Xin hân hạnh giới thiệu đến quý Thầy Cô, quý anh chị Đồng Môn và quý Thân Hữu
Bài GẶP LỮ Ở TUY HÒA của CHS - NH Huyền Chiêu với đôi lời của tác giả:
Được tin nhà văn, nhà thơ Phạm Ngọc Lư, cũng là một thầy giáo từng dạy học và gắn bó với Tuy Hòa trước 1975, đang nằm chờ những ngày cuối cùng ở bệnh viện Đà Nẳng vì bệnh ung thư, Huyền Chiêu có viết một bài ngắn về kỷ niệm một lần gặp Phạm Ngọc Lư ở Tuy Hòa. Bài đã được đăng trên Thư Quán Bản Thảo do nhà văn Trần Hoài Thư chủ biên số 70 - tháng 6 - 2016 .
Số báo này được viết về Phạm Ngọc Lư và sẽ gửi đến anh như những tình cảm quý mến nhất.
Xin gửi đến các bạn bài viết "Gặp Lư Ở Tuy Hòa".
HC
NHHN
Trân trọng giới thiệu
Thuở trai trẻ, Lư từ Huế vào
dạy học ở Củng Sơn, xứ ấy ít ai dám đến nhận nhiệm sở.
Củng Sơn là một quận miền núi,
heo hút, nằm dựa lưng vào dãy Trường Sơn cách Tuy Hòa khoảng ba mươi cây số :
“Bốn phía rừng xanh màu nước
độc
Đông tây nam bắc núi chận
đường
Một lũng đất bằng khu chén
nhỏ
Trói chân ta vào chân Trường
Sơn (1)
Thời đó, ít ai dám xuôi con
đường độc đạo từ Củng Sơn xuống Tuy Hòa.
Chiến tranh đang hồi ác liệt và
thầy giáo Phạm Ngọc Lư đành:
“Bó đời ta trong manh chiếu
rách
Đêm nằm mộng lớn nuốt mộng
con
……………………………………..
Nằm chi đây, thân tàn đất
trích
Chờ ai đây, đói lã chết mòn
(1)
Nhưng cũng nhờ cái xứ “Canh khuya cọp gầm vang núi Lá” (1) ấy mà
chúng ta có được tuyệt tác Biên Cương
Hành của Phạm Ngọc Lư.
Trong phim Cầu Sông Kwai, ở
cuối phim, hình ảnh người bác sĩ quân y
gầy gò, đứng thẩn thờ, lặng nhìn dòng
sông loang máu hàng trăm xác lính,
những xác người mà ông đã từng tận tụy
cứu chửa trước đây khi họ bị thương cứ
làm tôi nhớ mãi.
Lư không cầm súng, nhưng nơi đất trích Củng Sơn, chứng
kiến thảm kịch máu đổ vì bom đạn cứ
tiếp diển ngày nọ qua ngày kia một cách phi lý, trái tim anh đã nghẹn ngào nhỏ
lệ:
“Đây biên cương ghê thay biên
cương!
Tử khí bốc lên dày như sương
Đá chảy mồ hôi rừng ứa máu
Rừng núi ơi, ta đến chia buồn
Buồn quá giả làm con vượn hú
Nào ngờ ta con thú bị thương”
…………………………….
Máu đã nuôi rừng xanh xanh
ngắt
Núi chập chùng như dãy mồ
chôn
Gớm, gió Lào tanh mùi đất
chết
Thổi lấp rừng già bạt núi
non” (2)
Thơ Lư thật buồn và… khổ nữa.
Lư muốn đời mình trôi đi như
dòng nước nhưng dòng sông của Lư lúc nào cũng như muốn ngừng lại ở những bến sông buồn bã nhất:
“Chảy đi chảy đi
Hỡi sông buồn lắm
Nước thôi chờ chi
Thuyền xưa đã đắm
……………………..
Chảy mau chảy mau
Đời nông tình cạn
Mà nước quá sâu
Trăm chiều khổ nạn
………………………
Đưa ai tiển ai
Phai hình mất bóng
Khổ lắm người ơi
Qua sông mất nón (3)
Sau 1975, dòng sông của Lư
lênh đênh đưa Lư vào tận Long Khánh.
Chàng quyết chí:
”Ra đi mưu cầu y thực” (5)
Chợ Long Khánh là nơi Lư thử
thời vận:
“Ngày mấy bận áo khô áo ướt
Trời trớ trêu chợt nắng chợt
mưa
…………………………………
Ma xui quỷ khiến ra ngồi chợ
Bán gió rao trăng một núi
dừa!
……………………………..
Bán mua mua bán người đen
trắng
Hơn thiệt thiệt hơn thói lọc
lừa.
Không thành công trên đường
kinh doanh… dừa, Lư chán ngán ngồi uống rượu:
“Uống say ném áo... lên nóc
quán
Hết nợ hết duyên vĩnh biệt
dừa” (4)
Lang thang mấy bận, lần này
trở về Phá Tam Giang lòng Lư nặng trĩu:
“Mười năm dong ruổi mòn đất
khách
Về cố hương chiều xế nắng tàn
Bỏ nón, tháo giày, xăn tay áo
Rửa phong trần thẹn với Tam
Giang”
………………………………..
Mưa miền Nam nắng miền Nam
Trông mây thấp thỏm, nghe gió
bàng hoàng
Mười mấy mùa trôi qua không
nhớ
Quá đỗi mưa đau
Quá nhiều nắng khổ
Lẽ nào trời bỏ ta chăng?
……………………………..
Thôi rửa hết phong trần nơi
bến vắng
Để trở về đứng khóc dưới
hương quan” (5) .
Anh Khuất Đẩu và tôi gặp Lư
lần đầu ở nhà Nguyễn Lệ Uyên .
Nhà Nguyễn Lệ Uyên ở tận Hòa
An cách ga xe lửa gần năm cây số.
Anh Nguyễn Lệ Uyển đón và chở
tôi, một ông xe ôm chở anh Khuất Đẩu.
Xe chạy băng băng qua những
cánh đồng lúa chín vàng. Xa xa núi Chóp Chài in bóng.
Xe ngừng đã thấy Phạm Ngọc Lư
đứng đón trước cổng nhà. Lư dáng thư sinh nho nhã, áo sơ mi trắng cài khuy
trịnh trọng. Trong không gian thoảng mùi hương lúa , dưới bóng cây mận già,
trong nếp nhà cổ kính, mọi người vui
mừng như đã quen nhau từ lâu .
Chị Hoa, vợ anh Nguyễn Lệ
Uyên rủ tôi đi chợ. Bửa cơm có đậu rồng hái trong vườn nhà, có rau lang luộc
mọc đầy dưới gốc mai, có cá lóc um chuối non.
Chiều xuống có thêm vài người
bạn của Nguyễn Lệ Uyên đến đến chơi bàn luận chuyện văn chương ngày tháng cũ,
uống rượu với nem Ninh Hòa và nghe Phạm Ngọc Lư ngâm thơ.
Lư vốn con nhà nho, giỏi thơ
Đường, biết làm bài Hành, bài Phú vì
vậy giọng ngâm mang vẻ hào sảng của một
“Nho sinh lỡ Vận”:
“Ta mím môi chỉ Tam Giang thề
hẹn
Không là Tương Như mà khí
khái dâng tràn”
Bước xuống thuyền nhìn trời
cao dỏng dạc:
Gõ mạn thuyền ngâm khúc Hành
Phương Nam ”
……………………………………………..
Phá Tam Giang ôi Phá Tam
Giang!
Gió hiu hiu sóng gợn mơ màng
Nước vẫn mặn mòi mây quen
thuộc
Sao lòng ta sóng ly tan” (5)
Trời khuya, rượu cạn, chàng
nho sinh bổng biến thành cuồng sĩ:
“Cô hồn một lũ nơi quan tái
Có khi đã hóa thành thú muông
Cô hồn một lũ nơi đất trích
Vỗ đá mà ca ngông hát cuồng”
………………………………
Sát khí đằng đằng rừng dựng
tóc
Ma thiêng còn ngán bọn cô
hồn” (2)
Lư có bề ngoài hiền lành, nhỏ nhẹ nhưng trò chuyện
lâu mới hiểu tính anh rất cương trực, ghét thói xu thời.
Mờ sớm, mọi người đã dậy,
cùng ngồi bên nhau dưới gốc mận trong sân vườn, ăn chén cháo nóng chị Hoa nấu,
uống với Nguyễn Lệ Uyên chén trà tạm biệt.
Xe taxi đón Lư anh Khuất Đẩu
và tôi xuống bến xe đò.
Đưa tay vẫy chào chúng tôi,
Lư bước vội về hướng bến xe Đà Nẳng.
Sáng hôm ấy Tuy Hòa cuối
tháng giêng trời thật đẹp.
Ngồi trên xe, tôi lật vài
trang trong tập thơ Đan Tâm mà Lư vừa tặng.
Gặp mấy câu thơ đọc thấy lòng
rưng rưng:
“Chong đèn thức với mưa khuya
Hồn thơ xác chữ đầm đìa mưa
xanh
Mộng con mộng lớn tan tành
Chỉ còn bút mực đan thanh
tươi màu” (6)
Ninh Hòa 4 tháng 5 2016
1- Đất Trích
2- Biên Cương Hành
3- Bên Sông
4- Ngồi Chợ
5- Trở Về Phá Tam Giang
6- Chỉ Còn Đan Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét