Thống Chí), Lê Quang Ðịnh gốc người Thuận Quảng (tác giả bộ
Hoàng Việt Nhất Thống Ðịa Dư Chí), Ngô Nhân Tịnh gốc người Quảng Ðông. Nhiều
gia đình danh gia vọng tộc ở miền Nam, đặc biệt ở Gò Công, cũng là con cháu những
người Thuận Quảng đã theo các đàn ghe bầu xuôi Nam lập nghiệp vào thế kỷ 17,
như bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Ðức là con của đại thần Phạm Ðăng Hưng, bà Ðinh Thị Hạnh,
thứ phi của vua Thiệu Trị. Ðến vùng đất mới, lưu dân Thuận Quảng mang theo những
câu hò, điệu hát đàng ngoài nhưng lại được cải biên theo địa danh mới.
Bắp non mà nướng lửa lò
Ðố ai ve được con đò Thuận An
(Huế)
Bắp non mà nướng lửa lò
Ðố ai ve được con đò Thủ Thiêm
(Gia Ðịnh)
Ru em théc cho muồi
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Bát Nhị mua trầu Hội An
Hội An bán gấm bán điều
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành
(Quảng Nam)
Ðố ai con rít mấy chưn
Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mây người
Chợ Dinh bán áo con trai
Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim
(Gia Ðịnh)
Chiều chiều ông Lữ đi câu
Bà Lữ đi xúc, con dâu đi mò
(Thuận Quảng)
Chiều chiều ông Lữ đi câu
Sấu tha ông Lữ biết đâu mà mò
(Nhà Bè)
Chiều chiều ông Lữ đi câu
Trâu tha gảy ách ngồi bờ khoanh tay
Ngoài chuyện cải biên tiếng Việt, sự cộng cư giữa lưu dân Việt từ Ðàng ngoài với
người Tàu, người Miên đã tạo thành một thứ ngôn ngữ pha trộn. Biết bao địa danh
Nam Kỳ là nói trại từ tiếng Miên (Sốc Trăng, Trà Vinh, Bải Xàu, Chắc Cà Ðao…)
danh từ tiếng Việt Miên ghép lại: cầu Mây Tức ở giữa Trà Vinh và Vĩnh Long
(Mây: tiếng Việt, Tức: tiếng Miên=nước) hay Việt Miên Tàu: sáng say, chiều xỉn,
tối xà quần… hay là nóp, bao cà ròn (tiếng Miên) thèo lèo, xá, gật, hủ tiếu,
mì… (tiếng Tàu) và tiếng quần xà lỏn, hay tà lỏn (pantalon, Pháp).
Bàn về bản chất của người Nam Kỳ, tôi mượn hai tài liệu xưa:
Trong Gia Ðịnh Thành Thống Chí của Trịnh Hoài Ðức viết vào khoảng 1820 có đoạn:
Vùng Gia Ðịnh nước Việt Nam đất đai rộng, lương thực nhiều, không lo đói rét,
nên dân ưa sống xa hoa, ít chịu súc tích, quen thói bốc rời. Người tứ xứ. Nhà
nào tục nấy… Gia Ðịnh có vị trí nam phương dương minh, nên người khí tiết trung
dũng, trọng nghĩa khinh tài…
John White, sau khi thăm viếng Sài Gòn trở về Luân Ðôn có viết trong quyển hồi
ký “A voyage to Cochinchina” năm 1824 như sau:
Chúng tôi rất thỏa mãn với tất cả những gì chúng tôi nhìn thấy, mang theo cảm
tưởng tốt đẹp nhứt về phong tục và tánh tình của dân chúng. Những sự ân cần,
lòng tốt và sự hiếu khách mà chúng tôi thấy đã vượt quá cả những gì mà chúng
tôi đã quan sát đến nay tại các quốc gia châu Á…
Tôi cố gắng tìm hiểu những đặc tính của người dân miền Nam mà hai tác giả đã nhận
định như trên qua cái nhìn lịch sử và xã hội.
Sự cộng cư giữa người Việt với người Tàu và người Miên đã khiến người Việt học
được bản chất hiếu khách của hai sắc dân tộc nầy. Hơn thế, bản chất hiếu khách
còn là một nhu cầu sinh tồn của mọi lưu dân trong vùng đất mới. Trước những khắc
nghiệt của thiên nhiên, của bất trắc, lưu dân cần sống có nhau, tương trợ nhau.
Tính hiếu khách chẳng qua là một sự lo xa, phòng thân bởi lẽ nếu hôm nay tôi
giúp anh thì tôi hy vọng ngày mai anh sẽ giúp tôi khi tôi gặp khó. Do đó, chúng
ta không ngạc nhiên khi mới gặp nhau, dù chưa quen biết nhau, dân miền Nam đều
cơm nước trà rượu như đã là bà con cật ruột.
Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi
Khó đi mượn chén ăn cơm
Mượn ly uống rượu mượn đờn kéo chơi
Có người còn giải thích tính hiếu khách, hào phóng của dân Nam Kỳ là do sự trù
phú, màu mỡ của ruộng vườn và tài nguyên dễ kiếm được, kiểu làm chơi mà ăn thiệt
của miền Nam. Giải thích như vậy có phần đúng, nhưng chưa đủ, bởi lẽ không phải
ai giàu cũng hào phóng nếu không sẵn có lòng hào phóng.
Biểu hiện của tính hiếu khách là các tiệc tùng, hợp bạn. Dân Nam Kỳ hay ăn nhậu,
đờn ca xướng hát. Nhưng phải hiểu rằng dân Nam Kỳ hôm nay là dân Thuận Quảng
khi xưa. Xa quê cha đất tổ, người lưu dân, sau những giờ lao động cực lực hay
sau những cơn hiểm nguy, cần có những phút giây để tâm sự hàn huyên với nhau, kể
cho nhau nghe những kỹ niệm xưa để vơi phần nào nỗi sầu ly hương.
Từ những chung rượu cay ở bờ rừng đến những buổi tiệc linh đình ở đám cúng
đình, đám giỗ có đờn ca xướng hát, người dân Nam Kỳ tìm trong những dịp gặp gỡ ấy
để giải khuây, để kết bạn. Tiệc rượu là dịp bàn chuyện làm ăn, chuyện thế sự,
do đó chúng ta không lấy làm lạ cái tiệm nước, quán rượu đầu làng là nơi tụ hợp
quen thuộc của mọi người dân trong làng, từ ban hội tề cho đến thứ dân.
Sơn Nam trong cá tánh của miền Nam đưa ra thêm một lý giải khác về bản tánh hiếu
khách, tứ hải giai huynh đệ của người miền Nam. Theo đó thì Thiên Ðịa Hội tạo
ra một nếp sanh hoạt sâu đậm khá hấp dẫn, thực tế: ăn cơm nhà lo chuyện ngoài
đường, sống chết nhờ anh em, tận tình giúp đỡ bạn. Trút tất cả tâm sự với bạn kết
nghĩa thì không có gì đáng ngại, đã là bạn với nhau rồi thì làm sao có chuyện
phản bội. Gặp chuyện bất bình, hoặc như bạn nào bị kẻ khác ăn hiếp thì nổi
nóng, trả thù cho bạn vô điều kiện, đó là đạo nghĩa giang hồ, là điệu nghệ giữa
anh em kết nghĩa, tứ hải giai huynh đệ.
Tưởng cũng nói thêm Thiên Ðịa Hội, là một thứ hội kín người Tàu phò nhà Minh,
liên kết nhau với một kỹ thuật chặt chẽ để giúp đỡ nhau (những chùa miễu, xí
nghiệp Tàu đều có tiền của Thiên Ðịa Hội) ảnh hưởng nhiều đến dân Minh Hương và
cả dân Việt Nam trong suốt thế kỷ 19 từ thành thị đến nông thôn, là một đồng
minh của các nhà ái quốc Việt Nam chống Pháp.
Những khía cạnh tiêu cực của bản tánh hào phóng là sự thiếu cần kiệm, hoang
phí, mà Trịnh Hoài Ðức phê là thói bốc rời. Hiện tượng những Cậu Hai, Cậu Ba,
Công tử Bạc Liêu, con của những đại phú hộ, thay vì dùng tiền rừng bạc biển để
kinh doanh, thì lại đắm chìm trong việc ăn chơi cho đến khi sạch túi. Kết quả
là đa số dân Nam Kỳ bị chôn chân ở ruộng vườn, ít bon chen trong thương trường,
để nền kinh tế cho người Tàu thao túng.
Bản chất đôn hậu mộc mạc là một đức tính khác của dân Nam Kỳ và cũng bắt nguồn
từ điều kiện sinh sống. Bản chất nầy cũng là một nhu cầu cần thiết trong cuộc cộng
cư của dân tha phương. Trong một cộng đồng nhỏ, mọi người trước lạ sau quen tạo
thành một đại gia đình quần tụ với nhau, do đó họ phải cư xử với nhau bằng tình
nghĩa. Những hành động bất tín, bất nghĩa sẽ đưa đến một hình phạt nhục nhã là
bị loại trừ ra khỏi cộng đồng, phải bỏ xứ mà đi. Người dân Nam Kỳ vì vậy nhớ ơn
và trung thành chẳng những với người sống mà cả với người chết. Thông thường
thì có đám giỗ, ngoài việc dọn mâm cơm cúng ông bà cha mẹ còn có mâm cơm bày ra
trước cửa nhà để cúng đất đai, cúng những người đã ra đi trong công cuộc vở đất
mới, cúng thần linh đất đai để những người nầy phù hộ.
Nói về sự phù hộ thì dân Nam Kỳ có không biết bao nhiêu thần hộ mạng bởi trên
con đường lập nghiệp, họ gặp không biết bao nhiêu hiểm nghèo. Một con thú dữ, một
con sông, một tiếng trời gầm, tất cả đều gieo cho họ sự sợ hãi. Trong nỗi bơ
vơ, họ luôn cầu nguyện đất trời để phù hộ họ.
Tới đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh
Ðạo Phật vô Nam vì vậy mà biến thể, mang thêm bản chất dị đoan, bùa chú, cộng
thêm với bản chất mê tín của Phật giáo Théravada của người Miên và tục thờ cúng
nhiều ông Thần, ông Thánh của người Tàu.
Dân Nam Kỳ do đó không phải là những tín đồ Phật giáo thuần thành. Việc đi
chùa, hành hương, làm công quả, ngoài chuyện cầu nguyện, van vái còn mang thêm
bản chất xã hội. Ðó là những dịp để bạn bè thân thích gặp gỡ nhau trong một
khung cảnh linh thiêng. Chùa chiền trong Nam đa số không uy nghi, cổ kính như
chùa miền Bắc và miền Trung, mà trái lại thường khiêm tốn, thu mình trong những
tàng cây cổ thụ, có khi diện tích cây trái xung quanh lớn hàng chục lần ngôi
chùa (các ngôi chùa Miên lại là giang sơn của các loài chim muông). Ði chùa, đi
hành hương đối với dân Nam Kỳ, đặc biệt với phụ nữ còn là dịp đi vãn cảnh…
Không lấy làm lạ, là các ngày lễ hội truyền thống như Lễ Hội Bà Chúa Xứ (vía
Bà) ở núi Sam Châu Ðốc (25 tháng tư), Lễ Hội Ðền Bà Ðen ở Tây Ninh (rằm tháng
giêng), Lễ Hội Cúng Cá Voi ở các vùng ven duyên hải (ngày giờ tùy vùng), Lễ Hội
Thánh Ðịa Hòa Hảo ở làng Hòa Hảo Long Xuyên (18 tháng năm âm lịch) … đã diễn ra
trong nhiều ngày thu hút hàng trăm ngàn người, không những là tín đồ mà còn là
du khách.
Sông nước bao la, kinh rạch chằng chịt và đồng ruộng cò bay thẳng cánh lại là
những yếu tố qui định cá tánh của dân miền Nam.
Trái với dân cư vùng châu thổ sông Hồng bị bao vây bởi một hệ thống đê điều,
làng mạc miền Bắc được thiết lập từ lâu đời nên bị bao bọc bởi những hàng rào,
lũy tre, thân tộc liên kết chặt chẽ nhau qua các thế hệ, làng xã ở miền Nam thường
thiết lập ven sông, chạy dài theo kinh rạch, không có lũy tre, hàng rào ngăn
cách, dòng họ thân tộc chưa phát triển chằn chịt như ở miền Trung, miền Bắc. Nếu
nói văn minh sông Hồng là văn minh đê điều thì văn minh đồng bằng sông Cửu Long
là văn minh sông rạch.
Sông rạch đã qui định đời sống kinh tế, chính trị của Nam Kỳ. Chúng ta không ngạc
nhiên khi người Pháp bắt đầu thiết kế các thành phố trong Nam, các dinh Chủ Tỉnh,
hay các câu lạc bộ để ông tây bà đầm ra hứng mát đều được cất hướng ra sông, rồi
chung quanh đó là trường tiểu học, nhà thương, trại lính và khám đường.
Sông rạch lại qui định tâm tính và tâm tình của dân miền Nam.
Ông Nguyễn văn Trung đã viết: Do đó về phương diện xã hội, miền Nam không có chị
Dậu trong tắt đèn của Ngô Tất Tố, bị chà đạp ép bức mà vẫn chịu trận. Trái lại
giai cấp điền chủ ở miền Nam không thể áp bức hay áp bức dễ dàng nông dân như ở
Bắc Kỳ vì nếu không chịu nổi và nếu muốn, vợ chồng chị Dậu chỉ việc xuống ghe thuyền
đi tìm một miền đất hứa khác. Ðầm lầy, ruộng hoang còn thiếu gì sẵn sàng đón nhận
người đến vỡ đất lập nghiệp
Sông rạch và đất nước bao la vì vậy đã tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc
trực, ít chịu cúi lòn, kém thủ đoạn. Tính lửa rơm, giận thì nói ngay, có khi
hung hăng, nhưng rồi cơn giận cuốn đi theo sông nước, đồng ruộng bao la. Cái cá
tính sẵn có ấy lại được tác động thêm bởi những ý niệm trung hiếu tiết nghĩa
qua các truyện Tàu đã ảnh hưởng sâu đậm trong tâm tính của dân miền Nam vào suốt
tiền bán thế kỷ 20 và truyện Tàu là một đặc thù của mảng văn học Nam Kỳ Lục tỉnh.
Nhưng bản chất cứng rắn nầy có khi là một khí giới yếu trong những hoàn cảnh cần
sự dẻo dai, uyển chuyển, nhất là trong các sinh hoạt chính trị. Người ta thường
nhắc đến ông Trần văn Hương với tất cả hai khía cạnh của đặc tánh nầy.
Một khía cạnh tiêu cực khác của sự bộc trực là tánh thiếu cẩn mật và thiếu tế
nhị. Sự thẳng thắn đôi khi là một thất lợi trong cách ứng xử, làm vơi đi sự nể
trọng của người khách khi người khách không cần biết hết tuốt tuột chuyện
trong, chuyện ngoài của người chủ.
Ngoài ra, trong dân gian còn lưu truyền câu Ăn mặn nói ngay để diễn tả sự bộc
trực của dân Nam Kỳ. Lịch sử di dân và cuộc sống của lưu dân giải thích phần
nào cái bản tính nầy. Lưu dân trên đường xuôi Nam thường phải dùng ghe thuyền để
vượt biển và chất mặn của nước biển đã thấm sâu vào huyết quản của lưu dân. Họ
quen với múi mặn nên họ thích ăn mặn, thường trong bữa ăn thường có món kho và
khô mặn. Chất mặn cần thiết cho họ có nhiều sức lực để dãi dầu mưa nắng, để chịu
đựng với sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Nhưng làm một phương trình giữa ăn mặn
và nói ngay thì có lẽ còn phải phân giải.
Dân Nam Kỳ không những nói ngay mà còn hay nói lớn tiếng, thiếu trau chuốt. Phải
hiểu rằng trên biển cả với sóng vổ ì ầm khi xuôi Nam, trong rừng sâu cây cối dầy
đặc khi khẩn đất hay trên khoảng đất rộng người thưa, cò bay thẳng cánh, lưu
dân khi cần phải nói với nhau phải nói ngắn gọn và nói to để vượt các chướng ngại
cách trở. Nhu cầu truyền thông trong một khung cảnh thiên nhiên khắc nghiệt như
vậy đã thay đổi phong cách truyền thông của người Thuận Quảng xưa.
Trong công tác khai hoang vở đất, thiên nhiên khắc nghiệt không phân biệt giới
tính.
Người phụ nữ Thuận Quảng vào miền Nam phải gánh chịu tất cả những thử thách cam
go y như nam giới. Người phụ nữ Nam Kỳ do đó đã được đào tạo và trưởng thành
trong cùng một môi trường với nam giới. Tính khí, diện mạo, y phục của người phụ
nữ miền Nam vì vậy có phần nào khác với người phụ nữ miền Trung và Bắc. Họ rắn
rỏi hơn trong các sinh hoạt, từ gia đình đến xã hội, từ tình cảm đến tâm tình.
Cách ăn mặc của họ cũng đơn sơ hơn, ít màu sắc hơn (người bán hàng rong ở đất Bắc,
đất Trung vẫn mặc áo dài, còn đại đa số người đàn bà Nam Kỳ quần đen, áo bà ba
đen, có khi còn quàng qua vai một cái khăn bàng hay khăn rằn theo kiểu người
Miên).
Chuyện Nam Kỳ tính chắc còn nhiều điều phải nói, phải lý giải. Nhưng điều tôi
muốn xin thưa với quý vị hôm nay là nếu xã hội miền Bắc và miền Trung đã thành
hình và phát triển lâu đời thành những khuôn khổ chặt chẽ, đó là những môi trường
tĩnh, thì đất Nam Kỳ vì là một vùng đất mới, vì là một môi trường động nên còn
dễ dàng biến chuyển đổi thay.
Lâm Văn Bé
Chỉnh sửa từ bài viết “Người Nam Kỳ”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét