Thứ Hai, 1 tháng 3, 2021

Những Người Bạn Đồng Môn

 GIỚI THIỆU

Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy, Cô, quý Đồng Môn và Thân Hữu tùy bút NHỮNG NGƯỜI BẠN ĐỒNG MÔN, tác giả, thầy Trần Đăng Tường, cựu giáo sư Trung Học Tổng hợp Nguyễn Huệ Tuy Hòa, Phú Yên trước 1975.

Vì bài vở quá nhiều nên giới thiệu bài này lên diễn đàn hơi trễ. Xin Thầy thông cảm. BBT thành thật xin lỗi và rất mong được đón nhận những sáng tác của Thầy.

Trân trọng

NHHN



NHỮNG NGƯỜI BẠN ĐỒNG MÔN
Thầy Trần Đăng Tường

Người xưa từng nói: “Nhân sinh bách nghệ, văn học vi tiên.” Nghĩa là người ta sinh ra ở đời có trăm nghề, nhưng nghề cầm bút, văn chương thi phú đứng hàng đầu.

Riêng mỗi chúng ta, khi sinh ra và lớn lên, đi học, trưởng thành và rồi thì cũng phải chọn cho mình một nghề để mưu sinh. Tất nhiên ai cũng muốn đời mình có được một nghề được xếp vào hàng càng cao càng tốt trong mức thang xã hội. Nghề thường đi đôi với nghiệp và nghề là yếu tố quyết định vận mệnh (nghiệp) của mỗi chúng ta trong tương lai. Vì thế có câu “ sinh nghề tử nghiệp”; phải theo nghề cho đến hơi thở cuối cùng.

Là một người “con trai Huế”, sinh ra và lớn lên trên quê hương tuyệt vời nhưng cũng đầy mâu thuẫn nầy, tôi thường tự hỏi rằng: Thực sự thì mình “được” hay “bị“ ra đời và lớn lên từ Huế?!

Khi tôi nói Huế tuyệt vời nhưng cũng đầy mâu thuẫn bởi nhớ lại một câu văn ngồ ngộ của một thằng bạn viết văn nói về Huế: "Huế nhỏ như một cái bể cạn mà lại chưa những tâm hồn bão nổi sông hồ...”

Tôi thương Huế đậm đà, nhưng khi tuổi đời... lão giả an chi lại đóng đô ở Đà Nẵng. Thì ra, mình cũng là dân Huế đi để nhớ, chớ mô phải ở để mà thương!

Chừ ngoái nhìn lại những tháng ngày quá khứ, tôi ghi lại đôi dòng hoài niệm những năm tháng đã qua mau. Trên chuyến tàu thời gian một chiều, bức màn quá khứ đã nhuộm những chuyện vui buồn của chặng đời đã qua thành kỷ niệm. Với tuổi đời nhớ nhớ quên quên, tôi sẽ ghi lại sau đây những điều còn nhớ. Điều mình nhớ chưa hẳn đã hay ho, độc đáo về mặt giá trị văn học nghệ thuật, nhưng chỉ đơn giản là những dấu ấn cuộc đời tương đối đậm nét nên chưa vội phai mờ trong ký ức cao niên vậy thôi. Quý không phải là hào nhoáng mà là sự thật thà, mộc mạc, chân quê.

Tôi ghi lại nơi đây chuyện quá khứ của một chặng đời khó quên:

Năm 1966, sau khi đỗ tú tài 2 ban C, cánh cửa đại học mở rộng với tôi: Thi đậu vào trường Quốc gia Hành chính tại Sài Gòn và sau đó là trường Đại học Sư phạm (ĐHSP) Huế. Đứng trước hai ngã đường, đâu là con đường mình sẽ đi (chọn cho mình một nghề) để tác nghiệp trong suốt cuộc đời của mình.

Tôi sinh ngày 29 tháng 11 năm Giáp Thân; Giờ Ngọ (12- 01-1945) và lá số tử vi của tôi cũng mách bảo cho mình đôi điều trong việc chọn nghề (?!). Căn cứ vào đó thì cung Mệnh án ngữ sao “TỬ VI VÀ QUỐC ẤN” chắc chắn sẽ thành đạt trong đường quan trường, nhưng cung mệnh lại rơi vào Tuần – Triệt nên giá trị của nó chỉ bằng không; - Không có số làm quan! Và có số làm thầy chăng? Trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt Bắc – Nam, tôi ở bên này vĩ tuyến còn gia đình thì ở bên kia. Cuộc sống của tôi được đùm bọc bởi tình yêu thương của ông bà nội về mọi mặt. Ông nội là người đã phân tích và hướng dẫn cho tôi với lời phân tích và căn dặn rằng: “ Vào QGHC là đi làm quan; vào ĐHSP là đi làm thầy. Trong bất cứ thời nào, hoàn cảnh nào làm thầy vẫn là tốt nhất. Vả lại, con là đứa cháu đích tôn, ôn mệ đã già cả, không biết sẽ ra đi lúc nào? Ông bà không thể sống xa và thiếu con! Mặt khác nhà mình thì nghèo có tiền đâu để đi học xa nhà! Hơn nữa nghề giáo là một nghề hiền lành và có hậu.” Kết hợp hai yếu tố số mệnh (số tử vi) và lời dạy của ông nội, tôi quyết định đi theo con đường làm thầy! Cho đến ngày nay, với những ngày tháng êm đềm dưới mái trường ĐHSP Huế, bên bạn hiền, quý thầy cô kính yêu, tôi đã tiếp tục cuộc hành trình “bụi phấn” cùng bằng hữu và các thế hệ học sinh thân yêu của hai thời kỳ lịch sử trước và sau 1975.

Những chuyện xưa, tích cũ của hơn nửa thế kỷ với thầy cô, bằng hữu và các thế hệ học sinh của tôi như một bộ phim nhiều tập không giấy bút nào có thể ghi lại một cách trọn vẹn! Chuyện xưa, tích cũ ấy có cái nhớ, cái quên! Thôi thì nhớ đến đâu nói đến đấy, gọi là tấm lòng ôn cố để nhớ mãi những người bạn đồng môn của “những ngày xưa thân ái”.

Nếp sinh hoạt dưới mái trường ĐHSP Huế với bao nhiên kỷ niệm vui buồn đã có nhiều bạn kể lại. Ngày tốt nghiệp là thời điểm chia tay. Dù được ra đời trong lứa tuổi thành nhân và chuẩn bị để làm thầy, cô giáo; nhưng ra khỏi khung cảnh bình yên của nhà trường và thành phố Huế một vài chục cây số là đã đối mặt với chiến tranh. Mỗi địa phương chúng tôi chọn về đều là một khung cảnh của “định mệnh”. Chiến tranh và hòa bình là hai mặt của quê hương thời chiến nên nơi chúng tôi đến nhận nhiệm sở là một khung cảnh thử thách mới.

Cuối năm 1970, tôi nhận sứ vụ lệnh bổ dụng Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp tại trường Trung học Tổng hợp Nguyễn Huệ Tuy Hòa. Cùng về trường này, ngoài tôi (Ban Việt Hán), còn có các bạn đồng môn Lê Thọ Khoa (Anh văn), Nguyễn Thị Hiền (Vạn vật). Chúng tôi cùng lên đường đến nhiệm sở trên chiếc máy bay DC 6 bay từ Huế vào Tuy Hòa.

Trình diện xong với nhà trường là được nghỉ về quê ăn Tết. Nhưng sau đó phải vào lính theo luật động viên đương thời. Tôi nhập ngũ theo học tại Trường Bộ Binh Thủ Đức. Tốt nghiệp trường sĩ quan quân đội, tôi được biệt phái trở lại trường cũ. Dạy học tại đây được 2 niên khóa (1971-1972) và (1972-1973). Đến tháng 5-1973 tôi thuyên chuyển về trường Nữ trung học Hội An cho đến tháng 3-1975.

Thời gian ở Tuy Hòa, tôi và bạn bè ở đây trước có dịp được đón tiếp một nhóm bạn bè gồm Đỗ Trọng Hồi, Trần Nguyên Quang, Hoàng Thạch Tú. Tại đây chúng tôi giúp một người bạn săn tìm “chim Yến, chim Oanh” nhưng duyên không thành. Chẳng sao cả! Đến nay bạn tôi đã toại nguyện vì Yến Oanh nào phải đâu xa…!

Sau chuyến hành trình này, về Tuy Hòa của ba người bạn đồng môn, tôi được thuyên chuyển về Hội An như đã nói ở trên. Tôi rất vui mừng vì được gặp lại những người bạn đã từng lên Tuy Hòa để bắt bướm, tìm chim năm nào? Đó là Đỗ Trọng Hồi; Trần Nguyên Quang (ngoại trừ Hoàng Thạch Tú còn ở Tam Kỳ); lại thêm Vĩnh Trung và Vương Thúy Loan đã công tác tại đây từ trước.

Như vậy, đồng môn khóa Phan Châu Trinh (1970) đã hội tụ về đất Ngũ Phụng Tề Phi đông nhất, gồm năm người: Quang - Hồi - Trung - Thúy Loan và tôi. Tại đây tôi được bà Hiệu trưởng Tống Nữ Bạch Nga (đã qua đời do tai nạn tại Mỹ) dành riêng cho tôi một căn biệt thự trong khu Giếng Bá Lễ. Nhà rộng kín cổng cao tường, ở một mình thì sợ ma nên tôi kéo Vĩnh Trung, Quang, Hồi để thành bộ tứ gọi là “ Tứ đại giáo sư” (Do các em học sinh trường Nữ Hội An đặt cho.)

Tại đây, hằng tuần, chúng tôi lại có dịp đón tiếp một người bạn là Đào Nguyên Dương, giáo sư thỉnh giảng môn triết học của trường nữ Trung Học Hội An và chúng tôi thường xuyên được nghe bạn ấy giảng triết học mỗi khi trở mình trong giấc ngủ. Như vậy, ngoài tứ đại giáo sư còn có một quý khách cùng đến với chúng tôi mỗi tuần hai ngày trong ngôi nhà này. Tại đây, chúng tôi ăn cơm tháng do ông già giữ nhà nấu ăn, nhưng vì không hợp khẩu vị nên chúng tôi quyết định thử nghiệm việc tự mình nấu ăn xem sao? Đi chợ thì nhờ phụ huynh, mẹ của hai em Lan chị - Lan em đều là học sinh trường nữ ở cạnh chúng tôi.

Thời gian chúng tôi tự nấu ăn theo đề xuất của Vĩnh Trung chỉ kéo dài chừng nửa tháng, nhưng đã để lại những kỷ niệm nhớ đời và qua đó cũng thấy rõ được bản tính của mỗi người: Vĩnh Trung cần mẫn chăm lo cho bữa cơm chu đáo chừng nào thì Tường, Quang lại lơ là chểnh mảng từng đó. Đỗ Trọng Hồi là người theo thuyết “trung dung”; vì vậy, mỗi khi đến lượt tôi hay Quang vào bếp thì luôn luôn bị Trung chỉ trích và… giáo huấn! Tôi thì im lặng còn Quang thì nhăn răng ra cười như không nghe thấy.

Như thường lệ, chúng tôi nhờ người mua lễ vật để cúng rằm và mồng một hàng tháng. Lễ vật thường là bông hoa và trái cây, chủ yếu là chuối. Hôm đó vào ngày rằm, Quang đi dạy về thấy nải chuối trên bàn bèn lấy ra ăn, thế là Vĩnh Trung cho Quang một trận “mô-ran xử thế” vì dám ăn trước đồ cúng (Nhà chùa thường hay có nải chuối để cúng, có lẽ vì thế mà Trần Nguyên Quang có duyên với nhà chùa để về sau thanh tăng lữ chăng?).

Cuộc sống tưởng như êm đềm đó chóng qua đi và điệu sống phải theo luật khách quan: có hợp thì có tan. Rồi chúng tôi tan đàn sẻ nghé vì chiến tranh đã đến, bom đạn ngày đêm đã bắt đầu lên tiếng, Hội An đã bị pháo kích, Thúy Loan đã từ bỏ chúng tôi để về Sài Gòn tìm chốn an bình! Vĩnh Trung không biết vì lý do gì cũng vẫn rời xa chúng tôi đi Đại Lộc làm Hiệu trưởng! Mặc dù chúng tôi đã hết lời khuyên can bởi đó là vùng đất thiếu an ninh nổi tiếng.

Đến giữa tháng 3 - 1975 thì chiến tranh đã thực sự về đến Hội An và chúng tôi (Quang, Tường, Hồi) cũng phải rời xa phố Hội chạy về Đà Nẵng. Nơi đây, cuộc sống của những người bạn và của tôi chuyển sang một trang mới với bao buồn vui lẫn lộn. Thế là chúng tôi lại cùng nhau hội ngộ tại Đà Nẵng (gồm Trung, Quang, Tú và tôi) cùng nhau trải qua những ngày tháng đầy lo âu và gian khó.

Đời sống khó khăn, không được đứng trên bục giảng, chúng tôi chờ đợi ngày được đi dạy lại, nhưng về lại nhiệm sở cũ ở Hội An thì bị từ chối, với lý do là “sĩ quan biệt phái, có tội với nhân dân!”

Trong thời gian chờ đợi để được đi dạy lại thì Vĩnh Trung ở nhà vợ, còn tôi sau khi ngôi nhà tại cư xá công chức Thanh Bình (Nay là khách sạn Công đoàn Đà Nẵng) do bạn Nguyễn Quang cùng học Văn khoa nhượng lại trước đây, bị Ủy ban Quân quản tịch thu. Mất nhà, gia đình chúng tôi phải ra đứng đường; may thay gặp bạn Nguyễn Thanh An (Ban Vạn vật) người cùng cảnh ngộ nhưng may mắn hơn vì đã tìm được một nơi để ở nhờ. Thế là gia đình tôi và bạn Trần Nguyên Quang cùng đến ở chung với gia đình bạn An.

Tại đây trong giai đoạn này chúng tôi sống vô cùng chật vật, túng thiếu mọi bề, nói ra thì “ốt dột” lắm! Chúng tôi đói và thèm ăn triền miên. Còn nhớ một hôm bà xã mình có được một khoản tiền bồi dưỡng ở cơ quan, mua về một nải chuối lùn, món quà mà chúng tôi nằm mơ cũng không thấy được, trong hoàn cảnh này và lẽ dĩ nhiên người mừng nhất vẫn là bạn tôi – Trần Nguyên Quang (lại nhớ đến việc Quang ăn chuối trước cúng tại Hội An). Cùng ở chung trong giai đoạn này, thấy vợ chồng mình khó khăn quá trong sinh hoạt, Quang đã giúi vào tay mình một cây vàng và nói: “Tau góp vào để mua gạo”! Thời buổi đó, một lượng vàng quá lớn, đó là cả một gia tài đối với những đứa vô sản như chúng tôi. Thế mà bạn ấy cứ một mực đòi tôi nhận, tôi nghĩ rằng đó là số vốn lớn lao của bạn mình để bạn ấy còn lo cho bản thân và gia đình ở Đà Lạt trong những ngày tháng sau này. Thế là tôi đã dứt khoát từ chối dù bạn mình có năn nỉ như thế nào chăng nữa! Ôi, một tấm lòng vàng của bằng hữu lúc hoạn nạn.

Quang ơi! Vợ chồng mình luôn ghi nhớ tấm lòng vàng của bạn hiền trong những ngày gian khó và dù mình không nhận hiện vật nhưng đã nhận tấm lòng của bạn.

Còn đây! Chị Vân, người chị của bạn hiền Đỗ Trọng Hồi, trong một hôm ghé thăm mình tại đây với 30 lon gạo và 10 bó củi thông. Đó là món quà hạnh phúc nhất đời, thấm thía tận đáy lòng, chẳng khác gì bát cơm Phiếu Mẫu ân tình giúp Hàn Tín ngày xưa!

Trời không cắt đường sống của con người. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, bà xã tôi lại nhận được đồng lương của 2 tháng làm việc đầu tiên gần 50 ngàn (tương đương với tiền mua một chiếc xe đạp cũ). Với số tiền này chúng tôi đã mua được một túp lều diện tích gần 30m2. Làm sao nói hết được niềm vui của kẻ mất nhà nay lại có nhà. Còn nhớ bạn Hoàng Thạch Tú nói tếu: “Hay quá hè, chiếc xe đạp biến thành cái nhà để ở – phép thuật – có gì vui hơn!”

Có nhà rồi nhưng tiền đâu để chuyển nhà? Thế là Vĩnh Trung đề xuất thuê một chiếc xe bò để vận chuyển, mọi việc kéo xe, bưng vác đồ đạc đều do “Tứ đại giáo sư”: Vĩnh Trung – Hoàng Thạch Tú – Trần Nguyên Quang và các bạn Nguyễn Xuân Bin lao động cật lực trong một ngày là xong. Ôi! đổi đời, Tứ đại giáo sư ngày xưa bây giờ trở thành những phu khuân vác! Có trải nghiệm thực tế mới biết lúc khó khăn hoạn nạn tình bằng hữu là thế nào.

Thời gian trôi nhanh, sắp đến ngày khai giảng năm học đầu tiên của nhà nước XHCN Việt Nam thống nhất năm học mới 1975 – 1976. Tôi được di dạy sớm tại Điện Bàn vì có cái lý lịch gia đình cách mạng (vì ba mẹ tôi ở ngoài đó) và được thuyên chuyển qua các trường nữ Trung học Hội An – Thái Phiên và cuối cùng là trường Trần Phú cho đến ngày nghỉ hưu, tại Đà Nẵng. Bạn Hoàng Thạch Tú – Đỗ Trọng Hồi có quyết định đi dạy ở Trần Quý Cáp - Hội An. Tại đây Đỗ Trọng Hồi bị đi cải tạo hơn một năm sau đó về làm Thủ thư tại một Tư thục ở Huế. Bạn Hồi mang bệnh do thời gian đi cải tạo tại Kỳ Sơn Quảng Nam và qua đời cách đây 4 năm.

Bạn Hoàng Thạch Tú chuyển về Đà Nẵng làm lãnh đạo ở Công ty Sách tại Đà Nẵng, về hưu tại đây. Vĩnh Trung không được đi dạy vì là hiệu trưởng của chế độ cũ nên đành Nam du cùng gia đình. Vì không có môn Pháp Văn tại các trường nên bạn Trần Nguyên Quang phải trở về Đà Lạt làm ruộng và sau đó xuất gia tu hành tại Trúc Lâm Thiền Viện. Bây chừ bạn ấy là Thiền sư Thích Thông Lưu, hiện ở tại một thiền viện lớn ở Canada, sau nhiều năm bôn ba trong nước và hải ngoại để xây dựng nhiều thiền viện đóng góp công quả cho Phật giáo. Bạn Nguyễn Xuân Bin thì theo vợ về Bảo Lộc xây dựng đồn điền và trang trại.

Ký ức lần giở trước đèn lại nhớ đến những người bạn đồng môn khác, kể từ ngày chúng ta chia tay nhau, rời xa mái trường ĐHSP Huế (1970) đến nay:

Nhớ lắm các bạn Cẩm Tú – Ngô Hữu Tín – Đỗ Trọng Hồi – Tuyết Anh đã rời xa bạn bè ra đi vĩnh viễn, trong niềm tiếc thương của chúng ta.

Nhớ lắm những người bạn mà chúng ta chưa một lần gặp lại… và tất cả, dù bạn ở trong nước hay hải ngoại, mỗi người một số phận, giàu nghèo khác nhau nhưng chúng ta những người đồng môn khóa PCT vẫn luôn gắn bó và nhớ nhau mãi mãi …

Nhìn lại, những người còn lại như chúng ta “những hạt gạo trên sàn” vẫn có cuộc sống ổn định, hạnh phúc bên bạn bè, con cháu, phần lớn chúng ta đều là chủ nhân của một đại gia đình gồm ba thế hệ.

Chúng ta đã rất đúng khi chọn cho mình con đường sư phạm, con đường làm thầy giáo dù không giàu sang hơn ai nhưng an lành và thoải mái. Bởi vì đúng như lời di huấn của ông nội tôi: “… Nghề giáo là nghề hiền lành và có hậu”. Chúng ta đều có hậu đấy các bạn!

Cuối cùng, nếu đem thành, bại luận anh hùng thì các bạn đồng môn khóa Phan Châu Trinh chúng ta trong chiều dài lịch sử hơn nửa thế kỷ trải qua bao dâu bể của cuộc đời. Chúng ta vẫn tự hào vì đã cống hiến cho đời những nhà giáo chân chính, mẫu mực và đào tạo cho xã hội những thế hệ học sinh biết làm người theo cách của chúng ta đặt trên căn bản văn hóa truyền thống và kỷ cương xã hội trước sự biến dịch của hoàn cảnh không ngừng.

Năm mươi năm nhìn lại, đặc biệt khóa PCT cũng đã cống hiến cho xã hội những tay bút tài hoa trong làng văn học – nghệ thuật: nhà văn Trần Kiêm Đoàn với những biên khảo đặc sắc về Huế và rất Huế cùng nhiều tác phẩm mang đậm thiền vị. Lê Duy Đoàn, nhà văn kiêm họa sĩ tài có biệt tài. Lớp trưởng Ngô Văn Ban, nhà nghiên cứu văn học dân gian với rất nhiều công trình biên khảo về đất nước con người. Về lãnh vực tâm linh, tôn giáo, chúng ta có thiền sư Thích Thông Lưu, một đệ tử chân truyền của hòa thượng Thích Thanh Từ, người kế thừa và phục hưng phái Trúc Lâm - Yên Tử của Phật giáo Việt Nam.

Cho đến bây giờ chúng ta đã là thế hệ U-80. Như một cỗ xe chạy suốt đường trường 50 năm, bây giờ chúng ta nhìn lại thật đáng vui mừng và tự hào. Không một Thầy giáo, Cô giáo nào xuất thân từ khóa Phan Châu Trinh bị tai tiếng. Những giáo sinh sư phạm một thời trong khung cảnh dầu sôi lửa bỏng của cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn chưa có bạn nào đánh đổi thế đứng của những kỹ sư tâm hồn thành những chướng duyên của xã hội trong môi trường giáo dục trong cũng như ngoài nước. Những bạn từng đứng trên bục giảng của trường lớp ở quê nhà vẫn tiếp tục đứng vững vàng trong môi trường giáo dục của Âu Mỹ, phương Tây. Hầu hết các Thầy Cô giáo xuất thân từ Đại Học Sư Phạm Huế đều góp phần làm sáng danh ngành Sư Phạm.  

Dù đi đâu, về đâu… chúng tôi vẫn luôn nhớ đến những kỷ niệm về những người bạn đồng môn khóa Phan Châu Trinh. Tuy mỗi người một vẻ; có thể không “mười phân vẹn mười”, nhưng tất cả chúng tôi đã thể hiện một cách đầy bản lãnh và đáng nể trọng trong những hoàn cảnh lịch sử chiến tranh, chính trị và xã hội Việt Nam đầy chao đảo và thăng trầm thời cận đại.

Giờ đây, tất cả anh chị em – cựu Thầy, Cô giáo khoá ĐHSP Huế 1970 – đều đã “gác kiếm” về hưu. Với quỹ thời gian đã mỏng và tấm vé một chiều trong tay, tuy mỗi người đều có một ước mơ và dự phóng khác nhau về chặng đời còn lại của mình, chúng ta vẫn có một điểm chung: Đó là niềm vui an ủi tuổi già sau một đời cống hiến cho nền giáo dục của con em mà thời điểm khó khăn và đầy thách đố nhất là giữa buổi giao thời sau năm 1975. Chúng ta còn tồn tại để về hưu là chúng ta đã chiến thắng phận sự riêng mình trong sự nghiệp giáo dục. Những người bạn cũ vui được gặp nhau để tâm tình và chia sẻ.

Giờ phút này chúng ta đang hoài vọng về ngày Hội ngộ đồng môn khóa Phan Châu Trinh của trường ĐHSP – Huế sẽ được tổ chức vào ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (10 - 3 năm Canh Tý – tức ngày 02 - 4 - 2020) tại Huế sau đúng nửa thế kỷ, kể từ ngày chúng ta chia tay tại ngôi trường này với bao luyến thương.

Trở về trường cũ, cái nôi của bao kỷ niệm tại cố đô Huế để được gọi hai tiếng “mi – tau” của thời đi học, để ôn lại những kỷ niệm xưa mà chúng ta hằng ấp ủ suốt cuộc đời… Còn gì hạnh phúc hơn phải không các bạn?

Chắc chắn đây là dịp hiếm hoi và đặc biệt có một không hai trong cuộc đời của chúng ta. Bởi vì, như bạn Trần Kiêm Đoàn đã da diết nhắn gởi: “ … Chúng ta sẽ không có hai lần 50 để gặp nhau nữa?” Đó là sự suy nghĩ thực tế bởi vì cuộc sống là vô thường và hữu hạn phải không các bạn?

Cầu mong các bạn được mạnh khỏe, an lành để chúng ta chắc chắn sẽ được gặp lại nhau trong lần hội ngộ 50 năm này.

Đà Nẵng, ngày 17 tháng 12 năm 2019
Trần Đăng Tường


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét