
Việt Nam chuội lời cam kết với Hoa Kỳ Ts. Nguyễn Đình Thắng http://machsongmedia.org Do áp lực từ Toà Bạch Ốc, ngày 22 tháng 4, 1996 Bộ Ngoại Giao chính thức thông báo DB Christopher Smith họ chấp nhận đòi hỏi căn bản của điều luật chống CPA: bất chấp kết quả thanh lọc CPA, tất cả thuyền nhân sẽ được phỏng vấn lại bởi viên chức tị nạn của Sở Di Trú Hoa Kỳ theo tiêu chuẩn tị nạn của Hoa Kỳ. Những tuần sau đó là cuộc thương thảo ráo riết vào chi tiết. Kể cả trong sở làm và chiều về, tôi liên tục trao đổi qua điện thoại với Ls. Dan Wolf và Ông Shep Lowman của LAVAS, Ông Grover Joseph Rees của văn phòng DB Smith, và Ông Eric Schwartz, phụ tá đặc biệt về nhân quyền của TT Clinton. Cuối cùng khung sườn cho chương trình ROVR được mọi bên đồng ý. Bộ Ngoại Giao quyết định mốc điểm để tham gia chương trình là phải hồi hương trong khung thời gian từ 1 tháng 10, 1995 đến 30 tháng 6, 1996 hoặc đã phải ghi danh tham gia chương trình ROVR không trễ hơn 30 tháng 6, 1996. Chúng tôi không đồng ý với các mốc điểm này hoàn toàn tuỳ tiện này nhưng không thể làm gì hơn vì các quốc gia tạm dung quyết định đóng cửa trại ngày 30 tháng 6, 1996. Vì Bộ Ngoại Giao chính thức công bố chương trình ROVR quá cận ngày đóng cửa trại, hầu hết các thuyền nhân không có thời gian để suy tính trước khi quyết định – liệu có thể tin vào nhà nước Việt Nam và khả năng can thiệp của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ hay không? Y như rằng, nhà nước Việt Nam đã chuội lời hứa.  Hình 1 - Bà Ngoại Trưởng Madeleine Albright công du Việt Nam, tháng 6 năm 1998 Việt Nam chuội lờiTheo thoả thuận giữa Bộ Ngoại Giao và văn phòng của DB Smith, chương trình ROVR sẽ thực hiện bắt đầu tháng 9 năm 1996 và hoàn tất tháng 9 năm 1997. Nhưng rồi nhà nước Việt Nam tìm nhiều lý do để trì hoãn, không hợp tác. Thế nhưng, tính đến cuối năm 1997, nghĩa là 18 tháng sau khi chương trình ROVR lẽ ra đã phải thực hiện, họ chỉ cấp phép cho Sở Di Trú Hoa Kỳ tiếp cận 1.100 trong số 18,718 thuyền nhân hồi hương có tên trong danh sách ROVR của Hoa Kỳ. Trong số đó có nhiều trăm hồ sơ BPSOS đã chuyển cho Bộ Ngoại Giao và Sở Di Trú Hoa Kỳ; đó là những hồ sơ trước đây chúng tôi lọc ra để làm phép thử cái mà Ông Lê Xuân Khoa gọi là “Khu Vực Xám” và qua đó chứng minh cho Quốc Hội thấy nó chỉ là trái bong bóng tung hứng của Bộ Ngoại Giao. DB Smith cùng với nhiều đồng viện mạnh mẽ phản đối ban cấp cho Việt Nam quy chế “tối huệ quốc” -- theo Tu Chính Án Jackson-Vanik trong luật Hoa Kỳ, quốc gia muốn hưởng quy chế này để chỉ bị áp thuế nhẹ lên các mặt hàng xuất cảng vào Hoa Kỳ thì phải tôn trọng quyền xuất cảnh của công dân. Việt Nam vi phạm điều kiện này khi ngăn cản không cho các thuyền nhân hồi hương được phỏng vấn theo chương trình ROVR. Tính đến tháng 6 năm 1997, mới chỉ có 52 thuyền nhân hồi hương được cấp phép phỏng vấn ROVR. Nhà nước Việt Nam đòi hỏi 2 điều phi lý là chỉ những ai có thân nhân ở Hoa Kỳ bảo lãnh và đã có chiếu khán nhập cảnh của Hoa Kỳ thì mới được phép tham gia phỏng vấn ROVR. Trong chuyến công du đến Việt Nam tháng 6, 1997 Bà Ngoại Trưởng Madeleine Albright nói thẳng thừng với giới lãnh đạo Việt Nam là không hợp tác với ROVR thì quên đi quy chế tối huệ quốc. Việt Nam hứa sẽ nhanh chóng giải quyết “nút nghẽn kỹ thuật”. Bà Albright tuyên bố tại buổi họp báo ngày 29 tháng 6, 1997: “Tôi rất phấn khởi trước những cam kết tôi nhận được từ các giới chức Việt Nam liên quan đến chương trình tái định cư người tị nạn. Giới chức này thừa nhận rằng đã có vấn đề xảy ra từ đầu nhưng hứa hẹn sẽ có tiến triển nhanh hơn đáng kể từ đây trở đi. Nếu tiến triển đó thành hiện thực, tôi hy vọng có thể đề xuất với Tổng thống Clinton rằng ông ấy sẽ sớm từ bỏ điều khoản Jackson-Vanik.'' Xem: https://1997-2001.state.gov/www/statements/970627.html Trước tin này, tôi tuần tự gửi 13 danh sách gồm trên 500 hồ sơ ROVR cho Bộ Ngoại Giao và Sở Di Trú Hoa Kỳ, thêm vào đó là 150 hồ sơ do Bà LS Pam Baker cung cấp. Nhưng Việt Nam tiếp tục trì trệ. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tăng áp lực. Đến tháng 10 năm 1997 Việt Nam lại cam kết hợp tác, nhưng tuyên bố rằng nhiều thuyền nhân trong danh sách ROVR nay đã ổn định đời sống, không muốn đi Hoa Kỳ nữa. Chuyến đi thị sát Việt NamDB Smith cử vị cố vấn trưởng là Ông Grover Joseph Rees đi Việt Nam và tôi đi Việt Nam. Thoạt tiên DB Smith định sẽ đi cùng, nhưng yêu cầu gặp LM Nguyễn Văn Lý không được nước Việt Nam thoả đáng nên phút chót đã huỷ chuyến đi. Ông Rees công du một số quốc gia rồi đến Hà Nội đầu tháng 12 năm 1997. Còn tôi thì vẫn không được cấp visa vào Việt Nam. Vì phải lấy visa công tác, tôi phải nộp đơn với Toà Tổng Lãnh Sự của Việt Nam ở Mexico City. Họ không từ chối mà cũng chẳng trả lời. Tôi đoán rằng họ ngâm đơn xin visa cho đến khi quá trễ. Ông Rees sốt ruột nhắn tin tôi phải cố gắng đến Việt Nam vì nếu thiếu người hướng dẫn và thông dịch, chuyến đi thị sát sẽ trở thành vô nghĩa. Tôi quyết định bay vào Việt Nam không visa. Trước khi lên đường, tôi gọi cho Ông Bill Fleming, lúc ấy là tổng lãnh sự Hoa Kỳ ở Hà Nội, căn dặn: “Anh Bill ra đón tôi ở phi trường Nội Bài. Nếu không thấy đâu thì tìm tôi trong một nhà giam nào đó ở Hà Nội.” Từ phi trường Dulles International Airport tôi bay đến Singapore. Khi chuyển tiếp ở Singapore để bay vào Hà Nội, nhân viên soát vé cho biết được phép vào Việt Nam, bằng không thì đã bị chặn không được lên máy bay. Ở phi trường Nội Bài, viên chức hải quan cấp visa nhập cảnh cho tôi tại chỗ. Bước ra ngoài thì đã thấy Ông Fleming vẫy tay chào ở ngoài cổng. Hôm đó là ngày Thứ Bảy 6 tháng 12, 1997. Ông Fleming là người trước đây đã cố gắng đưa thông tin về chương trình ROVR vào trại Sikiew, Thái Lan. Hai ngày ở Hà NộiTôi được chở ngay đến Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ để Ông Rees cập nhật về các cuộc họp với chính quyền Việt Nam, với đại diện CUTN/LHQ ở Việt Nam và với một số viên chức chính quyền Hoa Kỳ trong những ngày tôi vắng mặt. Vị tùy viên chính trị của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ cho biết là có 2 viên chức công an muốn gặp tôi ngay chiều hôm ấy. Tôi nhận lời với điều kiện phải có người của Toà Đại Sứ đi cùng. Đúng hẹn, chúng tôi đến gặp 2 viên chức công an ở một quán ăn bên bờ Hồ Gươm. Đề tài chính họ nêu ra là phải chăng chương trình ROVR là mưu kế của Hoa Kỳ để gây bất ổn chính trị và xã hội cho Việt Nam. Họ ví nó như một chén nước mắm mà Hoa Kỳ cài vào Việt Nam để rồi khuấy cho khắm. Họ hỏi, tại sao Hoa Kỳ không phỏng vấn tái định cư các thuyền nhân khi còn ở trại? Tôi giải thích rằng đó chính là điều mà BPSOS vận động nhưng không thành vì các quốc gia tạm dung lo rằng tái phỏng vấn trong trại thì sẽ khuyến khích người Việt ra đi, đinh ninh rằng cứ nắm lì ở trại rồi cũng sẽ có ngày được Hoa Kỳ vớt đi. Có vẻ 2 giới chức công an này hiểu ra. Tại bữa điểm tâm hôm sau với Đại Sứ Hoa Kỳ Pete Peterson, chúng tôi thảo luận dùng quy chế tối huệ quốc mà nhà nước Việt Nam đang mong muốn để ép họ phải thực sự hợp tác với chương trình ROVR. Trong thời gian ở Hà Nội, chúng tôi không được sắp xếp để gặp gỡ thuyền nhân hồi hương. Trước khi lên đường, chúng tôi đã trao cho phía Hà Nội danh sách những cựu thuyền nhân muốn gặp, là những người mà tôi biết bị chặn không được tham gia chương trình ROVR. Thay vào đó, Ông Rees và tôi tranh thủ đi thăm Ts. Nguyễn Thanh Giang, Tướng Trần Độ và bà quả phụ của Ông Vũ Đình Huỳnh. Chiều ngày Thứ Hai 8 tháng 12 tôi bay vào Sài Gòn. Hình 2 – Gặp lại Ông Trịnh Văn Mến, cựu thuyền nhân hồi hương, ở Hoa Kỳ tháng 7 năm 2011 Ba ngày ở Sài GònỞ Sài Gòn, chúng tôi được “hộ tống” đi gặp khoảng chục cựu thuyền nhân hồi hương theo danh sách của nhà nước Việt Nam. Tại mỗi buổi họp đều có khoảng nửa tá người của bộ công an, tổ dânh phố, hội phụ nữ, cán sự của Bộ Lao Động Thương Binh Xã Hội... Khi gặp, các thuyền nhân đều nói thẳng là họ không thể sống ở Việt Nam vì không có hộ khẩu, không có việc làm hợp pháp, thường xuyên bị sách nhiễu. Họ yêu cầu chúng tôi chuyển lởi cho Quốc Hội và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cứu họ. Khi chúng tôi hỏi, họ đều cho biết là hôm trước người của chính quyền đã bảo là phải nói những gì và những gì không được nói. Nhưng rồi họ bất chấp. Khi rời buổi họp, có lần tôi nghe tiếng la lối vọng đến: “Đã bảo không được nói mà sao cứ nói như vậy?” Dù luôn bị theo dõi bởi những người “hộ tống” từ xa, chúng tôi vẫn tìm cách gặp riêng được một số thuyền nhân hồi hương như Ông Lâm A Lu, là người mà Ông Rees và rồi DB Smith đã gặp ở trại High Island, Hồng Kông; Ông Trịnh Văn Mến trước kia ở Thái Lan, và một số vị sư thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Ngoài ra, chúng tôi còn gặp một số người bất đồng chính kiến như Ông Hoàng Minh Chính, Linh Mục Chân Tín, vợ của tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo Trần Hữu Duyên lúc ấy đang trong tù, và một số thương phế binh VNCH. Trước khi rời Việt Nam, hai chúng tôi gặp viên chức lãnh sự Hoa Kỳ về tị nạn để bàn kế hoạch mở ra một chương trình định cư tị nạn thẳng từ Việt Nam. Phải mất gần 10 năm sau chương trình này mới ra đời, được mệnh danh là Chương Trình Giải Cứu (Rescue Program). Đến nay, vài trăm người đã ra đi theo chương trình này. Cuộc vận động cuối cùngKhi về lại Hoa Kỳ, chúng tôi tường trình những điều mắt thấy tai nghe với DB Smith: - Đã tiếp xúc 14 trường hợp thuyền nhân hồi hương; trong đó 9 gia đình không có hộ khẩu; 5 gia đình tiếp tục bị công an theo dõi.
- Việc tiếp xúc với các thuyền nhân hồi hương bị nhà nước kiểm soát gắt gao.
- Mọi thuyền nhân hồi hương mà chúng tôi gặp, kể cả những người trong danh sách do nhà nước chỉ định, đều cho biết không thể sống được ở Việt Nam và muốn tái định cư, chứ không như nhà nước Việt Nam báo với Hoa Kỳ là họ chọn ở lại, không đi Mỹ.
Các vị dân biểu và thượng nghị sĩ ủng hộ điều luật chống CPA của DB Smith trước đây đồng loạt đe doạ sẽ cản trở quy chế tối huệ quốc cho Việt Nam nếu Sở Di Trú Hoa Kỳ không được tiếp cận các thuyền nhân hồi hương trong danh sách ROVR để phỏng vấn. Chỉ trong 3 tháng sau, nhà nước Việt Nam cấp phép thêm cho 13 nghìn thuyền nhân nữa được tiếp cận viên chức tị nạn của Hoa Kỳ. Dựa vào đó, Tổng Thống Clinton cấp cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc tạm thời. Nhưng liền sau đó, phía Việt Nam trở lại ì ạch như cũ. Buổi điều trần thứ 5 và thứ 6Ngày 18 tháng 6, 1998, Dân Biểu Philip Crane, Chủ Tịch Tiểu Ban Mậu Dịch của Hạ Viện, triệu tập buổi điều trần về gia hạn quy chế tối huệ quốc cho Việt Nam. Chương trình ROVR được nêu lên một cách nổi bật. TNS John Kerry khen ngợi sự hợp tác của Việt Nam và đổ lỗi sự chậm trễ cho Sở Di Trú Hoa Kỳ: “Tính đến ngày 8 tháng 6 năm 1998, Việt Nam đã cấp phép phỏng vấn cho 15.081 người, hay 81%, trong số 18.718 ứng viên tiềm năng. Tôi xin lưu ý, thưa ngài Chủ tịch, chính Sở Di Trú của chúng ta đã chậm trễ và chỉ phỏng vấn 9.447 trong số 15.000 người đã được cấp phép. Và cho đến nay, 3.119 người đã đến Hoa Kỳ.” DB Smith chỉ ra rằng sự chuội lời của Việt Nam chính là lý do mà Ông và nhiều người, trong đó có tôi, từng đòi hỏi Hoa Kỳ tái phỏng vấn thuyền nhân tại các trại thay vì bắt họ hồi hương: “Tính đến ngày 1 tháng 12 năm 1997, hơn 1 năm rưỡi sau khi họ hứa sẽ xem xét những người hồi hương, họ chỉ cho phép phỏng vấn 1.100 trong số ước tính 18.000 đến 20.000 người đủ điều kiện. Nhưng trong 2 tháng trước khi quyết định miễn trừ điều khoản Jasckson-Vanik được công bố... họ đã cho phép thêm 13.000 người. Thật không may, ngay sau khi được miễn trừ, việc cấp phép chậm lại ngay lập tức để chỉ còn là nhỏ giọt. Đã hơn 3 tháng kể từ khi được miễn trừ, chỉ có thêm 1.400 người được cấp phép phỏng vấn, khoảng 400 người mỗi tháng, trái ngược với 4.000 người trong mỗi tháng trước khi có quyết định miễn trừ.” Đại Sứ Peterson, cũng điều trần hôm ấy, giải thích rằng số hồ sơ thuyền nhân chưa được cấp phép phỏng vấn là do công an không tìm ra nơi họ cư trú, hoặc họ đang ở tù về tội hình sự, hoặc họ đang lẩn trốn sau khi phạm tội. TNS Kerry hứa hẹn rằng Việt Nam sẽ tiếp tục hợp tác: “Việt Nam cũng đang hợp tác với chúng ta để đẩy nhanh quá trình xử lý những ứng viên vẫn đang trong quá trình xét duyệt và cung cấp thông tin về danh sách 3.000 cá nhân mà chúng ta đã bàn giao vào tháng 1. Chính quyền hy vọng rằng một số lượng lớn những người này sẽ được thông qua phỏng vấn sau khi chúng ta cung cấp cho phía Việt Nam thêm thông tin để tìm họ.” Đến phiên, tôi phản bác lại, dựa vào các hồ sơ cụ thể và thông tin từ chuyến thị sát Việt Nam cuối năm trước: “Vâng, ở Việt Nam, các hoạt động tội phạm có thể có nghĩa là các hoạt động chính trị không được phép hoặc không được Chính phủ Việt Nam cho phép. Trên thực tế, chúng tôi đã nộp cho Bộ Ngoại Giao một danh sách dài với khoảng 600 hồ sơ và cho đến nay chúng tôi nhận được rất ít phản hồi từ Bộ Ngoại Giao về các hồ sơ đó. Chúng tôi đã bao gồm địa chỉ [của thuyền nhân hồi hương] trong danh sách. Và bây giờ, thực tế là vào tháng 3, Bộ Ngoại Giao rất lạc quan. Họ nói với chúng tôi rằng họ mong đợi rằng số lượng hồ sơ còn lại gồm 4.000 người sẽ được cấp phép vào cuối. tháng 3. Hiện tại đã là tháng 6 và vẫn còn 2.000 người đang chờ cấp phép, chưa kể đến 1.200 trường hợp cá nhân đã không được cấp phép để phỏng vấn.” Ngay trước buổi điều trần, BPSOS đã gửi một tài liệu dày cho Bộ Ngoại Giao và Quốc Hội về số trường hợp thuyền nhân hồi hương tiếp tục bị đàn áp và bị ngăn cản tham gia chương trình ROVR. Tôi còn nêu lên tình trạng tham nhũng, không khác gì trong thanh lọc CPA: “Có tình trạng tham nhũng tràn lan ở Việt Nam đã làm hỏng toàn bộ quá trình di dân. Chúng tôi đã lập hồ sơ các trường hợp và chúng tôi muốn trình bày một cách bảo mật cho Tiểu ban này lời khai của hai người tị nạn mới đến Hoa Kỳ. Một người phải trả 500 đô la và người kia phải trả 3.000 đô la để đổi lấy quyền xuất cảnh.” Cuối cùng, tôi đề nghị Quốc Hội Hoa Kỳ: “Cuối cùng, tôi muốn đề xuất các điều kiện sau đây để gia hạn miễn trừ [điều khoản Jackson-Vanik]. Một, Việt Nam phải đồng ý nhanh chóng cấp phép cho toàn bộ số hồ sơ ROVR để phỏng vấn bao gồm cả 1.200 người đã bị từ chối cấp phép. Hai, cung cấp cho Hoa Kỳ quyền tiếp cận đầy đủ, trực tiếp và không bị cản trở đối với những người nộp đơn có liên quan đến Hoa Kỳ. Và ba, Việt Nam phải thực hiện bước cụ thể và ngay lập tức để chống tham nhũng trong suốt quá trình di dân.” Sau buổi điều trần, tôi hẹn với Đại Sứ Peterson, DB Smith và Ông Rees xuống căng-tin tầng hầm của Quốc Hội để bàn kế hoạch, mỗi người một cách nhằm áp lực Việt Nam phải thực sự hợp tác với các hồ sơ ROVR mà Sở Di Trú Hoa Kỳ đã lên danh sách nhưng chưa được phỏng vấn. Đại Sứ Peterson tuy đối chọi với chúng tôi trong buổi điều trần lại là người hợp tác trong hậu trường để đưa thông điệp sắt thép từ Quốc Hội Hoa Kỳ. Trong dịp này, Việt Nam cử một toán giới chức đến Hoa Kỳ vận động gia hạn quy chế tối huệ quốc. Họ xin gặp DB Smith nhưng chỉ được Ông Rees đón tiếp. Thông điệp mà họ nhận được là Việt Nam sẽ phải gánh hậu quả thiệt hại đáng kể nếu không thực tâm hợp tác với chương trình ROVR. Ngày 11 tháng 7, Uỷ Ban Tài Chính của Thượng Viện tổ chức buổi điều trần cùng chủ đề “tối huệ quốc” cho Việt Nam, và tôi trình bày những điểm tương tự. Buổi điều trần này được trực tiếp truyền hình bởi C-SPAN: https://www.c-span.org/program/senate-committee/jackson-vanik-waiver-for-trade-with-vietnam/81659  Hình 3 – Ts. Nguyễn Đình Thăng điều trần tại Thượng Viện Hoa Kỳ, ngày 11 tháng 7, 1998 Gỡ nút nghẽn cuối cùngSau buổi điều trần, phía Việt Nam nhận được thông điệp nhất quán từ mọi phía ở Hoa Kỳ: Không thực sự hợp tác với chương trình ROVR thì không tối huệ quốc. Đồng thời, BPSOS ra thông báo hướng dẫn thuyền nhân hồi hương và thân nhân của họ ở hải ngoại về tiêu chuẩn tị nạn của Hoa Kỳ, những điều cần chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn, và cách liên lạc với BPSOS khi gặp trờ ngại. Tháng 7 năm 1998, tôi gửi danh sách số 13, cũng là danh sách các hồ sơ ROVR cuối cùng bị trục trặc. Nhà nước Việt Nam nhanh chóng cấp phép cho tất cả những hồ sơ theo danh sách của Sở Di Trú Hoa Kỳ, và bỏ đòi hỏi phải có thân nhân ở Hoa Kỳ bảo lãnh và có chiếu khán thì mới được phỏng vấn ROVR. Tuy nhiên, vẫn tiếp tục có một số hồ sơ ROVR tiếp tục bị ngăn cản; tháng 11 năm 1998, tôi gửi bản báo cáo tiếp theo cho Bộ Ngoại Giao, Sở Di Trú và nhiều thành viên Quốc Hội Hoa Kỳ. Về phía Sở Di Trú thì chúng tôi hoàn toàn yên tâm. Người đứng đầu chương trình tái phỏng vấn ROVR là cô Dorothea Lay, từng là nhân viên của Ông Rees khi ông còn là cố vấn trưởng pháp lý của Sở Di Trú. Kết quả là hơn 18 nghìn thuyền nhân hồi hương đã đến Hoa Kỳ định cư tị nạn. Tỉ lệ được cứu xét tị nạn là hơn 95%. Cô Lay là người sau này mở chương trình phỏng vấn tái định cư các thuyền nhân ở Phi Luật Tân theo tiêu chuẩn và thể thức sao chép từ chương trình ROVR. Người phủi tayTình cờ, trên chuyến bay từ Singapore vào Việt Nam ngày 6 tháng 12, 1997 tôi thấy Ông Lê Xuân Khoa ngồi cùng dãy ghế. Chắc chắn ông ta có visa “đàng hoàng” chứ không như tôi, chưa biết thân phận sẽ ra sao khi máy bay đáp xuống phi trường Nội Bài. Tại các cuộc họp với các thành phần liên quan đến chương trình ROVR trong những ngày ở Việt Nam, không ai nhắc đến tên của Ông Lê Xuân Khoa. Có nghĩa là ông ta chẳng can dự gì nữa, đã bỏ mặc. Sau này tôi mới biết là năm 1996 ông ta đã rời khỏi tổ chức SEARAC. Việc ra đi này, theo tài liệu nội bộ mà tôi có, có lẽ do ông ta đã làm cho Hội Đồng Quản Trị của SEARAC ngộ nhận từ đầu rằng ông ta có bằng tiến sĩ. Đây sẽ là đề tài của loạt bài khác. Tài liệu tham khảo: Lời chứng của Ts. Nguyễn Đình Thắng kèm với bản tường thuật của Ông Rees gửi Quốc Hội và Bộ Ngoại Giao: https://dvov.org/wp-content/uploads/2025/02/Mistreatment-of-returnees-Nov-1998-23.pdf Báo cáo về thuyền nhân hồi hương bị đàn áp tháng 5, 1998: https://dvov.org/wp-content/uploads/2025/02/Mistreament-of-returnees-May-27-1998.pdf Nguyên bản ký tự buổi điều trần ngày 18 tháng 6, 1998: https://dvov.org/wp-content/uploads/2025/02/Congressional-hearing-June-18-1998.pdf 13 đợt danh sách gồm trên 500 hồ sơ ROVR ưu tiên do BPSOS cung cấp cho Sở Di Trú Hoa Kỳ: https://dvov.org/wp-content/uploads/2025/01/ROVR-priority-cases-Jun-18-1997.pdf Danh sách hồ sơ từ Bà Ls Pam Baker: https://dvov.org/wp-content/uploads/2025/02/150-cases-from-Pam-Baker.pdf Thông báo của BPSOS về diễn tiến thực hiện chương trình ROVR, tháng 7 năm 1998: https://dvov.org/wp-content/uploads/2025/01/Announcing-ROVR-program-Jul-1998.pdf Báo cáo cuối cùng về các hồ sơ ROVR bị trở ngại: https://dvov.org/wp-content/uploads/2025/02/Mistreatment-of-returnees-Nov-1998.pdf Mạch Sống |