Trong khi nhích dần
theo toán quân nhân nơi cửa hông của chiếc phi cơ C-130, Sinh nhìn bâng quơ.
Thấy những áng mây chờn vờn trên đồi núi chập chùng, Sinh mơ tưởng đến khuôn
mặt xinh đẹp của Quyên-Di. Sinh nhớ lại những ngày chàng chờ Quyên-Di trước
cổng đại học Huế. Chờ nhau chỉ để được đi xa xa phía sau, ngắm vành nón em
nghiêng nghiêng, nhìn mái tóc em mềm mại trên nền áo trắng ngần. Sinh cũng
không quên được những lần hẹn nhau đi xi-nê, chỉ để được ngồi cách nhau 5/6 cái
ghế rồi thỉnh thoảng “hai đứa” liết nhau, cười. Chỉ có rứa thôi mà hạnh phúc vô
biên. Chỉ có rứa thôi mà tình yêu gắn bó. Chỉ có rứa thôi mà anh nhớ em điên
cuồng!
Sau khi bước vào phi
cơ, Sinh chợt chú ý đến hai quan tài được phủ cờ Việt-Nam Cộng Hòa, đặt gần
cuối thân phi cơ. Nhìn hai quan tài tự dưng những nôn nao, háo hức trong lòng
Sinh tan đi; thay vào đó là những nghĩ ngợi vu vơ về kiếp người và về cuộc
chiến tương tàn. Sinh sửa thế ngồi nhiều lần mà cũng vẫn không xua đuổi được sự
ám ảnh về một ngày cuối cùng của đời lính!
Rời phi trường, Sinh
đón chiếc xe nhà binh, hỏi chú tài xế xe đi về đâu. Chú tài đáp xe về Nam-Giao.
Sinh xin đi nhờ. Từ Nam-Giao, Sinh đón xích-lô, đến thẳng trường đại học.
Đến nơi, nhìn ngôi
trường cũ, Sinh cảm thấy lòng lâng lâng trong nỗi buồn nhè nhẹ. Sinh đi tìm
Tôn-Nữ Quyên-Di – sinh viên ngành báo chí – giữa những ánh mắt tò mò. Bỗng dưng
Sinh nghe tiếng gọi tên chàng. Quay lại, Sinh thấy Thành đang chạy tới. Hai
người mừng rỡ bắt tay nhau. Thành niềm nở:
- Người về từ Pleime!
Về khi mô?
- Mới chừ đây. Chưa về
nhà.
- Quyên-Di biết mi về
không?
- Không, dành bất ngờ
mà!
Là anh của Quyên-Di,
nhưng vì Thành học cùng với Sinh từ nhỏ cho nên Thành và Sinh không thể đổi
được cách xưng hô. Thành hất hàm:
- Rứa à? Mi đến đây
bằng chi?
- Xích lô.
- Tau đưa mi về, hỉ?
- Ừ, tốt quá. Quyên-Di
không có lớp hôm ni răng, mi?
- Không. Mi ra cổng
đợi tau. Tau đi lấy cái “ếch bà”.
Gia đình Quyên-Di biết
rõ mối tình thắm thiết giữa Sinh và Quyên-Di. Nhưng từ ngày Sinh giã từ đại học
theo lệnh tổng động viên, bà Lộc – Mạ của Quyên-Di – đổi ý. Bà Lộc thấy rõ,
không những đường học vấn của Sinh bị gián đoạn mà tương lai của Sinh cũng
nhiều bất trắc, lắm hiểm nguy. Bà Lộc buộc nàng nhận lời cầu hôn của Tùng –
sinh viên y-khoa. Quyên-Di phản đối bằng mọi cách, nhưng cũng vẫn không lay
chuyển được quyết định của Mạ. Cảm động trước mối tình của bạn và em, Thành
giúp Sinh.
Dừng Vespa trước nhà
Sinh, Thành quay lui, hỏi:
- Chương trình của mi
ra răng?
- Tau tính đến thăm Bác
và Quyên-Di.
- Mi đến thăm Mạ tau
thì được. Nhưng chắc chắn một điều là mi không thể đưa Quyên-Di đi mô cả.
- Mi cũng biết lý do
tau về phép rồi, phải không, Thành?
- Mi vô thăm gia đình
mi đi, rồi thay đồ dân sự, chờ tau. Tau về chở Quyên-Di qua, cho mi mượn Vespa
luôn. Chiều 5, 6 giờ mi đưa Quyên-Di về đây, tau chở cô nàng về. Mi nhớ đừng
đưa Quyên-Di đến chỗ đông người, họ đồn đải, em tau mang tiếng, tội nghiệp,
nghe mi!
Sinh siết tay Thành
thật lâu.
Nhờ sự giúp đỡ của
Thành, Sinh đưa Quyên-Di đi thăm lại những nơi “hai đứa” thường hẹn hò; thăm
lại lăng tẩm xưa; đi ăn những món ngon mà chỉ Huế mới có. Sinh hỏi Quyên-Di về
việc học và về sự ngăn cấm của bà Lộc. Quyên-Di đáp, giọng buồn buồn:
- Là con trai Huế anh
còn lạ chi. Anh đừng nên trách Mạ em. Đó là tâm trạng chung của Cha Mẹ. Anh chỉ
cần biết em yêu anh, rứa là đủ.
- Anh muốn vấn đề trở
nên chính thức. Anh không thích lén lút.
- Nhưng em không làm
chi được. Không ai có thể giúp em trong lúc ni. Anh gắng chờ em một thời gian.
Lúc đó có thể Tùng sẽ không còn kiên nhẫn nữa và có thể lúc đó anh được thăng
Trung-Úy.
- Anh lên Trung-Úy để
làm chi? Em yêu anh hay là em yêu cái lon Trung-Úy?
- Anh đừng hiểu lầm.
Dù anh là chi em cũng vẫn yêu anh. Nhưng với gia đình em thì khác. Mọi người
cần một bề ngoài hào nhoáng. Xã hội ni là rứa đó. Anh đã thấy biết bao cô gái
Huế yêu một người mà phải làm vợ một người khác hay không?
Ngưng một chốc,
Quyên-Di tiếp bằng giọng đầy nước mắt:
- Anh hãy nhìn vào
thực tế. Các anh là anh hùng chốn biên ải, địa đầu. Người ta ca ngợi các anh
trong văn, thơ và âm nhạc. Nhưng trên đường tình có bao nhiêu cô gái Huế được
phép từ chối những mối tình vương giả để làm vợ mấy ông nhà binh? Lý do vì họ
không muốn lo âu, không muốn hồi hộp theo từng chuyến hành quân, để rồi không
biết họ sẽ trở thành quả phụ giây phút nào!
- Nếu em nghĩ như rứa,
tại răng em còn yêu anh?
- Em không thể cản
lòng em được. Như Henry Louis Mencken đã nói: “Love is like war; easy to
begin but very hard to stop.” Chúng ta là những kẻ thọ nạn của
quan niệm cổ xưa và của cuộc chiến tàn tệ hôm nay. Anh phải hiểu và gắng giúp
em; nếu không, chúng ta sẽ mất nhau.
Những lời của Quyên-Di
đánh thức thực trạng trong tâm hồn Sinh. Sinh thở dài và nỗi ám ảnh về hai quan
tài trong lòng phi cơ lại trở về. Để khỏi phải tranh luận, Quyên-Di tiếp:
- Anh à! Mấy tháng ni
em viết cho tờ Tiền-Tuyến với tính cách tập sự. Họ thích bài của em lắm.
- Anh không ngạc
nhiên, vì anh biết em có năng khiếu.
- Sau những lá thư anh
viết từ Pleime, anh kể về những trận đánh đẩm máu, về những vô lý và vô nhân
của chiến tranh, em muốn trở thành một phóng viên chiến trường. Muốn viết thật
rõ, thật chính xác, thật đầy đủ về cuộc chiến hôm nay thì chỉ có một cách đó
thôi, phải không, anh?
- Em có người yêu là
nhà binh mà còn bị Mạ em ly gián; không cách chi Mạ em có thể để em “lăn” vào
trò chơi của thần chết được!
- Where there’s a will, there’s a way.
- Những người có tâm
hồn như em đáng ra trời không bắt phải sinh ra tại Huế.
- Em chỉ ước mơ một
ngày nào đó em theo đoàn quân, viết lại những trận đánh oai hùng trên đồi núi
cao nguyên. Trong những trận đánh đó dĩ nhiên là có anh, người yêu của em.
- Người ta bảo các cô
gái Huế lãng mạn; nhưng cái lãng mạn của em cao cả vô cùng!
… Kể đến đây, Thành
ngưng, vì thấy bà Lộc lặng lẽ chậm nước mắt bằng ống tay áo cà-sa.
Trong khi bà Lộc âm
thầm hối hận và khóc thương Quyên-Di thì Quang thở dài, lòng đầy thương cảm.
Nghe một phần câu chuyện do Thành kể rồi nhìn dòng sông Hương mờ dần trong bóng
hoàng hôn Quang chợt nhớ lại những buổi chiều xưa, khi đoàn giang đỉnh neo giữa
sông Cái Lớn…
… Nơi tầng trên của
chiếc Command, Quyên-Di ngồi trên thùng đạn rỗng, hơi xa các sĩ quan của
Giang-Đoàn. Nhìn mặt sông phẳng lặng và ánh nắng chiều tỏa rộng trên rừng dừa
nước mênh mông, Quyên-Di cảm thấy buồn và nhớ những buổi chiều xưa, theo Mạ đi
lễ chùa.
Những buổi chiều xưa,
trong khi bà Lộc niệm kinh, đảnh lễ, Quyên-Di lén ra ngoài, chạy lên chạy xuống
mấy bậc cấp trước chùa Thiên-Mụ. Đến khi mệt, mỏi chân, Quyên-Di ngồi nơi bậc
cấp trên cùng, nghỉ chân. Nhìn những con đò nhỏ âm thầm di động trên sông
Hương, lưu lại phía sau những gợn nước lăn tăn, Quyên-Di chưa cảm nhận được vẻ
đẹp yêu kiều của quê Mẹ. Nhưng khi nghe tiếng hò văng vẳng từ dòng sông quyện
với tiếng chuông đồng vọng trên đồi cao, Quyên-Di mới cảm thấy buồn – một nỗi
buồn không duyên cớ, nhưng chao ơi! Buồn chi buồn lạ buồn lùng!
Chừ đây, nhìn dòng
sông Cái Lớn và rừng dừa nước từ từ chìm vào hoàng hôn, Quyên-Di cũng cảm thấy
buồn chi buồn lạ buồn lùng! Đối với Quyên-Di, Huế như người tình đầu tiên, mình
có thể xa nhưng không thể quên!
Đang lúc Quyên-Di nghĩ
về Huế với tất cả niềm thương nhớ dạt dào thì lời ca của một tình khúc – mà
ngày trước Quyên-Di thường hát trong những buổi văn nghệ do trường tổ chức –
chợt đến. Quyên-Di hát nho nhỏ:
“Ai
về bến Ngự cho ta nhắn cùng.
Bến
xưa, non nước Hương Bình
Có những ngày xanh…” (Đêm Tàn Bến Ngự của Dương-Thiệu-Tước).
Quyên-Di vừa “ngân nga” đến đây chợt
giật mình kinh hãi vì nhiều tiếng Ầm… Ầm… Ầm… rền vang và từng khối nước khổng lồ
tung lên rồi đổ chụp lên đoàn giang đỉnh.
Ngay tức khắc,
Thiếu-Tá Quang – chỉ huy trưởng Giang Đoàn và cũng là bạn của Thành và Sinh
trong Hội Túc Cầu của trường Quốc Học – ra lệnh đoàn
giang đỉnh phân tán mỏng.
Sau khi xác định được
vị trí pháo kích của Việt-cộng, đoàn giang đỉnh phản pháo. Tiếng súng cối 81 ly
từ chiếc Command nổ đều nhưng cũng vẫn không át được tiếng trọng pháo của địch.
Quyên-Di nghe âm thanh phát ra từ máy truyền tin, nhưng vì họ dùng toàn ám từ
truyền tin, Quyên-Di không hiểu được. Cuối cùng nàng nghe Thiếu-Tá Quang
đáp:
- Nhận năm, thẩm
quyền.
Thiếu-Tá Quang khom
xuống, bấm đèn pin – chiến đỉnh không mở đèn, ngại lộ mục tiêu – nhìn vào bản
đồ hành quân, tìm vị trí đồn Nghĩa-Quân mà Giang Đoàn được lệnh đến giải cứu.
Khi đoàn chiến đỉnh
vừa rẻ vào con sông nhỏ, Quyên-Di nghe nhiều tiếng súng lớn nổ phía trước. Cặp
fom dẫn đầu bắn trả dữ dội. Quyên-Di nghe Thiếu-Tá Quang ra lệnh đoàn chiến
đỉnh giang hành sát bờ để tránh thủy lôi. Vừa khi đó, chiếc Command trúng B40.
Chiếc Command rung rinh, Quyên-Di hoảng hồn nhưng mọi người và các xạ thủ vẫn
giữ nguyên vị trí. Ngay tức khắc, hai chiếc fom từ cuối đoàn giang đỉnh vượt
lên, vừa chạy kề bên như bảo vệ chiếc Command vừa bắn vào những điểm tình nghi.
Đến vùng có hỏa châu,
đoàn giang đỉnh ủi thẳng vào trước đồn Kiên-Tân, nơi cuộc giao tranh đang diễn
ra rất ác liệt. Nhờ ánh hỏa châu, Quyên-Di thấy nhiều thân người mặc y phục đen
bị kẹt giữa những vòng thép gai. Nhiều người cố chạy khỏi tầm đạn của Hải-Quân,
nhưng quá muộn! Nhiều người hoảng, nhào đại xuống sông, liền bị mấy khẩu đại
liên từ giang đỉnh bắn theo.
Quyên-Di nghe tiếng
súng lớn và nhiều cột nước phun lên quanh đoàn tàu. Quang chụp cái nón sắt lên
đầu Quyên-Di, xô nàng xuống và hét:
- Nằm xuống. Nó bắn
ra tàu.
Quyên-Di nằm được một
chốc lại lồm cồm ngồi lên, cố ý quan sát trận địa để viết bài tường thuật cho
tờ Tiền-Tuyến. Nhưng mỗi lần nàng vừa lồm cồm liền bị người mô đó xô xuống.
Quyên-Di nghe rõ âm thanh rợn người khi đạn của súng nhỏ trúng thành tàu.
Từ xa hai chiếc khu
trục ào đến, chúc xuống, nghiêng cánh. Bom nổ rền phía sau đồn. Đất, đá, bùn và
cát văng lên giang đỉnh nghe rào rào. Hai chiếc khu trục vòng đến lần thứ ba
thì tiếng súng phía sau đồn thưa dần, thưa dần.
Ánh mặt trời le lói
cuối chân trời.
Một chiếc LCM Giang-Cảnh
cặp vào chiếc Command. Trung-Tá Cuội, Quận-Trưởng quận Kiên-An, bước lên chiếc
Command. Vừa khi đó, một trực thăng đáp xuống bãi đáp dã chiến, đối diện với
đồn Kiên-Tân.
Trung Tá Cuội, Thiếu
Tá Quang cùng vài sĩ quan rời chiếc Command, sang chiếc fom. Chiếc fom đưa cả
nhóm sang bờ bên kia, về hướng trực thăng.
Từ trực thăng, Tư-Lệnh
Sư-Đoàn bước xuống. Tất cả sĩ quan dưới đất đưa tay chào. Mọi người lên chiếc
fom, trở lại bờ bên này.
Trong khi Tư-Lệnh
Sư-Đoàn và tất cả sĩ quan đứng trên mô đất cao quan sát trận địa, Quyên-Di thấy
mấy anh Nghĩa-Quân nhặt xác đồng đội để một bên, xác những người mặc bà ba đen
để một bên. Rất nhiều xác người mặc bà ba đen bị kẹt giữa mấy hàng thép gai
chưa được nhặt ra.
Thấy Tư-Lệnh Sư-Đoàn
và tất cả sĩ quan đi dần về chiếc fom, Quyên-Di nghĩ có thể Tư-Lệnh Sư-Đoàn sắp
rời vùng hành quân. Rút cuốn sổ nhỏ, cây bút, nàng rời chiếc Command, bước
nhanh về hướng chiếc fom.
Sau khi tự giới thiệu,
Quyên-Di hỏi:
- Thưa Thiếu-Tướng,
sau khi quan sát trận địa, xin Thiếu-Tướng cho biết nhận xét của Thiếu Tướng về
cuộc đụng độ vào khuya hôm qua?
- Thường thường những
đồn bót trong khu vực này chỉ bị pháo kích hoặc bị du kích tấn công lẻ tẻ.
Nhưng tối hôm qua địch đã mở cuộc tấn công rất quy mô. Địch quân dùng chiến
thuật “xa luân chiến”, xung phong nhiều đợt, nhưng vẫn bị quân đồn trú chống
trả mãnh liệt. Và, bây giờ, như cô thấy, quân ta làm chủ tình hình.
- Thưa Thiếu Tướng, có
phải vì địch quân dùng chiến thuật “xa luân chiến” mà quân đồn trú phải xin
Hải-Quân và Không-Quân yểm trợ hay không?
- Hải-Quân là lực
lượng yểm trợ đồn bót hữu hiệu nhất tại Vùng IV chiến thuật. Còn Không-Quân,
dạo này theo chương trình Việt-Nam-hóa chiến tranh, xin được một phi tuần cũng
khó khăn lắm!
- Thưa, Thiếu-Tướng có
nghĩ đến Pháo-Binh hay không?
- Những đơn vị đồn trú
gần dân làng tôi không muốn xử dụng Phái-Binh.
Quyên-Di cảm ơn Thiếu
Tướng rồi xoay sang Thiếu-Tá Quang, hỏi:
- Thưa Thiếu-Tá, theo
kinh nghiệm chiến trường, Thiếu-Tá nghĩ sự pháo kích của địch vào đoàn chiến
đỉnh trên sông Cái Lớn và sự tấn công của địch vào đồn Kiên-Tân có liên hệ gì
không ạ?
- Có chứ. Địch muốn “cầm
chân” Hải-Quân ở sông Cái Lớn trong khi những đơn vị khác của họ tấn công đồn
Kiên-Tân. Tôi nghĩ địch cũng biết rằng họ không thể “cầm chân” Hải-Quân được
cho nên họ vẫn phục kích Hải-Quân chỗ ngã ba rẽ vào đồn Kiên-Tân.
- Thưa, tổn thất về
phía ta và địch như thế nào ạ?
- Cô thấy đó. Chúng ta
có tổn thất, nhưng không đáng kể so với sự thương vong của địch.
- Thưa, sự tổn thất
của Hải-Quân như thế nào?
- Chiếc Command bị
lủng một chỗ. Một xạ thủ bị thương.
Quyên-Di cảm ơn mọi
người rồi trở về chiếc Command, viết một cách say sưa.
Đây không phải là lần
đầu tiên Quyên-Di say sưa viết bài tường thuật mà đây chính là lần đầu tiên
nàng viết về sự tham chiến của một đơn vị tác chiến Hải-Quân.
Kể từ khi bị bà Lộc
đưa “tối hậu thư”: Phải nhận lời cầu hôn của Tùng, nếu không, bà Lộc sẽ không
cho Quyên-Di tiếp tục đi học nữa thì Quyên-Di âm thầm rời Huế, muốn tìm cuộc
sống tự lập. Nàng vào Saigon và được chủ nhiệm báo Tiền-Tuyến thâu nhận ngay.
Ngòi bút của Quyên-Di thu hút được sự chú ý và cảm tình của rất nhiều độc giả.
Bây giờ bài tường thuật về cuộc giải cứu đồn Kiên-Tân lại cho mọi người thấy
Quyên-Di quả là ngòi bút xuất sắc với những nhận xét bén nhạy, sự quan sát tinh
tường và sự tường thuật trung thực.
Sự thành công nhanh
chóng của Quyên-Di làm cho bà Lộc, Thành và Sinh hãnh diện vô cùng. Bà Lộc hồi
tâm, liên lạc với Quyên-Di và hứa sẽ tha thứ tất cả. Điều Quyên-Di vui mừng
nhất là bà Lộc hứa sẽ gả nàng cho Sinh.
Để tạo cơ hội đích
thân đem tin mừng cho Sinh, Quyên-Di xin đặc phái lên Quân-Đoàn II để viết
phóng sự dài về những trận đánh mùa mưa.
Trong bộ quân phục rằn ri, Quyên-Di đến Pleiku vào một chiều mờ sương. Quyên-Di được tiếp đón ân cần, niềm nở và được tạm trú tại phòng vãng lai sĩ quan.
Sau khi đến phòng hành
quân để xin tháp tùng các cánh quân, Quyên-Di tìm đến sĩ quan trực, nhờ giúp liên
lạc với Sinh. Điều bất ngờ đầy thú vị là thiếu úy Sang – sĩ quan trực – là người
Huế và cũng xuất thân cùng khóa sĩ quan Thủ-Đức với Sinh.
Không ai có thể diễn
tả được nỗi vui mừng của Sinh khi chàng nghe giọng nói của Quyên-Di và được
biết nàng đang có mặt tại Quân-Đoàn. Chỉ còn khoảng 40 cây số nữa thôi, anh sẽ
gặp em. Ý nghĩ này khiến Sinh không giấu được xúc động:
- Em gắng chờ anh một
tối ni thôi. Anh sẽ xin vài ngày phép đặc ân. Mai anh sẽ gặp em sớm. Dạo ni “tụi
hắn” tấn công liên miên.
- Dạ. Em chờ.
- Em ở tạm chỗ mô?
- Các anh ở đây lo cho
em tươm tất lắm. Anh đừng lo.
- Quyên-Di ơi! Em về
đâu chứ em về Quân-Đoàn II thiếu chi đề tài cho em viết. Từng ngày, từng giờ,
chiến trường hừng hực lửa đạn cho em tường thuật để người thành phố hiểu rõ
cuộc chiến đấu tự vệ thần thánh của người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Anh
hãnh diện vì em, vì được là người yêu của em. Anh yêu em, Quyên-Di!
- Anh! Mình đang nói
chuyện bằng điện thoại nhà binh.
- Nhà binh cũng cần
tình cảm, cũng biết yêu đương chứ bộ nhà binh chỉ biết “uýnh” nhau thôi sao,
em!
- Em có một tin rất
vui, gặp anh em mới nói.
- Tin chi vui mà “làm
eo” dữ rứa? Nói anh nghe chừ đi.
- Thôi, chuyện ni “bí
mật”, chỉ một mình anh nghe được thôi.
- Em không thèm nói
cho anh nghe thì thôi, hẹn mai làm chi cho anh sốt ruột.
- Anh “dễ ghét” “dễ
sợ”! Chỉ một tối ni thôi mà làm bộ “hờn” chi rứa?
- Tối ni chắc anh ngủ
không được, vì nôn nóng gặp em đó, Quyên-Di.
Quả thật tối đó Sinh
ngủ không được! Sinh ngủ không được không phải vì nôn nóng gặp Quyên-Di mà vì
áp lực của địch gia tăng gấp bội. Càng về khuya vòng vây của địch quanh đồn
Pleime càng siết chặt!
Đồn Pleime được xây
trên sườn đồi, cạnh dòng suối nhỏ. Dòng suối nhỏ nhưng lòng suối rất sâu và
nước chảy xiết như thác lũ. Không ai biết thổ dân gọi dòng suối ni bằng tên
chi; nhưng quân nhân trong đồn Pleime thì gọi dòng suối ni là suối Pleime.
Suối Pleime là nguồn
cung cấp nước ngọt cho khoảng 100 quân trấn thủ. Chỉ với khoảng 100 quân mà –
theo tin tình báo – đồn Pleime đang bị 3 Trung-Đoàn chính quy Bắc Việt vây hãm!
Mức độ pháo của địch gia tăng đến độ không ai có thể ló đầu ra khỏi hầm được!
Quân trong đồn bị thương, chết, phải chịu đói và chịu khát nữa. Hệ thống truyền
tin hoàn toàn bất khiển dụng!
Ngồi trong hầm chống
pháo kích, Sinh bi quan, viết vội lên mảnh giấy nhỏ: “Quyên-Di ơi! Lẽ nào chỉ vượt 40 cây số đường trường mà anh không
được gặp lại em! Anh hẹn em chỉ một đêm thôi mà chừ đã ba đêm rồi! Chuyện chi
vui răng em không nói mà hẹn đến mai? Với lính – như ngạn ngữ Tây-Tạng có câu –
‘kiếp sau và ngày mai, không biết cái mô đến trước!’ Anh yêu em, Quyên Di!”
Trong khi Sinh nắn nót
hai chữ “Quyên-Di” nơi cuối dòng thì, tại Quân-Đoàn, Quyên-Di đứng ngồi không
yên.
Sau khi lệnh giải cứu
đồn Pleime được ban hành, phải khó khăn lắm Quyên-Di mới thuyết phục được vị
Tư-Lệnh Quân-Đoàn cho phép nàng tháp tùng đoàn viện binh.
Đoàn viện binh được
trực thăng vận đến Pleime. Đoàn viện binh chia thành nhiều cánh quân. Những
cánh quân này tiến rất chậm, vì địch đã đào hầm trú ẩn và giăng bẫy sập. Người
lính V.N.C.H. phải lao vào từng hố cá nhân, đánh cận chiến với địch. Quân hai
bên quần thảo nhau, quyết tranh nhau từng gốc cây, từng mô đất. Địch quân ở
dưới đất quân V.N.C.H. có thể thấy và tiêu diệt; nhưng những anh bộ đội cụ Hồ
bị chính cấp chỉ huy của họ khóa xích trên cây thì quân V.N.C.H. không thể phát
hiện được.
Chính những tràng đạn
bắn lén từ trên cây đã gây trở ngại lớn cho quân V.N.C.H. Thế nhưng người lính
V.N.C.H. đã đánh với chiến thuật thần tốc, ào ạt để biến Pleime thành một trận
chiến để đời.
Cánh quân M – có
Quyên-Di tháp tùng – là cánh quân đầu tiên chọc thủng vòng vây của Bắc quân.
Cánh quân M chậm lại gần bờ suối Pleime, liên lạc phối trí với các cánh quân
bạn.
Thấy tình hình tạm
yên, những người lính trong đồn Pleime bước đi thất thểu trong hoang tàn, đổ
nát để nhặt xác anh em, xác bạn hữu. Trong những thương binh, Thượng Sĩ
hỏa-đầu-vụ là người bị thương nặng nhất; vì Ông đã nhảy lên ụ súng máy, quạt
hằng loạt đạn vào địch quân – sau khi Ông thấy xạ thủ súng máy bị bắn gục!
Sinh xách nón sắt, men
theo triền đồi, xuống suối, với dụng ý lấy nước về đun sôi để rửa vết thương
cho thương binh; vì tất cả dụng cụ y tế trong đồn đều bị trúng đại bác của
địch.
Đang lấy nước, Sinh
thấy, xa xa, bên kia bờ suối, quân bạn đang hướng về phía dòng suối. Nửa mừng
nửa tủi khi thấy quân bạn đến “tiếp hơi”, Sinh đứng lặng, nhìn toán quân. Bất
ngờ Sinh thấy một quân nhân trông rất mảnh khảnh, khăn quàng cổ màu tím. Khăn
màu tím! Sinh giật mình, nghĩ đến chiếc khăn quàn màu tím mà chàng đã tặng
Quyên-Di.
Cánh quân M đến gần
hơn. Nhận ra Quyên-Di, Sinh vất nón sắt, vừa tìm cách băng qua dòng suối Pleime
vừa reo mừng: “Quyên-Di!” Nghe tiếng gọi,
biết người đó là Sinh, Quyên-Di bương bả chạy đến.
Ba tên bộ đội cụ Hồ bị
xích trên cây gần đó mà không ai biết. Hai tên đã chết trong lúc giao tranh.
Tên bộ đội còn sống đang âu lo về số phận của chàng ta cho nên chàng ta không
để ý khi Sinh xuống suối. Tiếng gọi “Quyên-Di” của
Sinh làm anh bộ đội này giật mình và anh ta phát hiện sự có mặt của Sinh. Tên
bộ đội lên đạn và đợi Sinh di chuyển đến gần.
Khi Sinh chỉ còn cách
Quyên-Di một mô đá nhỏ thì tiếng súng nổ. Sinh gục xuống. Máu từ vết thương bên
trái lồng ngực của Sinh loan trên phiến đá.
Trong khi tất cả nòng
súng của toán M đều bắn lên ngọn cây có tên bộ đội thì Quyên-Di thét lên, chồm
tới đỡ Sinh. Nhưng Sinh rơi vào lòng suối. Sinh dùng đôi chân và tay phải để
nhoài người, cố cưỡng lại sức đẩy của dòng suối. Một tay Quyên-Di bấu vào bờ
đá, một tay nàng vươn dài về phía Sinh. Sinh vươn tay phải, cố nắm lấy bàn tay
của Quyên-Di. Tay Sinh vừa chạm vào mấy ngón tay của Quyên-Di thì dòng nước
cuồn cuộn, tiếng suối lao xao, đẩy Sinh ra. Quyên-Di thét lên hãi hùng khi tay
Sinh vuột khỏi tay nàng!
Từ cuối dòng thác lũ,
hai tiếng “Quyên-Di” vang vọng núi
đồi!...
Sang vừa kể đến đây,
Quang bật hộp quẹt, mồi điếu thuốc. Bập bập điếu thuốc vài lần, Quang lấy điếu
thuốc gắn lên môi Thành. Thành im lặng, rít một hơi dài rồi thở khói ra nhè
nhẹ.
Qua làn khói mỏng,
Thành thấy dòng Hương giang lung linh/nhạt nhòa dưới ánh đèn đường. Tự dưng
Thành cảm thấy nhớ đoài nhớ đoạn những buổi tối Thành và Quyên-Di cùng ngồi học
dưới trụ đèn trước nhà. Nhiều lần Quyên-Di hỏi:
- Anh Thành! Tại răng Ba Mạ lại đặt tên
em là Quyên-Di mà không đặt là Thiên-Di? Em thích tên Thiên-Di.
Thành tự hỏi đó có
phải là điềm báo trước cho duyên nghiệp của Quyên-Di hay không?
Ôm niềm thắc mắc trong
lòng, Thành im lặng bước theo Quang xuống dãy bậc cấp trước chùa Thiên-Mụ. Nhìn
vòm trời đầy sao, Thành tưởng như chàng có thể nghe lại được tiếng hát nồng nàn
của Sinh năm xưa, khi bạn hữu tổ chức tiệc tiễn Sinh trở lại Pleime:
“Em
tôi ưa đứng nhìn trời xanh xanh
Mang
theo đôi mắt buồn vương khóc thương…
...
Thuyền tình lung linh trong khói sương lam.
Ngày về xa quá, người ơi!” (Em Tôi của Lê-Trạch-Lựu)
Nhớ bạn và thương em
ngập lòng, Thành thở dài, thầm nhủ: “Thiên-Di! Mai anh sẽ đến chùa
Sư Nữ thăm em!”
ĐIỆP
MỸ LINH
https://www.diepmylinh.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét