Thứ Hai, 29 tháng 11, 2021

Thơ Lý Bạch - Bài 35/1, 35/2, 36, 37/1, 37/2, 38

 


THƠ LÝ BẠCH - BÀI 35/1, 35/2, 36, 37/1, 37/2, 38
Thầy Dương Anh Sơn

BÀI 35/1 

ỨC ĐÔNG SƠN (KỲ NHẤT)                                    憶東山(其一)


Bất hướng Đông sơn cửu,                                             
不向東山久,

Tường vi kỷ độ hoa?                                                     薔薇幾度花。

Bạch vân hoàn tự tán,                                                    白雲還自散,

Minh nguyệt lạc thùy gia?                                             明月落誰家。

Lý Bạch                                                                        李白


Dịch nghĩa:

Nhớ Đông Sơn (bài một).

Đã lâu không quay về Đông Sơn. Cây tường vi đã đơm hoa mấy lần? Đám mây trắng có còn tản mát bay không? Vầng trăng sáng (thuở trước) giờ đã gieo rụng xuống nhà của người nào đây?!


Tạm chuyển lục bát:


NHỚ ĐÔNG SƠN (Bài một)

Lâu không về lại Đông Sơn,
Cây tường vi đã đơm hoa bao lần?
Có còn mây trắng tản giăng?
Nhà ai rơi xuống vầng trăng sáng ngời?!


Chú thích:
- Đông Sơn 東山: núi ở tây nam huyện Thương Ngu, Chiết Giang, Trung Hoa.
- hướng 向: quay về, xoay về, ngoảnh về, hướng về...
- tường vi 薔薇: loài hoa cánh mỏng thân leo, có nhiều màu như hồng, hồng nhạt, tím đỏ nhạt… v.v... còn gọi là tử vi (cùng họ với hoa bằng lăng) có nhiều ở các vùng phía đông nam, tây nam Trung Hoa và nhiều nước châu Á.
- kỷ độ 幾度: bao lần, mấy lần...
- hoàn 還: vẫn còn, quay trở lại, né tránh...

Bài 35/2

ỨC ĐÔNG SƠN (Kỳ nhị)                                   憶東山 (其二)

Ngã kim huề Tạ kỹ,                                               我今攜 妓,

Trường khiếu tuyệt nhân quần.                             長嘯絕人群

Dục báo Đông Sơn khách,                                    欲報東山客,

Khai quan tảo bạch vân.                                        開關掃白雲。

Lý Bạch                                                                李白

Dịch nghĩa:

Nhớ Đông Sơn (bài hai).

Nay dìu nàng kỹ nữ của nhà họ Tạ theo ta; (ta) hú dài dứt bỏ hẳn loài người. Muốn báo tin cho người khách ở (núi) Đông Sơn hãy mở cửa ra để quét đám mây trắng.

Tạm dịch:

NHỚ ĐÔNG SƠN ( Bài hai).

Nay ta dìu gái Tạ,
Hú dài, bỏ loài người.
Khách Đông Sơn muốn báo,
Mở quét mây trắng thôi!


Chú thích:
- Tạ kỹ 謝 妓: những cô gái làm nghề múa hát hầu hạ trong nhà Tạ An. Tạ An 謝 安 (320 - 385),  tên tự là An Thạch (安石), nguyên quán ở huyện Lịch Dương, T.H. Ông là nhà chính trị, quân sự lớn làm đại thần dưới thời Đông Tấn trong lịch sử Trung Hoa. Ngay từ thời trẻ, Tạ An đã tỏ ra là người thông minh. Khi trưởng thành, ông từ chối chức quan nhỏ được nhận, lui về ẩn cư ở Đông Sơn vui thú điền viên cùng các cô kỹ nữ. Mãi đến năm 360, khi tuổi gần 40, Tạ An theo lời mời gọi của triều đình mới tái xuất, trở lại làm quan, giữ chức Tư mã triều Đông Tấn. Dần dà họ Tạ nắm nhiều quyền bính, xây dựng chính sách giữ yên ổn cho Đông Tấn suốt hai mươi năm cùng với võ quan Hằng Xung. Tạ An còn được người đời đặt tên là "người khách Đông Sơn" (Đông Sơn khách)
- trường khiếu 長 嘯: tiếng hú, tiếng rống kéo dài, lanh lãnh tương tự như tiếng vượn hú! (khác với trường tức 長 息 là tiếng thở dài).
- tuyệt 絕: dứt hẳn, bỏ hết, tiêu diệt, chỉ có một không hai, cạn hết...
- nhân quần 人 群: loài người, đám đông, đám người quần tụ với nhau...

BÀI 36

TĨNH DẠ TỨ                                                           靜夜思

Sàng tiền khan nguyệt quang,                                   床前看月光,

Nghi thị địa thượng sương.                                       疑是地上霜。

Cử đầu vọng minh nguyệt,                                        舉頭望明月,

Đê đầu tư cố hương.                                                  低頭思故

Lý Bạch                                                                    李白

Dịch nghĩa:

Nghĩ ngợi trong đêm vắng.

Nhìn ánh trăng chiếu sáng trước chiếc giường nằm ngủ, cứ ngỡ là trên mặt đất sương giăng tỏa nơi nơi. Ngẩng đầu lên: nhìn vầng trăng sáng; cúi đầu xuống: lòng thương nhớ quê nhà dạt dào ,xót xa...

Tạm chuyển lục bát:


NGHĨ NGỢI TRONG ĐÊM VẮNG.
 
Nhìn trăng chiếu sáng trước giường,
Ngỡ là mặt đất tỏa sương la đà.
Ngẩng nhìn trăng tỏ bao la,
Cúi đầu thương nhớ quê nhà xót xa.


Chú thích:
- tứ 思: ý tứ, nghĩ ngợi những vấn đề trong lòng, buồn thương, thương nhớ, suy nghĩ...Nhiều khi vẫn thường dùng nghĩa chữ tứ như âm của nó là tư: nghĩ ngợi, nghĩ đến, thương nhớ xót xa (VD: tư thu 思 秋 nghĩa là thương nhớ xót xa mùa thu)

- nghi thị 疑 是: ngỡ là, nghi là, nghi ngờ là...


Bài 37/1

THU TỨ (Kỳ nhất)                                                 秋思 ( 其一)

Yên Chi hoàng diệp lạc,                                            燕支黃葉落,

Thiếp vọng tự đăng đài.                                            妾望自登臺。

Hải thượng bích vân đoạn,                                        海上碧雲斷,

Thiền Vu thu sắc lai,                                                 單于秋色來。

Hồ binh sa tái hợp.                                                    胡兵沙塞合,

Hán sứ Ngọc Quan hồi,                                             漢使玉關回。

Chinh khách vô quy nhật.                                         征客無歸日,

Không bi huệ thảo tồi.                                               空悲蕙草摧。

Lý Bạch                                                                    李白


Dịch nghĩa:
Những suy nghĩ lúc mùa thu (Bài 1)

Vùng đất Yên Chi lá vàng đã rơi rụng. Thiếp lên lầu để từ đây trong ngóng chốn xa xôi: (Thiếp như nhìn thấy) mây xanh trên biển chia cắt rời rạc; vùng Thiền Vu sắc thu đã đến rồi; quân lính Hồ tụ họp nhau nơi bãi cát ngoài nơi biên tái; sứ nhà Hán đã quay trở về từ ải Ngọ. Người khách đi xa không có ngày trở lại, lặng lẽ buồn thương cho cây cỏ huệ phải hao gầy, tàn phai!


Tạm chuyển lục bát:

Ý THU (Bài 1)

Yên Chi rơi rụng lá vàng, 
Lên đài, thiếp ngóng miên man trông vời:
Mây xanh trên biển chia rời,
Sắc thu đã đến nơi vùng Thiền Vu.
Họp nhau cát ải lính Hồ,
Ngọc Quan sứ Hán về từ ải đây.
Khách đi trở lại không ngày,
Lặng buồn cỏ huệ hao gầy tàn phai!

Chú thích:
- Yên Chi 燕 支: vùng đất phía bắc Trung Hoa, giáp với ải Ngọc Quan là nơi sinh sống của các bộ tộc Đột Quyết, Hung Nô, Hồ Đột... thường đem quân xuống trung nguyên đánh phá nên nhà Hán phải thường xuyên bắt trai tráng vào lính để đối phó.
- vân đoạn 雲 斷: mây bị chia cắt thành từng đoạn, tách rời ra...
- Thiền Vu 單 于: tên gọi các vua của bộ tộc Hung Nô, Đột Quyết cũng dùng để chỉ những vùng các bộ tộc du mục trên sinh sống chiếm đóng.
- tái 塞: nơi canh gác, ải đồn vùng biên giới, biên tái...
- chinh khách 征 客: người khách đi xa.

- vô quy nhật  無 歸 日: không có ngày trở về. Không biết ngày nào quay trở về...

- không bi 空 悲: lặng lẽ với nỗi buồn sầu .
- huệ thảo 蕙草: một loại cỏ thơm, cây bông huệ có hương thơm nhẹ nhàng tượng trưng cho sự thanh thoát, trong trắng.
- tồi 摧: tàn tạ, hủy hoại, bẻ gãy, hao gầy, rút lui, đẩy, đến nơi, buồn bã bi thương...

Bài 37/2

THU TỨ (Kỳ nhị)                                                 秋思 (其二)

Thu phong thanh,                                                   秋風清,

Thu nguyệt minh.                                                   秋月明.

Lạc diệp tụ hoàn tán,                                              落葉聚還散,

Hàn nha thê phục kinh.                                          寒鴉棲复驚.   

Tương tư, tương kiến tri hà nhật?                          相思相見知何日,

Thử thì, thử dạ nan vi tình...                                  此時此夜難為情.

Lý Bạch                                                                 

Dịch nghĩa:

Những suy nghĩ lúc mùa thu (Bài 2)

Gió thu trong lành, mát mẻ. Trăng thu sáng sủa. Lá vàng rơi rụng tụ lại rồi tản mát rời nhau. Con quạ ngủ lạnh lẽo bỗng lại giật mình. Thương nhớ nhau nhưng biết ngày nào mới gặp nhau! Đêm này, vào thời gian ấy, đã khiến cho tình cảm dâng trào khó tả!

Tạm dịch thơ:

Ý THU ( Bài 2)

Trăng thu sáng,
Gió trong vời,
Rụng rơi lá tụ lại rời nhau ra.
Giật mình quạ ngủ sa đà,
Nhớ nhau, mong gặp biết là ngày nao?!
Thủa nào, đêm ấy, khó sao!.....

Chú thích:
- Đây là bài thơ Cổ phong làm theo thể "tam ngũ thất ngôn" gồm hai câu ba chữ, tiếp đến hai câu năm chữ và cuối là hai câu bảy chữ.

- nha 鴉: con quạ khoang .Quạ có màu đen gọi là ô. Màu đen.

- thê 棲 (tê): chim đậu cây nghỉ ngơi hoặc ngủ đêm , chỗ nằm nghỉ

- phục kinh 复驚: lại giật mình
 - nan vi tình 難為情: tình cảm nồng nàn sâu đậm khó tả.

BÀI 38

TẶNG TIỀN TRƯNG QUÂN THIẾU DƯƠNG                


Bạch ngọc nhất bôi tửu,                                                          
白玉一杯酒,

Lục dương tam nguyệt thì.                                                      綠楊三月時。

Xuân phong dư kỷ nhật?                                                         春風餘幾日?

Lưỡng mấn các thành ti .                                                         兩鬢各成絲。

Bỉnh chúc duy tu ẩm,                                                              秉燭唯須飲,

Đầu can dã vị trì.                                                                    投竿也未遲。

Như phùng Vị Xuyên liệp (lạp),                                            如逢渭川獵,

Do khả đế vương si (sư).                                                        猶可帝王師。

Lý Bạch                                                                                

Dịch nghĩa:

Tặng Tiền trưng quân Thiếu Dương.

Uống một ly rượu rót trong chén ngọc màu trắng. Hàng cây dương màu xanh lục đang lúc tháng ba. Gió xuân còn dư được bao nhiêu ngày? Mái tóc hai bên đều đã thành tơ bạc trắng! Chong đèn lên chỉ nên uống rượu thôi ! Buông cần câu cá cũng chưa muộn màng!
Nếu đi săn ở sông Vị gặp nhau, vẫn có thể được làm thầy của vua chúa!

Tạm chuyển lục bát:

TẶNG TIỀN TRƯNG QUÂN THIẾU DƯƠNG.

Một bôi ngọc trắng rượu đong,
Hàng dương xanh thắm đang còn tháng ba.
Gió xuân mấy bữa sẽ qua?
Hai bờ mái tóc tơ đà giăng giăng. 
Chong đèn nên uống rượu tràn,
Buông câu chưa phải muộn màng lắm đâu!
Đi săn sông Vị gặp nhau,
Vẫn còn được thể trao làm thầy vua!

Saigon, th.6/2017

Chú thích :
- trưng quân 徵君: chức vụ đón tiếp những kẻ sĩ được mời vào cung.
- tu 須: chờ đợi, nên .cần, gấp, thoáng chốc...
- đầu can 投竿: buông cần câu cá, thả cần câu buông dây để câu cá.
- trì 遲: muộn, đi chậm, chậm trễ, chậm lụt...
- Vị Xuyên liệp 渭川獵: thủ lĩnh bộ tộc nhà Chu là Tây Bá Cơ Xương khi chưa khởi nghĩa chống nhà Thương của Trụ vương khi đi săn gặp Khương Thượng 姜尚 tự là Tử Nha 子牙 đang ngồi câu cá bên dòng sông Vị. Cơ Xương nhớ lời dặn của bậc trưởng thượng trước đây là Thái công nhà Chu báo trước sẽ gặp người tài khi đi săn.Cơ Xương hỏi han và bàn luận biết Tử Nha là người có thực tài nên cho xe rước về tôn làm thầy. Khương Thượng giúp nhà Chu chấn chỉnh việc nội trị, rèn luyện binh lính trở nên một nước mạnh .Cơ Xương mất, con là Cơ Phát lên thay liên kết với các chư hầu khác tiêu diệt được nhà Thương của Trụ vương bạo tàn. Khương Tử Nha có công hàng đầu khi dẫn quân đánh thẳng kinh đô nhà Thương diệt vua Trụ, mở rộng lãnh thổ và cơ nghiệp cho nhà Chu được 800 năm .Ông được tôn làm Thái Công Vọng 太公望 ( mong ước của Thái công) như là một khai quốc công thần nhà Chu.

- do khả  猶可: còn được, tạm được, có thể được....

Dương Anh Sơn 

(Lần đến: Bài 39, 40: Trường Can Hành 1&2. Bài 41: Tô Đài Lãm Cổ) 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét