Thứ Hai, 15 tháng 11, 2021

Thanh Hiên Thi Tập - Bài 42, 43. 44

 


THANH HIÊN THI TẬP - BÀI 42, 43, 44
Thầy Dương Anh Sơn 

Bài 42

LIỆP                                                                        


Y quan đạt giả chí thanh vân,                                   
衣冠達者志青雲
Ngô diệc lạc ngô my lộc quần.                                 
吾亦樂吾麋鹿群
Giải thích nhàn tình an tại hoạch,                             
解釋閒情安在獲
Bính trừ dị loại bất phương nhân.                             
屏除異類不妨仁
Xạ miên thiển thảo hương do thấp,                           
麝眠淺草香猶濕
Khuyển độ trùng sơn phệ bất văn.                           
犬渡重山吠不聞
Phù thế vi hoan các hữu đạo,                                    
浮世為歡各有道
Khu xa ủng cái thị hà nhân.                                       
驅車擁蓋是何人

Nguyễn Du                                                                    

Dịch nghĩa:

Những kẻ áo quần, mũ mão hiển đạt làm quan có chí ở đường mây xanh. Còn ta lại vui thú cùng với bầy hươu nai chỉ tìm sự nhàn nhã vui thú chứ không ham bắt được con thú. Dù có trừ bỏ đi loài giống khác cũng không làm tổn hại lòng nhân. Con cầy hương ngủ trên cỏ non ẩm ướt tỏa mùi thơm; con chó vượt đồi núi chập chùng không nghe được tiếng (sủa). Cuộc đời trôi nổi có nhiều cách để vui vẻ sung sướng. Ruổi rong xe có lọng che đó là ai đây?
 
Tạm chuyển lục bát:

ĐI SĂN

Làm quan chí đạt mây xanh,
Còn ta vui thú quanh bầy hươu nai.
Nào ham bắt, chỉ nhàn vui,
Lòng nhân chẳng hại, trừ loài khác thôi!
Cỏ non xạ ngủ thơm vời,
Không nghe chó sủa núi đồi vượt sang.
Ở đời có cách vui nhàn,
Lọng che xe ruổi phải chăng là người?!

Chú thích:
- y quan 衣冠: áo mão phẩm phục của các quan. Chỉ việc ra làm quan.
- thanh vân 青雲: mây xanh, chỉ con đường làm quan, thăng quan tiến chức (Nguyễn Công Trứ: “Đường mây rộng thênh thang cử bộ, nợ tang bồng trong trắng vỗ tay reo!
- câu 3: Nguyễn Hành là cháu gọi Nguyễn Du bằng chú trong “Minh quyên phả” giải thích việc đi săn của Tố Như là niềm vui thanh thản của bậc đại nhân thong dong giữa rừng núi thiên nhiên chứ không phải là thú đi săn bắt cho được con mồi của phường thợ săn tầm thường.
- hoạch 獲: bắt giữ, bắt được.
- bính trừ 屏除: loại bỏ, trừ diệt.
- xạ 麝: tức con cầy hương có túi xạ chứa hương thơm.
- khu xa 驅車: rong ruổi ngựa xe, thúc xe ngựa chạy.
- ủng cái 擁蓋: dù lọng để che
 

Bài 43

SƠN THÔN                                                                        

Vạn sơn thâm xứ tuyệt phong trần,                                     
萬山深處絕風塵
Thác lạc sài môn bế mộ vân.                                               
錯落柴門閉暮雲
Trưởng giả y quan do thị Hán,                                             
長者衣冠猶是漢
Sơn trung giáp tí quýnh phi Tần.                                          
山中甲子迥非秦
Mục nhi giác chủy hoang giao mộ,                                      
牧兒角搥荒郊暮
Cấp nữ đồng liên ngọc tỉnh xuân.                                         
汲女筒連玉井春
Ná đắc khiêu ly phù thế ngoại,                                            
那得跳離浮世外
Trường tùng thụ hạ tối nghi nhân.                                       
長松樹下最宜人
Nguyễn Du                                                  
                               

Dịch nghĩa:

Ở rất sâu muôn ngọn núi dứt hẳn gió bụi. Mây chiều hôm đan chen với những cánh cổng phên tre. Những người già cả vẫn mặc áo đội mũ thời nhà Hán; sáu mươi năm cuộc đời trong núi vắng vẻ, xa xôi ở ngoài triều Tần. Trẻ nhỏ chăn trâu gõ sừng ở cánh đồng hoang vào lúc chiếu tối; các cô gái cùng nhau kéo nước bằng giỏ tre nơi giếng ngọc vào mùa xuân. Mong sao được thoát rời ra ngoài cuộc đời trôi nổi. Để làm người đạt tâm ý thích thú ngồi dưới cội tùng.
 
Tạm chuyển lục bát:

  XÓM NÚI

 Núi sâu gió bụi dứt ra!
 Mây chiều cổng khép phên nhà chen đan.
Người già áo mũ Hán mang,
Ngoài Tần lặng lẽ non ngàn tháng năm.
Chiều hôm sừng gõ đồng hoang,
Giếng xuân kéo nước mấy nàng cùng nhau.
Thoát đời trôi nổi mong sao!
Làm người thích hợp biết bao dưới tùng.


Chú thích:

**Tư tưởng thoát tục, sống đời “an bần lạc đạo” đã được Nguyễn Du đề cập nhiều nơi. Đặc biệt  bài này có cùng  các ý tưởng với bài 108 “Hoàng Mai sơn thượng thôn” trong Bắc Hành Tạp Lục. Nhưng có lẽ bài thơ này do phù hợp với ý tưởng với bài HMSTT nên xếp vào cuốn Bắc Hành Tạp Lục . Vả lại ,câu 3 và 4 mang hình ảnh và con người của vùng sơn thôn Trung Hoa  khi Tố Như đi sứ chứ không phải thôn làng vùng núi của nước Việt !
- phong trần 風塵: gió bụi, chỉ cuộc sống nhiều hệ lụy gian khó.
- câu 3: ước mong của Tố Như là nhà Lê sẽ được khôi phục từ tay Tây Sơn (y như Hán Quan Vũ tiến vào Lạc Dương đánh bại giặc Vương Mãn thời Tây Hán).
- câu 4: Đào Tiềm trong Đào Nguyên Ký kể lại đời Tần cai trị tàn bạo nên có các nhóm người rủ nhau bỏ vào núi cao tránh nạn nhà Tần, cũng như các kẻ sĩ như Nguyễn Du tìm vào núi rừng để ở xa lánh Tây Sơn.
- giáp tí 甲 子: giáp: đứng đầu mười can, tí: đứng đầu mười chi. Giáp tí tương đương 60 năm cuộc đời.
- quýnh 迥: xa xôi, vắng vẻ, lặng lẽ.
- hoang giao 荒 郊: vùng đất hoang ở ngoài kinh thành 100 dặm.
- đồng 筒: ống bằng tre để làm sáo thổi, cũng chỉ giỏ đan bằng tre hình ống tròn để múc nước.
- nghi nhân 宜人: người đạt được tâm ý phù hợp.
 
Bài 44


THÔN DẠ                                                              

Thanh thảo thôn tiền ngoạ lão ông,                         
青草村前臥老翁
Giang nam dạ sắc thướng liêm lung.                       
江南夜色上簾櫳
Mãn thiên minh nguyệt nhất trì thuỷ,                         
滿天明月一池水
Bán bích hàn đăng vạn thụ phong.                           
半壁寒登萬樹風
Lão khứ vị tri sinh kế chuyết,                                    
老去未知生計拙
Chướng tiêu thời giác túc tâm không.                       
障消時覺夙心空
Niên niên kết đắc ngư tiều lữ,                                   
年年結得漁樵侶
Tiếu ngạo hồ yên dã thảo trung.                                 
笑傲湖煙野草中
Nguyễn Du                                               
                     

   

Dịch nghĩa:

Có ông lão nằm phía trước thôn Thanh Thảo. Bóng tối từ bờ nam đã trùm lên bức mành che cửa sổ. Trăng sáng đầy trời soi xuống chiếc ao nước. Ngọn đèn lạnh lẽo nơi nửa bức vách trước làn gió thổi lồng muôn ngàn cây. Tuổi già đến vẫn còn vụng về chưa biết về chuyện kế sinh nhai. Khi nhận ra sớm tấm lòng vốn vắng lặng sẽ dứt hết những nghiệp chướng. Bao năm nay vẫn thường kết bạn với những ông ngư, ông tiều. Giữa đám khói nơi hồ và đồng cỏ, (ta) cười ngạo nghễ thỏa thích.

Tạm chuyển lục bát:

XÓM ĐÊM

Ông già nằm trước thôn Thanh,
Bờ nam bóng tối lên mành cửa song.
Đầy trời ao nước trăng trong,
Nửa tường đèn lạnh gió lồng ngàn cây.
Tuổi già kế sống vụng thay,
Nhận ra lòng vắng, chướng này mất tăm!
Ngư tiều kết bạn nhiều năm,
Giữa hồ cười ngạo, khói giăng cỏ đồng.


Chú thích:

- lung 櫳: cửa sổ để có thêm ánh sáng vào nhà như cửa song.
- chuyết 拙: vụng về.
- chướng 障: ngăn trở, che chắn, tấm che. Trong đạo Phật dùng chữ “nghiệp chướng” để nói về những ngăn trở không cho chấm dứt nghiệp tức là chấm dứt luân hồi, đạt đến giải thoát.
- giác 覺: thấy rõ, nhận ra, hiểu rõ, biết rõ, khai sáng.
- túc 夙: sớm, cũ, có từ lâu, kính cẩn.

- tâm không 心空 : tâm vắng lặng, tâm đạt đến sự tĩnh lặng, như tâm thiền, không bị những tục lụy lôi cuốn, ngăn trở.

- lữ 侶: bạn bè; Nguyễn Du khi về ở ẩn nơi chốn núi Hồng sông Lam vẫn thường kết bạn với ngư chài và tiều phu. Vì thế ông còn có tên là “Hồng Sơn Liệp Hộ” (Phường săn bắn ở núi Hồng) và “Nam Hải Điếu Đồ” (Kẻ chài ở biển Nam). 

Dương Anh Sơn 

Lần đến: THTT Bài 45, 46, 47                     

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét