Bài 42
LIỆP
獵
Y quan đạt giả chí thanh vân,
衣冠達者志青雲
Ngô diệc lạc ngô my lộc quần.
吾亦樂吾麋鹿群
Giải thích nhàn tình an tại hoạch,
解釋閒情安在獲
Bính trừ dị loại bất phương nhân.
屏除異類不妨仁
Xạ miên thiển thảo hương do thấp,
麝眠淺草香猶濕
Khuyển độ trùng sơn phệ bất văn.
犬渡重山吠不聞
Phù thế vi hoan các hữu đạo, 浮世為歡各有道
Khu xa ủng cái thị hà nhân.
驅車擁蓋是何人
Nguyễn Du 阮 攸
ĐI SĂN
Làm quan chí đạt mây
xanh,
Còn ta vui thú quanh bầy hươu nai.
Nào ham bắt, chỉ nhàn vui,
Lòng nhân chẳng hại, trừ loài khác thôi!
Cỏ non xạ ngủ thơm vời,
Không nghe chó sủa núi đồi vượt sang.
Ở đời có cách vui nhàn,
Lọng che xe ruổi phải chăng là người?!
Bài 43
SƠN THÔN
山 村
Vạn sơn thâm xứ tuyệt phong trần,
萬山深處絕風塵
Thác lạc sài môn bế mộ vân.
錯落柴門閉暮雲
Trưởng giả y quan do thị Hán,
長者衣冠猶是漢
Sơn trung giáp tí quýnh phi Tần.
山中甲子迥非秦
Mục nhi giác chủy hoang giao mộ,
牧兒角搥荒郊暮
Cấp nữ đồng liên ngọc tỉnh xuân.
汲女筒連玉井春
Ná đắc khiêu ly phù thế ngoại,
那得跳離浮世外
Trường tùng thụ hạ tối nghi nhân.
長松樹下最宜人
Nguyễn Du
阮 攸
Dịch nghĩa:
XÓM NÚI
Núi sâu gió bụi dứt ra!
Mây chiều cổng khép phên nhà chen đan.
Người già áo mũ Hán mang,
Ngoài Tần lặng lẽ non ngàn tháng năm.
Chiều hôm sừng gõ đồng hoang,
Giếng xuân kéo nước mấy nàng cùng nhau.
Thoát đời trôi nổi mong sao!
Làm người thích hợp biết bao dưới tùng.
Chú thích:
**Tư tưởng thoát tục,
sống đời “an bần lạc đạo” đã được Nguyễn Du đề cập nhiều nơi. Đặc
biệt bài này có cùng các ý tưởng với bài 108 “Hoàng Mai sơn
thượng thôn” trong Bắc Hành Tạp Lục. Nhưng có lẽ bài thơ này do phù
hợp với ý tưởng với bài HMSTT nên xếp vào cuốn Bắc Hành Tạp Lục . Vả
lại ,câu 3 và 4 mang hình ảnh và con người của vùng sơn thôn Trung Hoa
khi Tố Như đi sứ chứ không phải thôn làng vùng núi của nước Việt !
- phong trần 風塵: gió bụi, chỉ cuộc sống nhiều hệ lụy gian
khó.
- câu 3: ước mong của Tố Như là nhà Lê sẽ được khôi phục từ tay Tây Sơn (y như
Hán Quan Vũ tiến vào Lạc Dương đánh bại giặc Vương Mãn thời Tây Hán).
- câu 4: Đào Tiềm trong Đào Nguyên Ký kể lại đời Tần cai trị tàn bạo nên có các
nhóm người rủ nhau bỏ vào núi cao tránh nạn nhà Tần, cũng như các kẻ sĩ như
Nguyễn Du tìm vào núi rừng để ở xa lánh Tây Sơn.
- giáp tí 甲 子: giáp: đứng đầu mười can, tí: đứng đầu mười
chi. Giáp tí tương đương 60 năm cuộc đời.
- quýnh 迥: xa xôi, vắng vẻ, lặng lẽ.
- hoang giao 荒 郊: vùng đất hoang ở ngoài kinh thành 100 dặm.
- đồng 筒: ống bằng tre để làm sáo thổi, cũng chỉ giỏ đan bằng tre hình
ống tròn để múc nước.
- nghi nhân 宜人: người đạt được tâm ý phù hợp.
Bài 44
THÔN DẠ
村 夜
Thanh thảo thôn tiền ngoạ lão ông,
青草村前臥老翁
Giang nam dạ sắc thướng liêm lung.
江南夜色上簾櫳
Mãn thiên minh nguyệt nhất trì thuỷ,
滿天明月一池水
Bán bích hàn đăng vạn thụ phong.
半壁寒登萬樹風
Lão khứ vị tri sinh kế chuyết,
老去未知生計拙
Chướng tiêu thời giác túc tâm không.
障消時覺夙心空
Niên niên kết đắc ngư tiều lữ,
年年結得漁樵侶
Tiếu ngạo hồ yên dã thảo trung.
笑傲湖煙野草中
Nguyễn Du
阮 攸
Có ông lão nằm phía trước thôn Thanh Thảo. Bóng tối từ bờ nam đã trùm lên bức mành che cửa sổ. Trăng sáng đầy trời soi xuống chiếc ao nước. Ngọn đèn lạnh lẽo nơi nửa bức vách trước làn gió thổi lồng muôn ngàn cây. Tuổi già đến vẫn còn vụng về chưa biết về chuyện kế sinh nhai. Khi nhận ra sớm tấm lòng vốn vắng lặng sẽ dứt hết những nghiệp chướng. Bao năm nay vẫn thường kết bạn với những ông ngư, ông tiều. Giữa đám khói nơi hồ và đồng cỏ, (ta) cười ngạo nghễ thỏa thích.
Tạm chuyển lục bát:
XÓM ĐÊM
Ông già nằm trước thôn Thanh,
Bờ nam bóng tối lên mành cửa song.
Đầy trời ao nước trăng trong,
Nửa tường đèn lạnh gió lồng ngàn cây.
Tuổi già kế sống vụng thay,
Nhận ra lòng vắng, chướng này mất tăm!
Ngư tiều kết bạn nhiều năm,
Giữa hồ cười ngạo, khói giăng cỏ đồng.
- tâm không 心空 : tâm vắng lặng, tâm đạt đến sự tĩnh lặng, như
tâm thiền, không bị những tục lụy lôi cuốn, ngăn trở.
- lữ 侶: bạn bè; Nguyễn Du khi về ở ẩn nơi chốn núi Hồng sông Lam vẫn thường kết bạn với ngư chài và tiều phu. Vì thế ông còn có tên là “Hồng Sơn Liệp Hộ” (Phường săn bắn ở núi Hồng) và “Nam Hải Điếu Đồ” (Kẻ chài ở biển Nam).
Lần đến: THTT Bài 45, 46, 47
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét