- Ai đó?
- Anh. Anh sang rủ em lên sân tàu ngắm mặt trời lặn.
Quanh sân tàu rất nhiều du khách chụp ảnh và ngắm
nhìn những tòa nhà nhiều tầng được xây gần đỉnh núi để dân cư dời lên đó khi
công việc xây đập nước hoàn tất. Rồi đây sẽ có nhiều thành phố bị chìm lấp
trong dòng nước sâu. Không hiểu những người dân cần cù sẽ thích ứng được với hoàn
cảnh khắc nghiệt hay không; vì càng lên cao thời tiết càng lạnh và những vùng
đất xốp để trồng trọt càng hiếm. Nghĩ đến cảnh không biết bao nhiêu gia đình
phải dời lên núi cao, để bao nhiêu ruộng vườn, mồ mả Tổ Tiên, Ông Bà và người thân
chìm sâu vào lòng nước, Bảo Trân thở dài, lòng đầy thương cảm!
Giọng của Phong cắt đứt ý tưởng của nàng:
- Ở đây đông quá! Mình lên tầng trên, nhé.
Tầng trên ít người. Phong xoay hai chiếc ghế nhựa để lưng ghế quay về hướng mặt trời rồi chàng và Bảo Trân ngồi vào. Nhìn vùng không gian rộng lớn của sườn núi đối diện chan hòa trong ánh nắng chiều, Phong hỏi:
- Màu nắng này có gợi trong hồn em chút gì không, Bảo Trân?
Bảo Trân không vội đáp, lặng ngắm những thân người gầy guộc đang hái bắp trên sườn núi và nhóm người khác đang chặt thân cây bắp, bó lại từng bó. Và gần nơi đỉnh núi, nàng thấy mấy ngôi nhà ẩn mình trong màu xanh biếc của cây rừng. Bảo Trân đáp:
- Dạ, màu
nắng này làm em nhớ những buổi chiều êm ả trên núi Pilatus ở Thụy Sĩ. Chỉ khác
một điều, trên triền núi
- Như vậy là
tâm hồn em giao động nhiều hơn trước khung cảnh này, đúng không?
- Dạ, đúng.
- Tại sao?
- Cảnh đẹp
của thiên nhiên làm thỏa mãn tính hiếu kỳ của em. Nhưng điều làm cho em xúc
động lại là sự nghèo khó và nỗi bất hạnh của con người. Còn anh, anh nghĩ gì?
- Anh hả? Anh nghĩ đến những buổi chiều có nắng vàng tỏa rộng trên sườn núi nơi đèo Rù Rì hoặc lung linh trên rừng dừa nơi bãi biển tại trung tâm thể dục Ðinh Tiên Hoàng – sau này đổi lại là trung tâm huấn luyện Biệt Ðộng Quân – ở Ðồng Đế, Nha Trang.
- Anh là bác sĩ Quân Y mà anh làm chi ở chỗ người ta huấn luyện Biệt Ðộng Quân?
- Vì là bác sĩ Quân Y cho nên – lúc còn là sinh viên – Hè phải thụ huấn quân sự ở đó.
- Những buổi chiều ở Đồng Đế anh nghĩ gì?
- Anh cảm
thấy cô đơn lắm và: “Anh nhìn xa vắng,
ngàn thương nhớ. Em đã xa rồi, em
biết không?” (1)
Biết Phong
muốn gián tiếp gợi lại Cuộc Tình Xót Xa/muộn màng giữa chàng và nàng, Bảo Trân
thoáng buồn:
- Anh đã hứa
với em rồi, anh nhớ không?
- Anh hứa gì?
- Anh hứa sẽ
xem em như em gái thôi. Anh nhớ không?
Phong cười buồn,
im lặng. Một lúc lâu, Bảo Trân chuyển đề tài:
- Từ mấy hôm
nay anh có nhận biết được điều gì khác thường trong không gian mà chúng ta đã
đi qua hay không?
- Có. Anh cảm
thấy như thiêu thiếu cái gì đó, nhưng không biết là cái gì!
-Anh thử
tưởng tượng, nếu có vài cánh chim bay chầm chậm ngang triền núi đối diện thì...
- Ðúng rồi!
Từ hôm đặt chân đến đất nước này anh chưa hề thấy bất cứ loài chim nào cả. Tại
sao?
- Em không
hiểu.
Vừa khi ấy,
Jason – hướng dẫn viên du lịch – bước lên khỏi bậc thang cuối cùng. Phong gọi
Jason, đặt câu hỏi bằng Anh ngữ; vì Phong biết tất cả hướng dẫn viên du lịch
tại Trung cộng đều được chính phủ đào tạo và Anh văn là sinh ngữ chính. Jason
đáp:
- Tôi không nhớ bác sĩ là người thứ mấy đã hỏi tôi câu này; nhưng tôi nhớ, khi tình hữu nghị giữa Nga Sô và chúng tôi còn khắng khít, Nga Sô đã cho chính phủ của chúng tôi vay một món nợ lớn. Nước chúng tôi đông dân nhưng nghèo, trả nợ không nổi. Ðến lúc tình hữu nghị giữa hai quốc gia rạn nức, Nga Sô đòi nợ gắt gao quá, chính phủ của chúng tôi ra lệnh mọi tầng lớp nhân dân phải chia xẻ những khó khăn với quốc gia bằng cách dồn tất cả nỗ lực để tăng gia sản xuất, lấy gạo và ngũ cốc trả nợ cho Nga. Nhưng trở ngại lớn của chúng tôi là: Sau khi gieo mạ và hạt giống, chim ăn hết. Thế là chính phủ ra lệnh giết tất cả chim chóc để hoa màu không bị hao hụt.
Bảo Trân ngạc nhiên:
- Làm sao có thể giết hết được tất cả chim chóc?
- Chim muông cũng có linh tính và tiếng nói riêng. Vì vậy, sau vài đợt bị lùng giết, lũ chim rũ nhau bay đi, không bao giờ trở lại!
Bảo Trân chưa kịp nói chi thêm thì từ các máy khuyếch đại âm thanh đặt quanh tàu vang lên lời nhắn của director Charles: “Thưa quý bà, quý ông! Du thuyền của chúng tôi sẽ dừng lại trong vài phút nữa. Quý vị nào đã ghi tên tham dự cuộc du ngoạn vào sông Daning, xin chuẩn bị để thuyền máy đưa quý vị đi.”
Chiếc thuyền máy có cửa kính bao quanh rời sông Dương Tử để tiến vào nhánh sông Daning đầy đá cuội. Dọc theo bờ sông Daning, nơi những vùng đất chài cũng như trên triền núi cao, Bảo Trân chỉ thấy những mảnh vườn tàn úa, như là vết tích của mùa Ðông. Những người đang làm vườn hoặc làm rẫy trên cao hay những người ngồi giặt quần áo ven sông, vội dừng tay, nhìn đoàn thuyền máy với nét mặt và ánh mắt tràn đầy ước mơ.
Càng xa giòng Dương Tử bao nhiêu màu nước càng trong trẻo và đáy sông càng lộ rõ bấy nhiêu. Ðá cuội dọc bờ sông trở nên nhẵn và láng thêm. Trên những phiến đá cuội đó, những đôi chân trần khẳng khiu của mấy em bé và của vài thanh niên, ngang người chỉ quấn một mảnh khố, cố chạy theo chiếc thuyền máy để bán những cái chuông nhỏ bằng đồng, được chạm trổ chữ Nho và hình tượng các vị Bồ Tát hoặc bán những cây gậy bằng gỗ được uốn cong một đầu và cũng được chạm trổ rất công phu.
Thấy mấy em bé trai đen đủi cùng mấy cậu thanh niên vấn khố, Bảo Trân chạnh nhớ đến vùng trời mờ sương bên quê nhà; nơi đó đàn ông Thượng cũng vận khố, phụ nữ Thượng để ngực trần, mặc váy, và đeo những vòng xoắn bằng đồng nơi cổ, nơi chân và hai trái tai được căng rộng ra. Họ thường đi từng nhóm nhỏ. Ngày còn bé, Bảo Trân thích nhìn dáng họ chập chờn trong ánh nắng chiều, bên những đồi trà xanh biếc của ông bà Ngoại. Cũng có lúc họ đem măng hoặc ngũ cốc đến nhà đổi muối. Ngoại không đổi, bảo người giúp việc lấy muối đem cho họ. Khi nào cũng vậy, nhận được chén muối họ cười hớn hở, để lộ hai hàm răng đã bị cà thấp xuống, rồi họ líu lo một thứ ngôn ngữ không thể nào Bảo Trân hiểu được.
Nụ cười của người Thượng ngày đó và nụ cười của những người vận khố nơi đây – sau khi bán được món hàng – đều đượm nét ngây ngô, mộc mạc mà người thị thành không làm sao có được.
Gió lùa mây thật thấp. Dòng sông trở nên hẹp và cạn dần. Thuyền tắt máy để vài thanh niên lực lưỡng dùng sào chống. Mạn thuyền cạ lên đá cuội, âm thanh nghe không êm ả tý nào cả. Bảo Trân thấy, từ trên mấy đỉnh núi, nhiều chú khỉ đang xôn xao, có vẻ huyên náo lắm. Giữa lúc Bảo Trân chưa hiểu dịch vụ du lịch đưa du khách vào đến cuối giòng Daning để làm gì thì nghe giọng Jason:
- Những gia đình giàu mới có tiền chôn người thân trên đó.
Từ nãy giờ chỉ để tâm ngắm cảnh lạ, Bảo Trân không để ý đến lời dẫn giải của Jason. Bây giờ nghe ba tiếng “chôn trên đó”, Bảo Trân ngạc nhiên, vội nhìn theo hướng ngón tay trỏ của Jason và thấy, gần những đỉnh núi cheo leo – nơi những khoảng núi bị lỡ, lộ ra màu đất đỏ hoặc vàng sậm – là những cửa hang nho nhỏ; trong hang là quan tài của người chết. Bảo Trân tò mò hỏi:
- Jason! Làm thế nào họ có thể đưa quan tài lên đến đó để chuyền vào hang?
- Ðưa quan tài lên đến đỉnh núi rất khó khăn. Nhưng họ trả tiền hậu hỷ thì cũng có người làm. Lên đỉnh rồi, họ sẽ thòng giây để chuyển quan tài vào hang.
- Sau đó hang có được đóng cửa hoặc lấp lại hay không?
- Không.
Nhìn quanh, thấy hầu như nơi mỗi chỗ núi lỡ đều được dùng làm nhà mồ không cửa, Bảo Trân hỏi:
- Tại sao họ không tìm đất để chôn mà lại lập những nhà mồ trong lòng núi, không cửa?
- Vì càng lên cao càng nhiều đá, không có đất.
- Thế sao họ không chôn nơi những vùng thấp?
- Ðây là vùng núi đá. Những vùng thấp đất rất hiếm, chỉ để trồng trọt.
- Tình trạng khai khẩn hiện nay đã khó khăn như vậy, khi kế hoặch xây đập nước thực hiện xong, mực nước dâng cao cả hơn trăm thước nữa thì người dân canh tác bằng cách nào để sống?
- Ðó là câu hỏi tôi không thể giải đáp được. Tôi nghĩ “Trời sinh trâu, sinh cỏ.”
Nhìn ánh hoàng hôn loan nhè
nhẹ trong vùng không gian đìu hiu nơi chốn tận cùng của một nhánh sông, Bảo Trân
thầm nghĩ, đời sống của con người nơi đầu nguồn thì tùy thuộc vào Trời; còn đời
sống của những dân tộc ở cuối nguồn tại sao lại tùy thuộc vào người láng giềng
hung bạo/hẹp hòi/ich kỷ, chỉ thích kiến tạo những đồ án vỹ đại để phô trương
chứ không nghĩ đến nỗi đau khổ của muôn người do sự thực hiện những đồ án đó
tạo nên?
Ý nghĩ này, cách nay vài
hôm, lúc viếng thăm Vạn Lý Trường Thành, cũng đã thoáng qua trong hồn Bảo Trân.
Khi cùng Phong bước nhanh lên nhiều bậc cấp của một trong những kỳ quan của thế
giới, lòng Bảo Trân chỉ nghĩ đến sự chia xa/niềm đau thương/nỗi thống khổ cùng
máu/mồ hôi/nước mắt của hằng vạn người đã quyện vào với vôi, với cát khi thực
hiện kiến trúc vĩ đại này. Mỗi khi dừng lại nơi tháp canh nghỉ mệt, trong sự
buốt lạnh của từng cơn gió lùa vào, Bảo Trân tưởng như nàng có thể nghe được
tiếng oán than của những oan hồn đã bỏ thây vì sự hình thành của kỳ quan này!
Ðang quan sát và suy nghĩ
vẩn vơ, Bảo Trân chợt cảm biết chiếc thuyền máy đã ủi bãi và một số ít du khách
đang lên bờ.
Bờ – cũng là điểm tận cùng
của dòng Daning – chỉ là một vùng đất đá bị nước xoi mòn, rơi khỏi triền núi.
Theo thời gian, đất đỏ bị nước cuốn đi; sự di động liên tục của nước đã dũa mòn
những góc cạnh của đá để ngày nay Bảo Trân thích thú nghe âm vang của những
viên đá cuội rạc rào dưới mỗi bước chân.
Hoàng hôn phủ kín cả vùng không
gian đậm đặc hơi nước. Bảo Trân thấy triền núi dọc hai bên bờ sông đã trở thành
màu xanh thẫm; trên nền xanh thẫm đó, những màn sương mỏng chờn vờn trông như những
áng mây, và ánh đèn leo lét phía xa trông như những vì sao lạc. Nơi đỉnh núi
cao, ánh trăng len lén xuyên qua những áng mây mờ. Bất chợt Bảo Trân cất tiếng
hát nho nhỏ, vừa đủ cho Phong nghe:
“Qua những mùa trăng dáng em theo thời gian.
Nhẹ lướt mơ hồ khi vàng úa trăng tàn.
Sông nước mịt mùng xóa mờ một kiếp tha phương giang hồ.
Lệ tràn lên mi tình trong giấc mơ…” (2)
Phong lắng nghe, lòng thầm
tiếc là chàng đã mất Bảo Trân suốt thời gian dài cho nên khoảng đời trai trẻ
Phong đã không có được những giây phút lãng mạn/tình tứ/đầm ấm như thế này. Bất
ngờ giọng Bảo Trân vút cao:
“...Ðêm nay ánh trăng ngà lả lơi, trải trên cây rừng nhớ thương.
Dưới ánh trăng u huyền thông mơ reo...”
Bảo Trân nhấn giọng ở chữ
“lả” và chữ “trải” rồi chữ “nhớ” rơi vào note Si bémol của tình khúc được viết cung Ré Majeur khiến người nghe cảm nhận được tất cả niềm xót xa/nỗi u
hoài!
Sau khi Bảo Trân ngưng hát, Phong đọc khẽ hai câu thơ vừa lướt qua trong hồn chàng:
- Anh nghe em hát, lòng xao xuyến. Trong cõi hồn em, anh ước mơ. (3)
Bảo Trân im lặng, cố nén sự
giao động bồi hồi từ trái tim đa cảm của nàng. Phong nhìn Bảo Trân bằng ánh mắt
chan chứa yêu thương.
Cũng với ánh mắt tràn đầy
yêu thương đó, tối đến, trong lúc say mê theo dõi chương trình nhạc cổ truyền
tại The Tang Dynasty, Phong cũng xoay nhìn Bảo Trân, khi đoàn nữ nhạc công xử
dụng nhạc cụ xưa để cùng tấu lên những hợp khúc cổ điển của nền âm nhạc Trung Hoa.
Khi Phong và Bảo Trân trở
lại du thuyền Royal, ánh trăng đã khuất, máy tàu đã im; nhưng tiếng sáo Pai
Xiao vẫn như còn vương vấn trong sự trầm mặc của muôn loài.
Trong sự trầm mặc đó, mạch
nước từ những dòng suối vẫn âm thầm tìm về đây, cùng nương nhau vượt Three
Gorges Dam đang xây để không còn bị gò bó theo những dãy núi đá – mà sẽ được
trải mình trong những cánh đồng xanh ngát dừa nước và mạ non.
Chiếc Royal đến Three Gorges
Dam khi những hạc sương mai trên cành lá trở nên long lanh dưới những tia nắng đầu
ngày. Công tác đắp đập đã thực hiện được hơn 2/3 bề ngang của dòng sông cho nên
nước chảy xiết/cuồn cuộn/xoáy sâu, tạo cảm giác bất an cho những du khách nhát
gan. Người Trung Hoa rất hãnh diện vì đập nước này sẽ là một trong những đập nước
lớn nhất thế giới. Nhưng Bảo Trân không hiểu người Trung Hoa
sẽ nghĩ gì khi những dân tộc ở cuối nguồn, từ thế hệ này đến thế hệ khác, sẽ ta
thán vì mạch sống cứ cạn dần; và nước mặn từ biển sẽ xâm lấn vùng đất trồng hoa
màu?
Qua khỏi đập nước, lưu lượng
của dòng sông trở nên dịu dàng, đằm thắm giữa những khu vực đông đúc dân cư.
Bất ngờ Bảo Trân nghe huyên náo cả vùng và rồi, cùng một lúc, hằng triệu triệu
tấn khối nước từ Three Gorges Dam tràn về. Trong âm thanh cuồn nộ của nước, Bảo
Trân nghe không biết bao nhiêu tiếng kêu gào thảm khốc. Dù hạm trưởng vận dụng
tất cả khả năng để cố đưa chiếc Royal xuôi theo con nước, tránh rơi vào vùng
nước xoáy, Bảo Trân cũng vẫn nghe được tiếng cửa kính vỡ cùng với tiếng kẻo kẹt
của thân tàu. Nước sông dâng nhanh một cách đáng sợ. Từ phòng ăn, Phong hối hả
đưa Bảo Trân về phòng và dặn:
- Em ở trong này, không đi
đâu hết. Anh ra ngoài xem có ai bị thương, cần cứu cấp chi không, tý anh trở
vào hoặc nhờ người vào thăm chừng em.
Không đợi Bảo Trân đáp,
Phong bước ra ngay. Phong vừa xoay lại đóng cánh cửa xong, tấm kính nơi khung
cửa sổ vở tan. Nước bắn vào phòng. Trong nỗi hoang mang tột cùng, Bảo Trân nghe
tiếng director Charles từ máy khuyếch
đại âm thanh: “Tất cả mọi người chú ý!
Chiếc du thuyền của chúng ta không thể tiếp tục chịu đựng cơn thịnh nộ của
thiên nhiên. Chúng tôi buộc lòng phải tấp thuyền vào một eo núi. Sau khi thuyền
tấp vào, bằng mọi phương tiện, tất cả chúng ta phải rời thuyền ngay lập tức!” Nghe
xong, Bảo Trân gập người xuống, nước mắt chan hòa với nước sông, lòng quặn thắt
nghĩ đến các con. Ngày trước, những lúc bị đời lừa đảo, vùi dập hay những lúc buồn/cô
đơn/chán nản, Bảo Trân thường nghĩ đến cái chết như là một lối thoát. Nhưng bây
giờ cận kề với cái chết, Bảo Trân lại hãi sợ, lại muốn được sống để về gặp lại
các con.
Ðang hướng tâm về Phật Bà
Quan Thế Âm với lời cầu nguyện chân thành nhất, Bảo Trân bỗng giật mình kinh sợ
vì sự xô lệch/chồng chềnh của đồ vật trong phòng. Vừa lúc ấy, Phong xuất hiện,
vội vã kéo Bảo Trân ra ngoài. Nhiều âm thanh lạ vang lên rất lớn khi thân tàu
vặn mình, cố trườn lên khóm đá. Mọi người xô đẩy nhau rời tàu.
Phong đưa Bảo Trân núp gió
bên hốc đá đen đủi. Bảo Trân hơi bớt sợ. Một lúc sau, nhìn quanh, Bảo Trân thấy
director Charles đang đi tìm để đếm
và ghi tên từng du khách. Bỗng Bảo Trân để ý và không hiểu tại sao vị thuyền
trưởng và một người đàn ông lạ lại tiến về phía nàng và Phong một cách vội vã.
Sau khi bắt tay Phong và hỏi
thăm tình trạng sức khỏe của Phong và Bảo Trân, vị thuyền trưởng nhìn Phong:
- Thưa bác sĩ, cuối đoạn
sông này có một trường tiểu học. Cơn nước lũ vừa rồi khiến nhiều em học sinh bị
nước cuốn đi và nhiều em bị thương. Ðây là ông hiệu trưởng ngôi trường đó. Ông
đến đây kêu cứu, vì ông nghĩ rằng trên du thuyền của chúng ta có thuốc và dụng
cụ y tế. Jason cho biết ông là bác sĩ cho nên chúng tôi mừng quá, vội đến nhờ.
Mong bác sĩ giúp cho.
Phong nhận lời ngay. Bảo Trân
tình nguyện theo giúp nhưng Phong trấn an:
- Anh đi vì bổn phận của
người thầy thuốc. Anh không muốn em tháp tùng vì anh không biết tình trạng nơi
anh sắp đến như thế nào. Em ở đây cơ quan du lịch sẽ tận dụng mọi phương tiện
để đưa du khách về nơi an toàn. Còn anh, một mình anh, anh dễ xoay trở. Em hiểu
ý anh chứ?
Bảo Trân ủ rũ nhìn chiếc
thuyền nan đưa Phong xuôi theo giòng nước cho đến khi chiếc thuyền chỉ còn là
một chấm nhỏ tý ty trong vùng nước mênh mông.
Vẫn trong trạng thái bất an,
Bảo Trân thầm mong chấm nhỏ tý ty ấy xuất hiện để rồi lớn dần, lớn dần trong
tầm mắt nàng. Nhưng hai buổi chiều rồi, chiếc thuyền nan vẫn chưa trở lại!
Hôm nay cơ quan du lịch mới
tìm được phương vị của chiếc Royal và đoàn du khách. Ðây là chuyến trực thăng
cuối cùng di chuyển du khách khỏi vùng này. Director
Charles cố thuyết phục Bảo Trân một lần nữa:
- Chúng tôi hứa sáng mai
công việc tìm kiếm bác sĩ sẽ được tiếp tục. Vậy xin bà yên tâm, theo chúng tôi
đi về.
- Cảm ơn ông. Nhưng tôi xin
được ở lại đây đợi Phong trở lại hay là cho đến lúc các ông tìm được Phong.
- Tôi rất tiếc là sự việc đã
xảy ra ngoài ý muốn như thế này. Nhưng bà ở lại đây cũng không thể thay đổi
được sự việc; thế thì tại sao bà phải tự hành hạ bà? Thôi, bà đi về với chúng
tôi. Sáng mai trực thăng lại sẽ tiếp tục tìm kiếm bác sĩ, như hai ngày qua
chúng tôi đã thực hiện.
- Tôi muốn được yên tịnh một
mình. Các ông về đi.
Chiếc trực thăng nâng thân
hình lên rồi lượn vòng gộp đá như có ý chào giã biệt Bảo Trân. Chiếc trực thăng
vút lên cao trong khi Bảo Trân từ từ gục xuống vì gió, và vì đau khổ!
Còn lại một mình, Bảo Trân
đâm ra hối tiếc vì chút đạo lý mà nàng đã không dám sống theo đà lòng của mình;
nàng đã đạo đức giả, đã cao thượng không đúng lúc, đã hy sinh không phải cách cho
nên không dám đáp ứng mối tình nồng thắm của Phong...
Trong khi Bảo Trân bị niềm
ân hận và nỗi đau xót dày vò để tự trách mình thì, tự dưng, theo từng cơn gió lạnh,
tiếng hát nức nở của Richard Marx vang lên: “Oceans apart day after day, and I slowly go insane. I hear your voice on the line. But it
doesn’t stop the pain. If I see you next to never, how can we say forever.
Wherever you go, whatever you do, l’ll be right here waiting for you. What ever
it takes, or how my heart breaks, I’ll be right here waiting for you ...” Bảo
Trân nhìn quanh như tìm kiếm; vì nàng nghĩ đó là tiếng hát của Phong.
Không thấy ai cả, nước mắt
của Bảo Trân tuôn tràn! Bất chợt Bảo Trân cảm biết như có người đang nhìn lén
nàng từ phiến đá bên trái. Bảo Trân xoay nhìn về hướng ấy và nhận ra đó là
thanh niên ngoại quốc ngồi cạnh nàng trên chuyến bay của Hàng Không Việt Nam từ
Dalat về Nha Trang!
Bảo Trân bẻn lẻn mỉm cười,
đưa ngón tay quẹt những giọt nước mắt còn ấm. Thanh niên cũng mỉm cười thân
thiện rồi trao nàng vài tờ kleenex. Bảo
Trân nhỏ nhẹ cảm ơn.
Bảo Trân dùng kleenex chậm nước mắt rồi lại nghiêng
một bên má sát vào khung kính cửa sổ phi cơ. Xuyên qua từng áng mây bàn bạc,
Bảo Trân thấy những lượn sóng trắng xóa di động chầm chậm trên vùng biển lặng. Bảo
Trân thở dài, chợt nghĩ đến hai câu thơ mà – trong giấc mơ của nàng – Phong đã
đọc trên du thuyền Royal; có điều Bảo Trân đổi chủ từ cho hợp với tâm trạng của
nàng:
Em nhìn xa vắng, ngàn thương nhớ.
Anh đã xa rồi, anh biết không? (4)
ĐIỆP MỸ LINH
http://www.diepmylinh.com/
(2) Trăng Lạnh của cụ Ðiệp Linh Nguyễn Văn Ngữ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét