Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2025

Tiếng Việt Trong Sáng - Kỳ Thứ 8



TIẾNG VIỆT TRONG SÁNG - KỲ 8 
Đáp Lời Sông Núi

Tiếng Việt Trong Sáng, Kỳ 8 - Thập Niên, Bách Niên/Thế Kỷ, Thiên Niên...

Hỏi: Đơn vị tính theo năm là 10 năm, gọi là Thập Niên; trăm năm là Bách Niên hay Thế Kỷ?

Đáp:

Tính từ năm trở lên, tiếng Hán gọi là ‘nhất niên, nhị niên,’ tròn năm gọi là ‘chu niên.’ Mười năm, gọi là Thập niên; trăm năm là Bách niên hay còn gọi là Thế kỷ; ngàn năm  là Thiên niên.Ví dụ: Kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày thành lập hội. Kế hoạch kinh tế ngũ niên. Vì lợi ích mười năm, trồng cây; vì lợi ích trăm năm, trồng người... (câu này Hồ Chí Minh ăn cắp lời của Tể Tướng nước Tề thời Xuân Thu là Quản Trọng. 

Hỏi: Tại sao trăm năm gọi là Thế Kỷ, mười năm có gọi là Thập Kỷ không?

Đáp:

Trước hết, phải xác định chữ Kỷ không có nghĩa là năm giống như chữ Niên, một đơn vị dùng làm tiêu chuẩn đo lường. Kỷ trong Hán văn có nhiều nghĩa:

1.- Kỷ  hay còn đọc là Ky, là suốt một năm, tức nói đến một mốc, một hạn kỳ. 

2.- Kỷ () chúng ta muốn bàn ở đây như Nhất Kỉ (一紀) là một giáp, 12 năm theo Âm lịch (theo Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của). Rồi theo vài học giả khác, ‘Kỷ’ còn là 1500 năm hoặc là tiêu chuẩn để tính năm bắt đầu từ một biến cố nào đó. Ngày xưa, người Trung Hoa lấy năm một vị vua lên ngôi để tính bắt đầu một kỷ (kỷ nguyên  ); còn người Tây Phương thì lấy năm Chúa giáng sinh để bắt đầu tính năm gọi là Kỷ Nguyên Thiên Chúa. Nếu dịch từ Anh Ngữ, thì Kỷ này là chữ ‘era,’ chứ không phải là ‘year.’ Trong một bài về Thập Niên và Thập Kỷ đăng trên điện báo Thanh Niên của CS Việt Nam, tác giả Vương Trung Hiếu viết vòng vo rằng “niên và kỷ đều dùng để chỉ "năm" (nhất niên hay nhất kỷ = 1 năm; thập niên hay thập kỷ = 10 năm), song theo cách tính hiện nay, kỷ còn có nghĩa là 10 năm (nhất kỷ); thập niên kỷ cũng là 10 năm; thời Trung Quốc cổ đại gọi là "trật" (: 10 năm), tương ứng với một niên đại (10 năm).” Đọc xong, trí óc cứ lập lờ chẳng biết bắt vào điểm nào là đúng!

Năm tuổi gọi là Niên Kỷ (年紀), trong khi việc ghi chép chuyện hàng năm gọi là kỉ niên 紀年. 

Trước kia, không hề nghe, thấy các chữ Thập Kỷ, Bách Kỷ; mà chỉ có chữ Thập Niên, Bách Niên, nhưng lại có Thiên Niên Kỷ, là một mốc 1000 năm. Bây giờ, ở Việt Nam người ta dùng chữ ‘thập kỷ’ để chỉ một mốc mười năm, nhưng có khuynh hướng khuyên nên dùng ‘thập niên’ để tránh nhầm lẫn như các định nghĩa về ‘Kỷ’  nói trên. Còn muốn chính xác, thì nên nói Thập niên kỷ, bách niên kỷ; có chữ ‘niên’ là đơn vị.

Hỏi: Thế tại sao trăm năm vừa gọi là bách niên, vừa gọi thế kỷ, mà lại không có chữ ‘bách kỷ’?

Đáp:

Chữ Thế  là đời. Người Hoa quan niệm ba mươi năm là một đời; hết đời cha đến đời con cũng gọi là một đời.  Như ‘nhất thế’ 一世 một đời, ‘thế hệ’ 世系 nối đời.

Theo Hán Việt Tự Điển của Đào Duy Anh, Thế Kỷ ( có nghĩa là ‘Phép chép năm, cứ 100 năm gọi là một thế kỷ.’ Chúng tôi không tìm ra tài liệu nào khác giải thích xuất xứ của chữ Thế Kỷ.

Tuy nhiên, có thể là do quan niệm đời người 100 năm như câu mở đầu Truyện Kiều của Nguyễn Du: “Trăm năm trong cõi người ta.” Do đó, Thế Kỷ dùng để nói đến 100 năm, và không thấy có Bách Kỷ.

Nếu nói hai chữ ‘bách kỷ’ là cái mốc một trăm. Một trăm gì? Kỷ là bao nhiêu? Một giáp (12 năm), một triều đại (vài chục hay vài trăm năm?).

Xin phân biệt chữ Kỷ  này với Kỷ  là bao nhiêu trong câu thơ của Nguyễn Công Trứ sau đây:

Tân nhân dục vấn lang niên kỷ (新人欲問郎年幾) Cô dâu hỏi chàng rể bao nhiêu năm (tuổi). Niên Kỷ 年幾 là bao nhiêu năm, này khác với Niên Kỷ 年紀 là năm tuổi.

Hỏi: Như thế, chúng ta đang sống trong thập niên, thế kỷ, thiên niên kỷ nào?

Có hai khuynh hướng tính Thập Niên:

Cách thứ nhất: Thập niên 1960 bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 1960 đến ngày 31 tháng 12 năm 1969.  

Cách thứ hai: Thập niên 1960 bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 1961 đến ngày 31 tháng 12 năm 1970.

Cả hai cách viết tắt là 1960s. Ví dụ: Vụ Cải Cách Ruộng Đất ở Bắc Việt xảy ra vào giữa thập niên 1950.

Như thế, hiện nay chúng ta đang ở giữa thập niên 2020 của thế kỷ 21, thiên niên kỷ thứ 3.

Thập Niên 2020 bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 cửa năm 2021 cho đến ngày 31 tháng 12 của năm 2030.

Thế Kỷ 21 tính từ ngày 1 tháng 1 năm 2001 đến ngày 31 tháng 12 năm 2100.

Thiên niên kỷ thứ ba tính từ ngày 1 tháng 1 năm 2001 đến ngày 31 tháng 12 năm 3000.

Hỏi: Có người khi nói các em bé chưa đầy năm gọi là 5, hay 6, 7, 8... tháng tuổi. Gọi thế có được không?

Đáp:

Em bé tròn một năm thì gọi là một tuổi. Chưa tròn năm thì chỉ gọi bằng tháng. Ví dụ: cháu được ba tháng. Em này đã tám tháng. Không nên gọi ‘tháng tuổi.’

Hỏi: Tại sao?

Vì tuổi là tính theo năm. Đó là chữ Tuế  của Trung Hoa, mà họ đọc là Tsui. Ví dụ:

Anh bao nhiêu tuổi你多少Nǐ duō shǎo suì? (Nhĩ đa thiểu tuế?) 

Tôi ba mươi tuổi我三十. Wǒ sān shí suì (Ngã tam thập tuế)

Trong hàng thảo mộc thì có cây thiên tuế tên khoa học là Cycas revoluta trồng ở vùng nhiệt đới. Ngày xưa quan dân tung hô các vị vua “Hoàng thượng vạn tuế.” Các ông vua này sống giỏi lắm 50, 60 năm là cưỡi rồng về trời chứ có sống đến bách tuế đâu mà tính tới vạn tuế!

Các vợ chồng mới cưới thì nhận câu chúc “Bách niên hảo hợp, trăm năm hạnh phúc, hoặc được chúc “Bách niên giai lão.” Cụ nào sống đến 100 tuổi sẽ được con cháu làm lễ bách tuế. Trong bài thơ “Thăng Long Thành Hoài Cổ” của bà Huyện Thanh Quan có câu “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, nước còn chau mặt với tang thương.” Tuế nguyệt đây là năm tháng.  

Ghi chú: Các bản ghi lại bài thơ Thăng Long Thành Hoài Cổ viết khác nhau. Bản thì 'chau mặt', bản thì 'cau mặt'

Theo tôi, 'chau' đúng hơn vì chỉ là một biểu hiện nhíu đôi mày bày tỏ sự thất vọng. Còn 'cau' thì thái độ nặng nề hơn như cau có, gay gắt.





Kính mời quý vị theo dõi




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét