THƠ LÝ BẠCH - BÀI 72, 73 VÀ 74
Thầy Dương Anh Sơn
BÀI 72
CỔ PHONG KỲ TỨ THẬP NHẤT 古風 其四十一
Triêu lộng Tử Nê Hải, 朝弄紫泥海,
Tịch phi đan hà thường. 夕披丹霞裳。
Huy thủ chiết nhược mộc, 揮手折若木,
Phất thử tây nhật quang. 拂此西日光。
Vân ngọa du Bát Cực, 雲臥游八極,
Ngọc nhan dĩ thiên sương. 玉顏已千霜.
Phiêu phiêu nhập vô nghê, 飄飄入無倪,
Kê thủ kì Thượng hoàng. 稽首祈上皇。
Hô ngã du Thái Tố, 呼我游太素,
Ngọc bôi tứ quỳnh tương. 玉杯賜瓊漿。
Nhất xan lịch vạn tuế, 一餐歷萬歲,
Hà dụng hoàn cố hương. 何用還故鄉。
Vĩnh tùy trường phong khứ, 永隨長風去,
Thiên ngoại tứ phiêu dương. 天外恣飄揚.
Lý Bạch 李白
Dịch nghĩa:
Cổ phong bài thứ bốn mươi mốt.
Buổi sáng sớm đùa giỡn ở Tử Nê Hải. - Khoác xiêm áo màu ráng chiều son đỏ.- Vẫy tay hái cây nhược thơm tho. - Quét đi ánh sáng mặt trời ở phía tây (lúc trời chiều) (c.1-4). - Rồi nằm vắt ngang trên mây rong chơi vùng của thần Bát Cực với khuôn mặt ngọc (của thần) đã qua đi ngàn sương. - Bồng bềnh đi vào cõi trời không còn phân chia ,cúi đầu bái lạy Thượng hoàng (c .5- 8). - Ngài (Đông Phương Sóc) kêu tôi đi dạo chơi vùng Thái Tố (sản sinh ra muôn vật), - cho ta uống rượu quý đựng trong chén ngọc! Một bữa ăn (trên thiên giới) đã trải qua mười ngàn năm (dưới cõi trần)!- Cần chi phải trở về quê cũ !? (c.5-12). - Đi mãi mãi lâu dài theo cơn gió, - bay bổng thong dong ngoài cõi trời. (c.13-14).
Tạm chuyển lục bát:
CỔ PHONG BÀI THỨ BỐN MƯƠI MỐT.
Biển bùn tím, sáng đùa chơi,
Chiều về khoác áo ráng trời màu son!
Vung tay bẻ gãy nhược thơm,
Phía tây quét phủi sạch trơn ánh trời!
Nằm mây Bát Cực rong chơi,
Thần tiên mặt ngọc rồi là ngàn sương!
Bồng bềnh vào cõi không cùng,
Cúi đầu khấu lạy Thượng Hoàng trên cao.
Kêu ta: Thái Tố chơi nào!
Rượu ngon, chén ngọc đựng vào ơn ban!
Trải muôn năm, một bữa ăn!
Quay về chốn cũ, hỏi cần gì đâu?!
Mãi theo cơn gió dài lâu,
Thong dong phiêu lãng trời nao cõi ngoài!
Chú thích:
- lộng 弄: chơi đùa, đùa giỡn, trêu chọc, ngắm nghía, mân mê, thổi tiêu hay sáo...
- Tử Nê Hải 紫泥海: biển có nhiều bùn màu tím. Sách "Hán vũ động minh ký" của người Trung Hoa đã kể câu chuyện vị trích tiên (tiên bị đày xuống thế gian) Đông Phương Sóc như sau: Đông Phương Sóc ra đi, cả năm trời mới quay về. Mẹ ông đã hỏi: “Con đi đâu cả năm mới trở về, mẹ làm sao làm có thể vui được?” Sóc thưa: “Con đến Tử Nê Hải, bị nước màu tím làm bẩn áo, bèn qua Ngu Uyên (nơi mặt trời lặn) giặt rửa, sáng đi tối về, sao lại nói cả năm vậy?”. Đông Phương Sóc 東方朔 (154-93 TCN) là một người nổi tiếng ở tỉnh Sơn Đông, cùng thời với Tư Mã Thiên và dưới thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt bên Trung Hoa. Ông là một người tinh thông văn sử, nhiều mưu trí đã giúp cho Hán Vũ Đế diệt trừ các thế lực đen tối ở hậu cung; đồng thời đánh bại các chư hầu âm mưu chia rẽ đất nước.Với tài năng vượt trội, Đông Phương Sóc luôn được Hán Vũ Đế trọng dụng nhưng tuyệt nhiên không được đề bạt chức vị nào. Bản tính cứng cỏi, không sợ chết, ông thường dùng những câu chuyện hài hước để châm biếm, đã kích bọn quan tham ô lại. Cũng chính vì thế mà Đông Phương Sóc luôn trở thành cái gai trong mắt bọn quan tham, và chúng đã âm mưu hãm hại ông bằng cách xàm tấu với vua để liệt ông vào dạng lộng thần nhưng ông đều tránh được nhờ sự khôn khéo của mình. Tương truyền khi Tây Vương mẫu, người coi một vùng trời có nhiều vườn đào tiên có lần xuống hạ giới vào chơi với Hán Vũ đế, Đông Phương Sóc ở bên ngoài khoét màn nhìn trộm bị Tây Vương mẫu thần thông biết được nên nói với Hán Vũ đế là có người ba lần ăn trộm đào tiên trên vườn đào của Vương mẫu đang nhìn trộm. Hỏi ra mới biết kẻ nhìn trộm là Đông Phương Sóc và vua biết thêm ông cũng là một trích tiên bị đày xuống hạ giới..... Trong bài thơ trên ,Lý Bạch kể việc khi gặp Đông Phương Sóc đã được vị trích tiên này mời rượu quý đựng trong chén ngọc và rủ Lý Bạch cùng rong chơi vùng Thái Tố trong cõi trời bao la....
- phi 披: khoác, choàng, vạch ra, mở ra, chia rẽ, lật lại....
- nhược 若木: cây có mùi thơm tương tự như hoa đỗ nhược hoặc nhược lan.
- Bát Cực 八極: thông thường nghĩa của từ bát cực chỉ những vùng xa xôi. Theo Tây Du Kí 西遊記, hồi thứ bảy, đây là tên một vị thần tiên trong nhiều vị trên thiên đình: “Ngọc Đế truyền chỉ, tức trước Lôi bộ chúng thần, phân đầu thỉnh Tam Thanh, Tứ Ngự, Ngũ Lão, Lục Ti, Thất Nguyên, Bát Cực, Cửu Diệu, Thập Đô, thiên chân vạn thánh, lai thử phó hội, đồng tạ Phật ân” 玉帝傳旨, 即著雷部眾神, 分頭請三清, 四御, 五老, 六司, 七元, 八極, 九曜, 十都, 千真萬聖, 來此赴會, 同謝佛恩 (Đệ thất hồi) Ngọc Hoàng truyền lệnh, sai ngay các thần bộ Sấm, chia nhau mời các tiên Tam Thanh, Tứ Ngự, Ngũ Lão, Lục Ti, Thất Nguyên, Bát Cực, Cửu Diệu, Thập Đô, với ngàn vạn chân thánh khác tới dự hội cùng tạ ơn Phật. Ở nước ta, trong bài thơ "Đề Dương công Thủy hoa đình 題 揚 公 水 華 亭" của Chu Văn An 朱文安 có đề cập đến thiên giới Bát Cực: "..... Hồi đầu tạ thế, phân 回 頭 謝 世 紛, Tiêu dao du Bát Cực 逍 遙 遊 八 極"。Như thế, Bát Cực là tên một vị tiên và cũng là danh từ chỉ các vùng thiên giới huyền thoại xa xôi của các vị thần tiên.
- câu 6: đây chỉ dung nhan của Đông Phương Sóc đã trải qua ngàn năm rồi!
- phiêu phiêu 飄飄: bềnh bồng, nhẹ nhàng, hiu hiu, bơ vơ....
- vô nghê 無倪: không còn phân biệt, không còn chia phân, không còn đầu mối.....
- kê thủ kì 稽首祈: cúi đầu kính lạy hay cầu khấn...
- Thái Tố 太素: vùng trời rộng lớn của cõi thái sơ khi vũ trụ còn trong tình trạng còn hỗn độn, hoang sơ, mộc mạc để từ đó sinh thành vạn vật, trời đất, âm dương, nam nữ. v.v... theo Kinh Dịch của văn học cổ Trung Hoa. Tác giả Nguyễn Hữu Quang khi nghiên cứu về Hà Đồ Lạc Thư, mục Thái Cổ Hà Đồ đại Tính-kỷ 太古河圖代性紀 có viết: "Thanh khí chưa dâng, trọc khí chưa chìm, du thần chưa linh, ngũ sắc chưa phân. Bên trong có vật u tối gọi là Hỗn độn tức Thái thủy 太始. Thái thủy là manh mối của Nguyên thai 元胎. Số của Thái thủy là 1, 1 là Thái cực 太極. Thái cực là cha mẹ của Trời Đất. Trời cao sáng mà trong, Đất rộng dầy mà đục gọi là Thái dịch 太易. Thái dịch là biến-hoá của Trời Đất. Số của Thái Dịch là 2, 2 là Lưỡng nghi 兩儀 thể hiện bằng Âm Dương, gọi là Thái sơ 太初. Thái sơ là Trời Đất giao nhau. Số của Thái sơ là 4, 4 là Tứ tượng 四象 doanh dịch để biến thành vạn vật, gọi là Thái tố 太素. Thái tố là đầu mối của Tam tài 三才....." (trích Hán Việt Dịch Sử Lược, Quyển 1, tr. 35, Nguyễn Hữu Quang, www.ninh-hoa.com XB, 2017, USA )
- tứ 賜: ban cho, cho, ban ơn...
- quỳnh tương 瓊漿: rượu ngon và quý hiếm đựng trong bầu ngọc.
- tứ phiêu dương 恣飄揚: thong dong, buông bỏ để bay bổng như thần tiên (tứ 恣: buông bỏ, phóng túng. tùy tiện, thong thả...,). Sống khinh khoái nhẹ nhàng không bị ràng buộc.....
BÀI 73
CỔ PHONG KỲ TỨ THẬP NHỊ 古風其四十二
Dao duệ song bạch âu, 搖裔雙白鷗,
Minh phi thương giang lưu. 鳴飛滄江流。
Nghi dữ hải nhân hiệp, 宜與海人狎,
Khởi y vân hạc trù. 豈伊雲鶴儔。
Ký hình túc sa nguyệt, 寄形宿沙月,
Duyên phương hí xuân châu. 沿芳戲春洲。
Ngô diệc tẩy tâm giả, 吾亦洗心者,
Vong ky tòng nhĩ du. 忘機從爾游。
Lý Bạch 李白
Dịch nghĩa:
Hai con chim âu trắng vẫy cánh ven bờ. - Tiếng kêu vang dội rộng khắp dòng sông đang chảy hòa vào biển khơi, - thân thiện và gần gũi với con người. - Nó (chim âu) đâu dám so sánh với với loài hạc ở nơi làn mây cao vời!? (c.1-4) - Chim nương thân mình và nghỉ lại bãi cát sông dưới ánh trăng. - Chim vui đùa nơi bãi sông trong mùa xuân với hương cỏ ven bờ hơm ngát. - Dù cho ta có rửa sạch cái tâm này - nhưng khéo quên là đã theo mày rong chơi thong dong rồi! (c.5-8).
Tạm chuyển lục bát:
CỔ PHONG BÀI THỨ BỐN MƯƠI HAI.
Ven bờ âu trắng sóng đôi,
Kêu bay rộng khắp trôi xuôi theo dòng.
Biển khơi ,người cũng hòa cùng,
Nó nào dám sánh mây tầng hạc bay.
Trăng cồn cát gửi hình hài,
Bờ ven hương ngát vui vầy bãi xuân.
Dẫu ta rửa sạch lòng trần,
Khéo quên là đã nhàn chơi theo mày!
Chú thích:
- dao 搖: lay động, vẫy tay, khua, xua tay, quấy nhiễu, rung lắc...
- duệ 裔: ven bờ, con cháu, vùng biên thùy xa xôi, dòng dõi...
- bạch âu 白鷗: chim âu trắng hay còn gọi là con mòng biển trắng có mỏ dài và cứng thường bay lượn ven bờ biển để bắt cá. Cũng gọi tên khác là hải âu 海 鷗 chỉ chung nhiều loại chim âu biển có màu khác như xám, đen, nâu. v.v.... Trong thơ ca, chim bạch âu tượng trưng cho sự an nhàn, không bận rộn chuyện công danh hay các việc ràng buộc tự do trong đời. Nguyễn Du trong bài Thu Chí 秋至 (Nam Trung Tạp Ngâm) đã viết: "... Hồi thủ Lam Giang phố, Nhàn tâm tạ bạch âu 回首 藍 江浦, 閒心謝白鷗" (c.7,8). Quay đầu về bến sông Lam, tấm lòng chuộng sự an nhàn đành phải tạ từ chim âu trắng. (xem Nam Trung Tạp Ngâm, bài 5, Thu chí, D.A. Sơn chuyển lục bát, www.ninh-hoa.com, 2014 ).
- thương giang lưu 滄江流: dòng sông rộng lớn, mênh mông với dòng nước luôn trôi chảy.... (thương: rộng lớn, biển khơi, lạnh lẽo, xanh lục...)
- nghi 宜: thích nghi, hòa vào, hòa hợp, thuận hòa, thân thiện, vừa phải, chung hưởng....
- hiệp 狎: quen thuộc, khinh thường, gần gũi, đùa bỡn, suồng sã....
- khởi y 豈伊: nó đâu dám, nó dám nào... (khởi: há nào, dám nào, sao
lại...)
- úc 宿: ở trọ, nghỉ lại, trú ngụ, chỗ nghỉ ngơi, xưa cũ, đã qua...
- trù 儔: so với, sánh với, lũ, bọn....
- duyên phương 沿芳: hương thơm hoa cỏ (phương) nơi mép sông (duyên).
- ky 機: khéo léo, nhanh trí, nhanh nhẹn, máy móc, khung cửi, lẫy nỏ, then chốt, chân tính...
BÀI 74
CỔ PHONG KỲ TỨ THẬP TAM 古風 其四十三
Chu mục bát hoang ý, 周穆八荒意,
Hán hoàng vạn thừa tôn. 漢皇萬乘尊。
Dâm lạc tâm bất cực, 淫樂心不極,
Hùng hào an túc luận. 雄豪安足論。
Tứ hải yến Vương mẫu, 西海宴王母,
Bắc cung yêu Thượng nguyên. 北宮邀上元.
Dao thủy văn di ca, 瑤水聞遺歌,
8 Ngọc bôi cánh không ngôn. 玉杯竟空言。
Linh tích thành mạn thảo, 靈跡成蔓草,
Đồ bi thiên tải hồn. 徒悲千載魂。
Lý Bạch 李白
Dịch nghĩa:
Cổ phong bài thứ bốn mươi ba.
Nghĩ là khắp tám vùng hoang vu xa xôi, - đêù sống trong hòa thuận nên vua nhà Hán ngồi trên vạn chiếc xe cao quý sang trọng. - Lòng lại ham vui thú (xác thịt) quá mức không cùng - lại mạnh mẽ bàn bạc (trong triều đình) cuộc sống (của thần dân) được yên ổn và đầy đủ nữa!! (c.1-4).
Yến tiệc (như kiểu) Vương mẫu khắp bốn biển! - Cung điện phía bắc mời đón tết Thượng nguyên - với dòng nước (rượu ngon) trong trẻo từ ngọc quý để nghe ca hát quên đi bao chuyện. Chén ngọc chứa nước (rượu quý) rốt cuộc để thốt ra những lời bông phèn, không ra sao cả! (c. 5-8) Những dấu tích linh thiêng thành nơi loài cỏ mọc lan tràn, uổng công cho linh hồn chịu đau thương cả ngàn năm thôi! (c. 9-10).
Tạm chuyển lục bát:
CỔ PHONG BÀI THỨ BỐN MƯƠI BA.
Nghĩ hòa thuận khắp chốn hoang,
Muôn xe sang quý, Hán hoàng ngồi trên.
Ham vui quá độ triền miên!
Xét bàn mạnh mẽ dân yên dư dùng!
Bốn phương Vương mẫu tiệc tùng,
Đón chào cung Bắc lễ mừng Thượng nguyên.
Rượu ngon ,nghe hát bẵng quên,
Bao lời chén quý bông phèn lan man!
Dấu thiêng cỏ mọc tràn lan,
Nhớ thương uổng phí ngàn năm phách hồn!
Chú thích:
- chu mục 周穆: toàn thể, khắp mọi nơi đều hòa mục, thuận hòa (chu: khắp, đều, vòng quanh, toàn thể, trọn khắp...)
- bát hoang 八荒: vùng đất rộng lớn, xa xôi còn trong tình trạng hoang vắng. Đây chỉ vùng biên giới xa ,dân số ít ỏi, chỉ có một số thành trì ngăn giặc bên ngoài vào quấy phá, cũng là nơi quyền lực triều đình còn lỏng lẻo. Thời nhà Hán, các nước như Hung Nô (phía tây bắc). vẫn thường xuyên quấy phá vùng "bát hoang" xa xôi này.
- ý 意: điều suy nghĩ, niềm tin, ý tưởng, dự tính, ý chí, thành kiến....
- thừa 乘: cái gì ngồi lên trên được là thừa. Âm của thừa là thặng chỉ cỗ xe ngày xưa. Người xưa hay nói:" thiên thặng chi quốc 千乘之國 nước có số nghìn cỗ xe, bách thặng chi gia 百乘之家 nhà có trăm cỗ xe." để chỉ nước giàu có hoặc gia thế quyền quí sang trọng. Ở đây vua Hán ngồi trên vạn cỗ xe nghĩa là cai trị một đất nước hùng mạnh, giàu có.
- tôn 尊: cao quý, tôn kính, đáng trọng, cái chén uống rượu.....
- bất cực 不極: quá đáng, quá sức, không cùng....
- câu 2, 3: lịch sử nhà Hán bên Trung Hoa có hai ông vua vui chơi trác táng là Hán Thành đế 汉成帝 (51-7 TCN) Lưu Ngao 驁 劉 là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị từ năm 33 TCN đến năm 7 TCN, 26 năm trị vì ông nổi tiếng đắm chìm trong chuyện vui thú xác thịt (dâm lạc). Vua thứ hai là Hán Linh đế 漢靈帝 (156 - 189 SCN) Lưu Hoằng 劉宏, là Hoàng đế của nhà Đông Hán cũng nổi danh chuyện ăn chơi dật lạc không lo chuyện đất nước. Không biếtLý Bạch muốn nói đến ông vua nào nhưng chữ Vương mẫu dùng ở câu 5 bên dưới có lẽ muốn nói đến mẹ của Hán Thànhđế là Vương Chính Quân 王政君
- Thượng Nguyên 上元: hay còn gọi là tết "Nguyên tiêu" xảy ra vào ngày rằm tháng giêng mỗi năm.
- dao thủy 瑤水: dao là một thứ ngọc đẹp và quý. Nước đựng trong chén ngọc dao chính là rượu ngon...
- văn di ca 聞遺歌: nghe ca hát nên quên mọi thứ; nghĩa khác: nghe những bài ca còn sót lại....
- cánh không ngôn 竟空言: rốt cùng là những lời nói chẳng ra sao, lời bông phèn không thiết thực,vô ích, không đâu vào đâu....
- đồ bi 徒悲: uổng công thương xót, buồn đau, uổng phí việc thương nhớ.......
(Lần đến, THƠ LÝ BẠCH: Bài 75, 76 và 77)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét