BÀI 35/1
ỨC ĐÔNG SƠN (KỲ NHẤT) 憶東山(其一)
Bất hướng Đông sơn cửu,
不向東山久,
Tường vi kỷ độ
hoa?
薔薇幾度花。
Bạch vân hoàn tự
tán,
白雲還自散,
Minh nguyệt lạc thùy
gia?
明月落誰家。
Lý Bạch
李白
Nhớ Đông Sơn (bài một).
Đã lâu không quay về Đông Sơn. Cây tường vi đã đơm hoa mấy lần? Đám mây trắng có còn tản mát bay không? Vầng trăng sáng (thuở trước) giờ đã gieo rụng xuống nhà của người nào đây?!
NHỚ ĐÔNG SƠN (Bài một)
Lâu không về lại Đông Sơn,
Cây tường vi đã đơm hoa bao lần?
Có còn mây trắng tản giăng?
Nhà ai rơi xuống vầng trăng sáng ngời?!
ỨC ĐÔNG SƠN (Kỳ nhị) 憶東山 (其二)
Ngã kim huề Tạ kỹ,
我今攜 謝 妓,
Trường khiếu tuyệt
nhân quần.
長嘯絕人群。
Dục báo Đông Sơn
khách,
欲報東山客,
Khai quan tảo bạch
vân.
開關掃白雲。
Lý Bạch
李白
Nhớ Đông Sơn (bài hai).
Nay dìu nàng kỹ nữ của nhà họ Tạ theo ta; (ta) hú dài dứt bỏ hẳn loài người. Muốn báo tin cho người khách ở (núi) Đông Sơn hãy mở cửa ra để quét đám mây trắng.
Tạm dịch:
NHỚ ĐÔNG SƠN ( Bài hai).
Nay ta dìu gái Tạ,
Hú dài, bỏ loài người.
Khách Đông Sơn muốn báo,
Mở quét mây trắng thôi!
Sàng tiền khan nguyệt quang,
床前看月光,
Nghi thị địa thượng
sương.
疑是地上霜。
Cử đầu vọng minh nguyệt, 舉頭望明月,
Đê đầu tư cố hương.
低頭思故鄉。
Lý Bạch
李白
Nghĩ ngợi trong đêm vắng.
NGHĨ NGỢI TRONG ĐÊM VẮNG.
Nhìn trăng chiếu sáng trước giường,
Ngỡ là mặt đất tỏa sương la đà.
Ngẩng nhìn trăng tỏ bao la,
Cúi đầu thương nhớ quê nhà xót xa.
Chú thích:
- tứ 思: ý tứ, nghĩ ngợi những vấn đề trong lòng, buồn thương, thương
nhớ, suy nghĩ...Nhiều khi vẫn thường dùng nghĩa chữ tứ như âm của nó là tư:
nghĩ ngợi, nghĩ đến, thương nhớ xót xa (VD: tư thu 思 秋 nghĩa là thương
nhớ xót xa mùa thu)
- nghi thị 疑 是: ngỡ là, nghi là, nghi ngờ là...
Bài 37/1
THU TỨ (Kỳ nhất) 秋思 ( 其一)
Yên Chi hoàng diệp lạc,
燕支黃葉落,
Thiếp vọng tự đăng
đài.
妾望自登臺。
Hải thượng bích vân
đoạn,
海上碧雲斷,
Thiền Vu thu sắc
lai,
單于秋色來。
Hồ binh sa tái
hợp.
胡兵沙塞合,
Hán sứ Ngọc Quan
hồi,
漢使玉關回。
Chinh khách vô quy
nhật.
征客無歸日,
Không bi huệ thảo
tồi.
空悲蕙草摧。
Lý Bạch
李白
Vùng đất Yên Chi lá vàng đã rơi rụng. Thiếp lên lầu để từ đây trong ngóng chốn
xa xôi: (Thiếp như nhìn thấy) mây xanh trên biển chia cắt rời rạc; vùng Thiền
Vu sắc thu đã đến rồi; quân lính Hồ tụ họp nhau nơi bãi cát ngoài nơi biên tái;
sứ nhà Hán đã quay trở về từ ải Ngọ. Người khách đi xa không có ngày trở lại,
lặng lẽ buồn thương cho cây cỏ huệ phải hao gầy, tàn phai!
Ý THU (Bài 1)
- vô quy nhật 無 歸 日: không có ngày trở về. Không biết ngày nào quay trở về...
THU TỨ (Kỳ nhị) 秋思 (其二)
Thu phong thanh,
秋風清,
Thu nguyệt minh. 秋月明.
Lạc diệp tụ hoàn
tán, 落葉聚還散,
Hàn nha thê phục kinh. 寒鴉棲复驚.
Tương tư, tương kiến tri hà nhật?
相思相見知何日,
Thử thì, thử dạ nan vi
tình... 此時此夜難為情.
Lý Bạch
李 白
Những suy nghĩ lúc mùa thu (Bài 2)
Gió thu trong lành, mát mẻ. Trăng thu sáng sủa. Lá vàng rơi rụng tụ lại rồi tản mát rời nhau. Con quạ ngủ lạnh lẽo bỗng lại giật mình. Thương nhớ nhau nhưng biết ngày nào mới gặp nhau! Đêm này, vào thời gian ấy, đã khiến cho tình cảm dâng trào khó tả!
Tạm dịch thơ:
Ý THU ( Bài 2)
Trăng thu sáng,
Gió trong vời,
Rụng rơi lá tụ lại rời nhau ra.
Giật mình quạ ngủ sa đà,
Nhớ nhau, mong gặp biết là ngày nao?!
Thủa nào, đêm ấy, khó sao!.....
- nha 鴉: con quạ khoang .Quạ
có màu đen gọi là ô. Màu đen.
- thê 棲 (tê): chim đậu cây
nghỉ ngơi hoặc ngủ đêm , chỗ nằm nghỉ
Bạch ngọc nhất bôi tửu,
白玉一杯酒,
Lục dương tam nguyệt
thì.
綠楊三月時。
Xuân phong dư kỷ
nhật?
春風餘幾日?
Lưỡng mấn các thành ti .
兩鬢各成絲。
Bỉnh chúc duy tu
ẩm,
秉燭唯須飲,
Đầu can dã vị
trì.
投竿也未遲。
Như phùng Vị Xuyên
liệp (lạp), 如逢渭川獵,
Do khả đế vương si
(sư).
猶可帝王師。
Lý Bạch
李 白
Tặng Tiền trưng quân Thiếu Dương.
Một bôi ngọc trắng rượu đong,
Hàng dương xanh thắm đang còn tháng ba.
Gió xuân mấy bữa sẽ qua?
Hai bờ mái tóc tơ đà giăng giăng.
Chong đèn nên uống rượu tràn,
Buông câu chưa phải muộn màng lắm đâu!
Đi săn sông Vị gặp nhau,
Vẫn còn được thể trao làm thầy vua!
Saigon, th.6/2017
- do khả 猶可: còn được, tạm được, có
thể được....
Dương Anh Sơn
(Lần đến: Bài 39, 40: Trường Can Hành 1&2. Bài 41: Tô Đài Lãm Cổ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét