THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - BÀI 21, 22, 23 VÀ 24
Thầy Dương Anh Sơn
THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU
TẬP 2: NAM TRUNG TẠP NGÂM
南 中 雜 吟
Bài 21
TÁI THỨ NGUYÊN VẬN 再次原韻
Trạm nguyên lưu thủy phát sơn thôn, 湛源流水發山村,
Nhật Lệ triều đầu dũng hải môn. 日麗潮頭湧海門.
Thanh Vị trọc Kinh đồng bất tức, 清渭濁涇同不息,
Hoàng hoa lục trúc lưỡng vô ngôn. 黄花緑竹兩無言.
Tuế thu thuật mễ kham cung khách, 歲收秫米堪供客,
Thiên giả tùng niên cập bão tôn. 天假松年及抱孫.
Phù thế kỷ kinh tang lỗ biến, 烰世幾經桑鹵變,
Sàng đầu y cựu tửu doanh tôn. 床頭依舊酒盈樽.
** Bài thơ này được Tố Như họa theo nguyên vần của bài thơ trước đó là bài “TẶNG NHÂN” (Bài 20)
Dịch nghĩa:
Các thôn xóm đầu núi là nguồn chảy của dòng sông Trạm, - những ngọn sóng cao đầu đang vỗ mạnh mẽ vào cửa biển Nhật Lệ. - Nước sông Vị trong trẻo, nước sông Kinh đục ngầu cùng chảy không ngừng. - Đám hoa màu vàng và khóm trúc màu xanh lục cả hai đều không nói gì.(c.1-4) - Khi mùa lúa nếp đến nhặt nhạnh cũng đủ tiếp đãi khách. - Ví như ông trời cho được tuổi thọ như tùng cũng kịp để bồng cháu. - Cuộc đời chìm nổi trải qua bao lần thay đổi, nương dâu thành nương muối, - chỉ cần đầu giường có chén rượu đầy y như cũ là xong rồi. (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
HỌA THEO NGUYÊN VẦN LẦN NỮA
Xóm non sông Trạm khởi nguồn,
Vỗ ào Nhật Lệ , sóng vờn cửa sông !
Chẳng ngừng Kinh đục, Vị trong,
Hoa vàng trúc lục đều không nói rồi.
Nếp mùa nhặt nhạnh đãi người,
Tuổi tùng bồng cháu kịp trời cho thôi!
Vườn dâu, ruộng muối đổi dời,
Vẫn luôn rượu sẵn đầy bôi đầu giường.
Chú thích:
- Trạm 湛: tức Bình Giang, một con sông nhỏ chảy vào sông Nhật Lệ ở Quảng Bình.
- thanh Vị, trọc Kinh 清渭濁涇: tên hai con sông nhỏ ở phía tây bắc bên Trung Hoa thuộc vùng Cam Túc và Thiểm Tây.
Nước sông Vị thường trong trẻo, còn sông Kinh lại đục. Khi hai dòng sông hòa nhập, màu sắc trong đục chia nhau thấy rõ ràng. Đây là hình tượng Nguyễn Du mượn dùng để chỉ sự trong, cái đục phân ra tách bạch....
- hoàng hoa lục trúc 黄花緑竹: hoa vàng hay cây trúc xanh lục đều dùng để chỉ tình bạn bè trong mối tương quan với bản thân mình.
- tức 息: ngừng nghỉ, thở gấp, an ủi, hơi thở, tiền lời.
- thu 收: thu mót, bòn góp, nhặt nhạnh, giảm bớt, xén bớt...
- thuật 秫: lúa nếp dùng cất rượu.
- cung 供: cung cấp, cấp dưỡng, cung ứng.
- thiên giả 天假: giá như trời cho, ví như trời định.
- tùng niên 松年: tuổi tùng tức tuổi thọ sống lâu.
- kỷ kinh 幾經: trải qua, từng trải bao lần.
- lỗ 鹵 : ruộng muối, đất nhiễm mặn.
Bài 22
DẠ TỌA 夜坐
Tứ bích cung thanh náo dạ miên, 四壁蛩聲鬧夜眠,
Ải sàng di hướng khúc lan biên. 矮床移向曲欗邊.
Vi phong bất động sương thùy địa, 微風不動霜垂地,
Tà nguyệt vô quang tinh mãn thiên. 斜月無光星滿天.
Kim cổ nhàn sầu lai túy hậu, 今古閒愁來醉後,
Thuần lô hương tứ tại thu tiên. 蓴鱸鄉思在秋先.
Bạch đầu sở kế duy y thực, 白頭所計惟衣食,
Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên. 何得狂歌似少年.
Dịch nghĩa:
Quanh bốn bức tường, tiếng dế kêu râm rang làm xáo trộn giấc ngủ về đêm. - Chiếc giường ngủ thấp xấu đem dời đến phía khúc quanh bên lan can hiên nhà. - Cơn gió nhỏ không làm lay động màn sương buông xuống mặt đất. - Không còn ánh sáng của vầng trăng tà, sao đầy bầu trời. (c.1-4) - Sau cơn say, nỗi sầu buồn lúc rảnh rỗi lại đến với chuyện xưa nay. - Trước khi mùa thu về, nỗi nhớ nhung quê nhà với món cá vược, rau thuần. - Mãi lo chuyện cơm áo khi tóc đã bạc. - Sao được như thuở còn trai trẻ hát ngông nghênh? (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
NGỒI BAN ĐÊM
Bốn tường dế náo giấc đêm,
Khúc quanh giường thấp ngồi bên hiên nhà.
Gió yên, mặt đất sương sa,
Sao trời khắp chốn trăng tà mờ buông.
Say rồi, kim cổ sầu buồn,
Trước thu quê cũ, vược thuần nhớ sao!
Áo cơm lo mãi bạc đầu,
Được như thời trẻ nghêu ngao hát cuồng.
Chú thích:
- cung 蛩: dế, dế mèn, thầm lo, sâu lúa...
- ải sàng矮床: loại giường thấp lùn và xấu của người nghèo.
- khúc 曲: khúc quanh, chỗ hẹp lại...
- lan 欗: tức lan can quanh hiên nhà.
- vi phong 微風: gió rất nhẹ.
- thuần ,lô 蓴鱸: thuần là loại rau dân quê nước ta vẫn gọi là rau nhút hay rau rút dùng nấu canh ăn đơn giản nhưng ngon miệng. Còn lô hay còn gọi là cá vược, cá lư thường có ở các dòng sông nhỏ ở chốn thôn quê.
- hương tứ 鄉思: nỗi nhớ quê hương.
- sở kế 所計: việc tính toán, kế hoạch của mình.
- cuồng ca 狂歌: hát cuồng, hát nghêu ngao.
Bài 23
TẠP NGÂM 雜吟
Bạch vân sơ khởi Lệ Giang thành, 白雲初起麗江城,
Thử khí tài thu, thiên khí thanh. 暑氣纔收天氣清.
Thành ngoại sơn sơn giai mộ sắc, 城外山山皆暮色,
Giang đầu thụ thụ các thu thanh. 江頭樹樹各秋聲.
Tha hương bạch phát lão bất tử, 他鄉白髮老不死,
Tạc tuế hoàng hoa kim cánh sinh. 昨歲黄花今更生.
Vị ngã Hồng Sơn tạ tùng thạch, 為我鴻山謝松石,
Tái vô diện mục kiến đồng minh. 再無面目見同盟.
Dịch nghĩa:
Mây trắng bắt đầu giăng trên thành Lệ Giang, - Hơi nóng vừa giảm bớt, khí trời đã mát trong. - Các ngọn núi phía ngoài đều đã nhuốm sắc chiều , - Những hàng cây cối ở đầu sông đều có tiếng thu rì rào.(c.1-4) - Nơi quê người, mái tóc đã bạc, tuổi già đã đến mà vẫn chưa chết. - Hoa cúc vàng năm ngoái nay lại ra hoa rồi. - Hãy vì ta mà tạ lỗi với cây tùng, hòn đá trên núi Hồng, - Không còn mặt nào để gặp các người đã thề bồi cùng ta. (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
TẠP NGÂM
Lệ-Giang mây trắng giăng thành,
Nóng vừa giảm bớt, khí lành mát thay!
Núi chiều thành ngoại sắc bày,
Đầu sông thu đến hàng cây xạc xào.
Quê người không chết bạc đầu,
Cúc vàng năm ngoái nay màu lại tươi!
Non Hồng tùng đá tạ người,
Mặt nào còn gặp thề bồi cùng nhau!
Chú thích:
- Lệ Giang thành 麗江城: chỉ bức tường thành cũ bên sông Nhật Lệ của Lũy Thầy do Đào Duy Từ xây dọc bờ sông chạy lên núi Đâu Mâu, còn gọi là Lũy Trường Dục.
- tài 纔: vừa mới rồi.
- thu 收: xem chú thích bài 21/NTTN.
- tạc tuế 昨歲: năm ngoái, năm vừa qua.
- tái vô diện mục 再無面目: không còn mặt nào để gặp lại.
- đồng minh 同盟: cùng giao kết, ước hẹn cùng nhau, sự thề bồi hay giao ước của bạn bè, người cùng chí hướng hay quốc gia cùng chung nhau một sách lược ...
Bài 24
ĐIỆU KHUYỂN 悼犬
Tuấn mã bất lão tử, 駿馬不老死,
Liệt nữ vô thiện chung. 烈女無善終.
Phàm sinh phụ kì khí, 凡生負奇氣,
Thiên địa phi sở dung. 天地非所容.
Niệm nhĩ thuộc sở súc, 念爾屬所畜,
Dữ nhân mao cốt đồng. 與人毛骨同.
Tham tiến bất tri chỉ, 貪進不知止,
Vẫn thân hàn sơn trung. 隕身寒山中.
Vẫn thân vật thán uyển, 隕身勿嘆惋,
Sổ thí vô toàn công. 數試無全功.
Dịch nghĩa:
Con ngựa cao khỏe và giỏi giang không chết già, - Những người đàn bà nghĩa dũng không chết an lành, êm ả. - Phàm những ai sinh ra cậy vào khí phách khác thường, - trời đất sẽ không bao dung, chịu đựng được. (c.1-4) - Nghĩ mày thuộc loài vật nuôi trong đất nhà, - xương và lông cùng loại với con người. - Mày ham thích tiến tới mà không dừng lại, - Cho nên phải bỏ thân trong núi lạnh. (c.5-8) - Thân bỏ đi không nên than van, đau đớn tức tối. - Bao lần liều thí mạng mà chẳng được việc gì đâu!? (c.9-10) .
Tạm chuyển lục bát:
TIẾC THƯƠNG CON CHÓ
Ngựa hay sẽ chẳng chết già,
Chết không êm ả đàn bà nghĩa trung.
Sinh ra khí phách khác thường,
Đất trời đã chẳng bao dung được rồi.
Nghĩ mày thuộc loại thú nuôi,
Giống nhau cùng với con người xương lông.
Cứ ham tiến tới chẳng dừng,
Trong vùng lạnh giá bỏ thân núi ngàn.
Bỏ thân đau đớn chớ than,
Liều mình chẳng được việc vàng nào đâu!
Chú thích:
- tuấn 駿: giỏi giang, tốt, cao to mạnh mẽ, mau lẹ. Tuấn mã thường được xem là ngựa hay, ngựa giỏi, chạy nhanh bền sức và hiểu ý của chủ nhân...
- liệt nữ 烈女: người phụ nữ trung nghĩa, ý chí mạnh mẽ, dám hy sinh vì nghĩa lớn.
- thiện chung 善終: cái chết an lành êm thắm.
- phụ 負: cậy vào, dựa vào, ngượng ngùng, gánh vác,
làm trái.
- kỳ khí 奇氣: khí phách, tính khí khác thường.
- dung 容: rộng rãi, chịu đựng, bao dung, có thể...
- chỉ 止: dừng lại, ở một nơi, thôi, nghỉ...
- vẫn 隕: rơi xuống, đổ xuống, hư hỏng, chết.
- uyển 惋: đau đớn, tức tối.
- sổ 數: tính, đếm, kể.
- thí 試: thử dùng, thí nghiệm, dò thử....
(Lần đến: NAM TRUNG TẠP NGÂM bài 25, 26, 27 và 28)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét