Thứ Hai, 30 tháng 1, 2023

Nam Trung Tạp Ngâm (Tập 2)

 


THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - NAM TRUNG TẠP NGÂM (Tập 2)     南中雜吟 (1804-1812)
Thầy Dương Anh Sơn

Bài 1

PHƯỢNG HOÀNG LỘ THƯỢNG TẢO HÀNH             鳳凰路上早行
Chinh phu hoài vãng lộ,                                                    征夫懷往路,
Dạ sắc thượng mông mông.                                              夜色尚蒙蒙.
Nguyệt lạc viên thanh ngoại,                                            月落猿聲外,
Nhân hành hổ ơch trung.                                                  人行虎跡中.
Lực suy thường úy lộ,                                                      力衰常畏路,
Phát đoản bất cấm phong.                                                髮短不禁風.
Dã túc phùng Ɵều giả,                                                      野宿逢樵者,
Tương liên bất tại đồng.                                                   相憐不在同.
Nguyễn Du                                                                       阮 攸

Dịch nghĩa:

Người đi xa nhớ lại con đường đã đi qua, - Sắc màu của trời đêm vẫn còn mờ tối có mưa rơi lác đác. - Ngoài xa trăng đã lặn và có Tiếng vượn hú, - Người đi ở trong chốn có dấu chân loài hổ.(c.1-4) - Sức lực yếu đuối nên vẫn thường sợ lo cho việc đi đường, - Mái tóc cắt ngắn không kham được những cơn gió. - Lúc nghỉ ngơi ở cánh đồng đã gặp bác Tiều phu, - Thương mến nhau dẫu hoàn cảnh không giống gì nhau.

Tạm chuyển lục bát:

TRÊN ĐƯỜNG ĐI PHƯỢNG HOÀNG LÚC SÁNG SỚM

Người đi xa nhớ đường qua,
Sắc đêm mờ tối là đà mưa sa.
Bên ngoài vượn hú trăng tà,
Người đi vết cọp hẳn là ở trong.
Thường lo sức yếu đi đàng,
Tóc kia hớt ngắn chẳng kham gió lồng.
Gặp ông đều nghỉ cánh đồng,
Thương nhau cho dẫu chẳng cùng giống nhau.

Chú thích:

**Bài thơ này được làm ra khi Nguyễn Du vào kinh đô Huế nhận chức sau thời gian cáo bệnh về nghỉ ở quê nhà (1804) đã đi qua vùng núi ở phía nam Hà Tĩnh có một quán tên là Phượng Hoàng và cũng là tên con đường núi này.

- thượng 尚: vẫn còn, ngõ hầu, coi trọng, thêm, chuộng....
- mông mông 蒙蒙: mưa lác đác rơi lúc trời mờ tối.
- hổ tích 虎跡: dấu chân cọp, dấu vết loài cọp...
- tương liên 相憐: thương yêu nhau.

Bài 2

NGẪU THƯ CÔNG QUÁN BÍCH (Kỳ Nhất)                 偶書公館壁(其一)

Triêu xan nhất vu phạn,                                                    朝餐一盂飯,
Mộ dục nhất bồn thuỷ.                                                      暮浴一盆水.
Bế môn tạ tri giao,                                                            閉門謝知交,
Khai song kiến kinh kỷ.                                                    開窗見荊杞.
Song ngoại kinh kỷ mạn thả trường,                                窗外荊杞蔓且長,
Mỹ nhân du du cách cao tường.                                       美人悠悠隔高牆.
Đỗ Vũ nhất thanh xuân khứ hĩ,                                        杜宇一聲春去矣,
Hồn hề quy lai bi cố hương.                                             魂兮歸來悲故鄉.
Nguyễn Du                                                                      阮 攸

Dịch nghĩa:

Sáng mai sớm ăn một chén cơm,- chiều tối tắm rửa với một chậu nước. - Bạn bè thân thiết xin tạ lỗi, cửa đã đóng không tiếp được! - Mở cửa sổ chỉ thấy cây gai cây kỷ.(c.1-4) - Bên ngoài cửa sổ, cây gai cây kỷ mọc quấn quanh dày đặc, - Người đẹp xa xôi ở cách tường cao. - Tiếng con chim quốc kêu báo mùa xuân đã đi qua, - Hồn ơi! Hãy về đi thôi! Quê hương cũ ơi nhớ thương xót xa! (c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

NGẪU HỨNG ĐỀ VÁCH CÔNG QUÁN (Bài 1)

Cơm ăn một bát sáng hôm,
Tắm khi chiều tối một bồn nước thôi.
Bạn thân cài cửa tạ người,
Mở song cửa thấy kia rồi kỷ gai.
Ngoài song gai kỷ quấn dày,
Tường cao người đẹp cách đây xa vời.
Quốc kêu một Ɵếng: xuân trôi,
Nhớ thương quê cũ. Hồn ơi! Hãy về!

Chú thích:

- công quán 公館: nơi đề các quan lại, chức việc triều đình nghỉ ngơi và làm việc khi đi công tác ở một địa phương.
- vu 盂: chén đựng thức ăn hoặc đồ uống, dàn trận săn bắn.
- dục 浴: tắm rửa sạch sẽ.
- tri giao 知交: những người giao Ɵếp thân quen, hiểu biết nhau.
- kinh 荊: cây có nhiều gai mọc ở chỗ bị bỏ hoang.
- kỷ 杞: cây kỷ mọc um tùm thành bụi rậm.
- mạn 蔓: cây cỏ bò quấn quanh các cây khác.
- Đỗ Vũ 杜宇: vua nước Thục là Đỗ Vũ buồn vì nước mất, hóa thành chim đỗ quyên ngày đêm kêu “gia gia” nhớ thương về nước cũ. Chim đỗ vũ, đỗ quyên còn có tên là chim “tử quy” mà ta vẫn quen gọi là chim “quốc quốc”.

Bài 3

NGẪU THƯ CÔNG QUÁN BÍCH (Kỳ Nhị)                   偶書公館壁(其二)

Xương hạp môn Ɵền xuân sắc lan,                                   閶闔門前春色闌,          
Cách giang diêu đối Ngự Bình san.                                  隔江遙對御屏山.
Xuân tòng giang thượng lai hà xứ?                                  春從江上來何處,
Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất quan.                                      人倚天涯滯一官.
Mãn địa phồn thanh văn dạ vũ,                                        滿地繁聲聞夜雨,
Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn.                                  一床孤悶敵春寒.
Đào hoa mạc trượng đông quân ý,                                   桃花莫仗東君意,
Bàng hữu phong di ơnh tối toan.                                     傍有風姨性最酸.
Nguyễn Du                                                                      阮 攸

Dịch nghĩa:

Trước cửa chính của cung điện sắc xuân sắp tàn rồi, - Cách dòng sông, núi Ngự Bình hướng về ở xa xa. - Mùa xuân theo dòng sông đến nơi nào? - Người dựa vào góc trời, chỉ vì một chức quan phải lần lữa bấy lâu.(c.1-4) - Khắp nơi nghe nhiều tiếng mưa đêm, - Một giường riêng ta chịu đựng khí xuân lạnh lẽo với nỗi muộn phiền. - Hoa đào chớ dựa vào ý nghĩ của chúa xuân, - kề bên có dì gió tính tình rất chua chát.(c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

NGẪU HỨNG ĐỀ VÁCH CÔNG QUÁN (Bài 2)

Sắp tàn xuân ở cửa cung,
Hướng về núi Ngự bên sông xa nào.
Xuân theo dòng nước về đâu?
Chức quan lần lữa bấy lâu chân trời.
Đêm nghe mưa trải khắp nơi,
Một giường xuân lạnh riêng người phiền dâng.
Hoa đào chớ cậy chúa xuân,
Kề bên dì gió ơnh nàng rất chua!

Chú thích:

- xương hạp 閶闔: cửa chính đi vào cung điện.
- lan 闌: sắp hết, sắp tàn, lẻn ra, lan can dưới hiên nhà.
- Ngự Bình 御屏: tên hòn núi nhỏ nằm bên kia dòng sông Hương trước cửa cung điện Huế.
- đối 對 đối: hướng về, phía trước mặt, đối đáp, sóng đôi, so sánh, hợp...
- trệ 滯: lâu ngày, lần lữa,nước tù đọng, ở một chỗ “lâu ngày chày tháng”
- phồn 繁: nhiều, đông đúc...
- muộn 悶: buồn phiền, bực bội.
- trượng 仗: binh khí dựa vào, cậy nhờ
- ý 意: lòng dạ, ý nghĩ, ý định...
- đông quân 東君: thần thái dương, thần mùa xuân, chúa xuân.
- phong di 風姨: chị em của gió, dì gió.
- tối toan 最酸: rất là chua như giấm.

Bài 4

NGẪU THƯ CÔNG QUÁN BÍCH (Kỳ Tam)                  偶書公館壁(其三)

Đông vọng giang đầu vọng cố giao,                                  東望江頭望故郊,
Phù vân vô định thủy thao thao.                                        浮雲無定水滔滔.
Phong xuy cổ trủng phù vinh tận,                                     風吹古塚浮榮盡,
Nhật lạc bình sa chiến cốt cao.                                         日落平沙戰骨高.
Sơn nguyệt giang phong như hữu đãi,                              山月江風如有待,
Nham thê cốc ẩm bất từ lao.                                             岩棲谷飲不辭勞.
Bình sanh dĩ tuyệt vân tiêu mộng,                                   平生已絕雲霄夢,
Phạ kiến bàng nhân vấn vũ mao.                                     怕見傍人問羽毛.
Nguyễn Du                                                                      阮 攸

Dịch nghĩa:

Ngoảnh nhìn về phía đông của đầu con sông để trông ngóng về quê cũ, - thấy chăng là những đám mây nổi trôi lang thang và dòng nước chảy cuồn cuộn. - Cơn gió thổi trên những nấm mồ xưa làm mất tất cả và tan đi những vinh hoa giả tạm; - lúc chiều tà, trên bãi cát bồi là những đống xương cao của những người lính trận.(c.1-4) - Vầng trăng trên núi, gió trên dòng sông như có sự đợi mong. - Cho nên, dẫu phải ở chốn vách núi, sườn non hay uống nước suối khe cũng không ngại chuyện gian khó , khổ cực.- Cả đời ta đã dứt bỏ hết giấc mộng mây bay ở khoảng trời cao rộng, - chỉ e ngại người chung quanh hỏi xem lông cánh thế nào để bay thôi!(c.5-8)

Tạm chuyển lục bát:

NGẪU HỨNG ĐỀ VÁCH CÔNG QUÁN (Bài 2)

Quê nhà ngóng ở đầu sông,
Lang thang mây nổi nước cuồn cuộn trôi.
Vinh hoa mồ cũ gió vời,
Chất cao xương lính bãi bồi chiều hôm.
Gió sông, trăng núi chờ mong,
Uống khe, nghỉ đá cũng không ngại ngùng.
Mộng trời mây rộng dứt xong,
Sợ người quanh thấy cánh lông hỏi nào!

Chú thích:

- cố giao 故郊: vùng đất xưa, quê cũ, quê nhà.
- thao thao 滔滔: nước chảy cuồn cuộn, nước ròng chảy xiết.
- phù vinh 浮榮: danh vọng, giàu sang giả tạm, không bền vững.
- nham 岩: vách núi, sườn núi đá.
- thê 棲: dừng lại, nghỉ ngơi, ở...
- cốc 谷: suối, khe giữa các vách đá núi hoặc thung lũng.
- lao 勞: sự gian khó, khổ cực.
- Tiêu 霄: khoảng trời cao rộng. -
- phạ 怕: e ngại, sợ...

(Lần đến: NAM TRUNG TẠP NGÂM bài 5, 6, 7 và 8)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét