THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU - TẬP 3 - BẮC HÀNH TẠP LỤC BÀI 4, 5 VÀ 6
Thầy Dương Anh Sơn
THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU : TẬP 3 - BẮC HÀNH TẠP LỤC
Bài 4
QUỶ MÔN QUAN 鬼門關
Liên phong cao tháp nhập thanh vân, 連峰高插入青雲,
Nam bắc quan đầu tựu thử phân. 南北關頭就此分.
Như thử hữu danh sinh tử địa, 如此有名生死地,
Khả liên vô số khứ lai nhân. 可憐無數去來人.
Tắc đồ tùng mãng tàng xà hổ, 塞途叢莽藏蛇虎,
Bố dã yên lam tụ quỉ thần. 布野煙嵐聚鬼神.
Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt, 終古寒風吹白骨,
Kỳ công hà thủ Hán tướng quân?! 奇功何取漢將軍.
Dịch nghĩa:
Các ngọn núi cao vút nối nhau (như) ghép vào mây xanh, - Nước nam và phương bắc chia ranh giới cuối cùng tại nơi đây. - Chỗ này là một vùng đất chết nổi tiếng nguy hiểm , - Khá thương cho biết bao người phải qua lại (nơi đây)! (c.1-4)
Con đường bị lấp kín che khuất bên trong lắm hổ nhiều rắn, - Khí độc chướng bày khắp cánh đồng tụ họp đầy quỉ thần. - Từ thuở xưa gió độc đã thổi qua những đám xương trắng phau, - Tướng quân nhà Hán thật kỳ lạ sao lại dám nhận công trạng về mình!? (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
CỬA ẢI “QUỶ MÔN”
Dãy non cao ghép mây xanh,
Ải chia nam bắc cuối ranh nơi này!
Tiếng tăm sống chết chốn đây!
Khá thương bao kẻ vẫn rày lại qua.
Đường che khuất lấp hổ xà,
Cánh đồng khí chướng quỷ ma họp đầy.
Gió xưa xương trắng lạnh thay!
Lạ sao tướng Hán day phần nhận công!?
Chú thích:
- Quỷ Môn quan 鬼門關: (xem “Quỉ Môn đạo trung trong” T.H.T.H.T bài 72). Đây là con đường độc đạo rất hẹp, phía sau xã Chi Lăng, vách đá trên cao có hang tối hình mặt quỷ. Từ bao đời xâm lăng nước ta, quân lính Trung Hoa như quân Nguyên của Thành Cát Tư Hãn đã bỏ thây rất nhiều nơi cửa ải này quân Nam Hán, quân nhà Tống, quân Nguyên Mông của Thành Cát Tư Hãn, quân nhà Minh, quân Mãn Thanh... Năm 1020, vua Lý Thái Tổ cho mở con lộ lớn gọi là “Đại lộ thông quốc” để việc giao dịch hay đi sứ phương bắc cho thuận tiện chạy ngang qua Ải Chi Lăng 支棱關 có núi Hàm Quỷ thường được gọi là Quỷ Môn Quan.
- tháp 插: có sách ghi là “sáp” có nghĩa là đâm thẳng vào, ghép vào, gắn
vào...
- quan đầu 關頭: đầu cửa ải phân chia hai nước.
- tựu 就: cuối cùng, chấm dứt, xong, gần sát, tức thì...
- thử phân 此分: phân chia, phân cách tại nơi này.
- như thử 如此: vì thế ,do vậy, bởi thế...
- vô số 無數: rất nhiều đếm không hết, nhiều lắm. Nguyễn Du muốn nói biết bao đoàn quân đông đảo của phương bắc đi xâm lấn nước ta đã từng bỏ thây và phải khiếp sợ khi đi qua cửa ải này.
- tắc 塞: lấp kín, che lấp. Một âm là “tái” chỉ biên giới, lễ vật đem đáp trả...
- tùng 叢: rậm rạp, dầy kín.
- bố 布: bày bố, khắp nơi.
- tụ 聚: tụ họp đông đảo, làng xóm tụ lại cùng nhau...
- kỳ công 奇功: công lao kỳ lạ, vừa có nghĩa là công lao vượt trội hơn trước.
- thủ 取: chiếm lấy, cầm lấy, nhận lấy cho riêng mình. Tướng Hán đây chỉ Mã Viện 馬援 rất tàn bạo đã đem quân đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng để quân lính của y chết nhiều mà vẫn được phong Phục Ba Tướng quân 伏波將軍 hay Mã Phục Ba 馬伏波, chưa kể đến sự tàn sát quân lính người Việt nổi dậy theo Hai Bà Trưng! Với lịch sử Trung Hoa, y được xem là người có công lớn giúp Hán Quang Vũ đế thống nhất Trung Hoa sau nạn Vương Mãng. Nhưng đối với dân tộc Việt chúng ta, y là kẻ bị ngàn đời nguyền rủa! (thủ: tương đương câu tục ngữ của nước ta: “ dây máu ăn phần”nghĩa là tham dự vào việc người khác phải nỗ lực, chảy máu ra để được hưởng lợi từ công lao không phải của riêng mình)
Bài 5
LẠNG THÀNH ĐẠO TRUNG 諒城道中
Quần phong dũng lãng thạch minh đào, 群峰湧浪石鳴濤,
Giao hữu u cung, quyên hữu sào. 蛟有幽宮鵑有巢.
Tuyền thuỷ hợp lưu giang thuỷ khoát, 泉水合流江水闊,
Tử sơn bất cập mẫu sơn cao. 子山不及母山高.
Ðoàn thành vân thạch tịch tương hậu, 團城雲石夕相候,
Hồng lĩnh thân bằng nhật tiệm dao. 鴻嶺親朋日漸遙.
Quái đắc nhu tình khinh cát đoạn, 怪得柔情輕割斷,
Khuông trung huề hữu bút như đao. 筐中攜有筆如刀.
Dịch nghĩa:
Dãy núi non tụ tập (dáng hình) như những cơn sóng mạnh mẽ, (tiếng gió đi qua) những tảng đá như đang vỗ mạnh gào lên. - Những con thuồng luồng ở trong các hang tăm tối, các loài chim quyên cũng có tổ, - Những con suối tụ nước hợp thành những dòng sông to rộng. - Ngọn núi con không cao bằng ngọn núi mẹ. (c.1-4)
Lúc chiều tối, những đám mây và đá tảng ở Đoàn Thành như đang cùng nhau trông chờ. - Thân thích và bạn bè nơi vùng núi Hồng ngày càng thêm xa cách. - Lạ sao, những tình cảm dịu êm nhẹ nhàng dễ cắt đứt, - Trong tráp có mang theo ngọn bút lông thay cho dao cắt
rồi. (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
GIỮA ĐƯỜNG LÊN THÀNH LẠNG SƠN
Dãy non sóng vỗ đá gào,
Chim quyên có tổ hang giao tối mờ.
Suối tuôn nước hợp sông to,
Núi con, núi mẹ cao so không cùng.
Đoàn Thành mây đá chiều trông,
Bạn bè xa cách núi Hồng ngày thêm.
Lạ chưa dễ cắt tình êm!
Bút đem trong tráp xem như dao rồi.
Chú thích:
Đây là bài thứ hai Nguyễn Du viết về cùng đề tài. Bài thứ nhất là bài 71: “ Lạng Sơn Đạo Trung”, nằm ở Thanh Hiên Tiền Hậu Tập làm ra khi đi đón sứ nhà Thanh tại thành Lạng Sơn hay còn gọi là Đoàn Thành. Bài thứ hai: “ Lạng Thành đạo trung” là bài này.
- dũng lãng 湧浪: con sóng mạnh mẽ...
- thạch minh đào 石鳴濤: tiếng kêu gào lớn khi con sóng lớn xô mạnh vào các tảng đá.
- giao 蛟: tức con thuồng luồng,có khi gọi là giao long 蛟龍 của truyền thuyết là một loài rồng nước không có sừng, cũng có khi chỉ loài cá mập lớn.
- quyên 鵑: con chim quyên, hoa đỗ quyên...
- hậu 候: chờ trông, mong đợi, ngóng tìm, rình mò, dò xét, xem xét, thời gian, khí hậu, hầu hạ...
- tiệm dao 漸遙: dần dần, từ từ, càng thêm xa cách, càng thêm xa xôi...
- quái đắc 怪得: lạ thay, lạ sao, hèn chi, thảo nào, chẳng lạ gì. Cũng viết là “quái để 怪底”, ”quái đạo 怪道”
- khuông 筐: cái tráp đựng giấy bút đan bằng tre.
- huề 攜: mang theo, đem theo.
Bài 6
LƯU BIỆT CỰU KHẾ HOÀNG 留別舊契黃
Táp niên cố hữu trùng phùng nhật, 卅年故友重逄日,
Vạn lý tiền đồ nhất xúc sơ. 萬里前途一蹴初.
Ðạo lộ nhật lai tình vị cánh, 道路日來情未竟,
Vân sơn biệt hậu ý hà như. 雲山別後意何如.
Trướng nhiên phân thủ trùng quan ngoại, 悵然分手重關外,
Lão hỷ toàn thân bách chiến dư. 佬矣全身百戰餘.
Tha nhật Nam qui tương hội phỏng, 他日南歸相會訪,
Lục Ðầu giang thượng hữu tiều ngư. 六頭江上有樵漁.
Dịch nghĩa:
Ba chục năm mới có ngày gặp lại bạn cũ , - Bắt đầu bước đi thứ nhất
trên con đường vạn dặm. - Ngày đi trên đường chưa nói hết được vẹn tròn tình cảm của mình, - Những đám mây và những núi non sau khi chia tay sẽ có những ý nghĩ như thế nào đây? (c.1-4)
Lòng đượm nỗi buồn sầu khi lại chia tay ngoài chốn quan ải, - Dư ra
trên trăm trận đánh, anh vẫn toàn thân nhưng cũng đã già rồi! - Ngày nào đó khi quay về nam sẽ đến thăm nhau, - Và trên dòng sông Lục Đầu chắc sẽ có một ông tiều (hay là) một ông chài (nào đó)! (c.5-8)
Tạm chuyển lục bát:
LƯU LUYẾN CHIA TAY BẠN THÂN CŨ HỌ HOÀNG
Ba mươi năm gặp bạn xưa,
Đường xa vạn dặm lại vừa bước đi.
Ngày đường chưa trọn tình chi!
Giã từ mây núi ý gì về sau?
Chia tay ngoài ải đượm sầu,
Già hơn trăm trận thân nao vẹn toàn.
Thăm nhau ngày đó về nam,
Trên sông Lục có người làm tiều ngư!
Chú thích :
- khế 契: phù hợp, thích hợp, giao ước, bạn bè thân thiết vì hợp nhau.
- Hoàng 黃: đây có lẽ là người bạn thân của Nguyễn Du làm quan võ ở vùng biên ải Lạng Sơn được lệnh tiễn đưa đoàn sứ giả đi qua Trung Hoa ở ải Nam Quan.
- tình vị cánh 情未竟: tình cảm chưa được trọn vẹn(cánh), chưa nói hết(cánh) tình cảm với nhau., chưa nói xong(cánh) những tình cảm trong lòng...
- nhất xúc sơ 蹴初: vừa bắt đầu( sơ) rảo bước(xúc) đầu tiên
- trướng nhiên 悵然: lòng bỗng nhiên buồn bã.
- phân thủ 分手: chia tay, cắt đứt quan hệ...
- lão 佬: cách gọi triêu đùa với người thân: VD: ông lão này, cha già này... v.v... Còn chữ “lão 老” chỉ chung những người có tuổi cao...
- bách chiến dư餘: dư ra trăm trận đánh, trăm trận đánh có thừa, hơn trăm trận đánh nhau...
- tha nhật 他日: một ngày nào đó, ngày khác.
- phỏng 訪: hỏi thăm, đến thăm, vừa mới, tìm kiếm.
- Lục Đầu 六頭: đây là chỗ gặp nhau của sáu con sông như sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam, sông Đuống, Kinh Thầy và nhánh chính của sông Thái Bình (sông Lục Đầu) tại thị trấn Phả Lại, Chí Linh thành sông Thái Bình chảy qua tỉnh Hải Dương rồi ra biển Đông.
(Lần đến : BẮC HÀNH TẠP LỤC- Bài 7, 8 và 9)
Dương Anh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét